



















Preview text:
lOMoAR cPSD| 61527594
HỆ THỐNG THỂ LOẠI VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Thể loại là một kí ức sáng tạo của nhân loại
Hệ thống thể loại VHVNHĐ: Thơ, văn xuôi, kịch A. TIỂU THUYẾT
1. Khái niệm 2. Đặc trưng
- Là một hình thức tổng hợp của văn xuôi hư cấu (bản chất của tiểu thuyết là hư cấu).
- Được xây dựng trên nhiều sự kiện, biến cố, cảnh ngữ, nhiều mối xung đột phi
lậptrung hoá, đa dạng điểm nhìn nhân vật, tính cách, tạo nên những mối quan hệ
chồng chéo với những diễn biến tâm lí đa dạng.
- Mở rộng chiều kích không gian, thời gian, không bị giới hạn bởi dung lượng
phảnánh, có khả năng dựng lên những bức tranh hoành tráng về mặt XH.
- Tư duy của tiểu thuyết là tư duy về cái “đang là”.
- Có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng nghệ thuật của các loại hình
nghệthuật khác (điện ảnh, hội hoạ, sân khấu), các thể loại văn học khác (thơ, phóng
sự, nhật kí, truyện ngắn,…).
3. Phân tích tiểu thuyết theo đặc trưng thể loại - Đề tài, chủ đề - Cốt truyện - Nhân vật - Kết cấu
- Điểm nhìn trần thuật
4. Lịch sử hình thành, phát triển của tiểu thuyết Việt Nam * Thời trung đại: -
Tiểu thuyết chương hồi: Hoàng Lê nhất thống chí, Nam triều công nghiệp
diễn chí, Hoàng Việt Long hung chí. -
Tiểu thuyết lịch sử: Thiên Nam liệt truyện, Nam triều công nghiệp diễn chí,
Việt Nam tiểu sử,…. * Cận hiện đại
- Tiểu thuyết chương hồi: Phan Yến ngoại từ tiết phụ gian truân (Trương Duy Toàn)
Hoàng Tố Anh hàm oan (Trần Thiên Trung tức Trần Chánh Chiếu)
Hà Hương phong nguyệt (Lê Hoằng Mưu)
Giấc mộng con (Tản Đà) - Tiểu thuyết lịch sử
Trần Quang tâm sử (Phan Bội Châu) lOMoAR cPSD| 61527594
* Hiện đại: bắt đầu nở rộ từ 1920 – 1930, phong phú, đa dạng
- Tiểu thuyết tâm lí/ diễm tình: Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) (tiểu thuyết VNHĐ
đầu tiên), Kim Anh lệ sử (Trọng Khiêm),…
- Tiểu thuyết mô phỏng: Hồ Biểu Chánh
- Tiểu thuyết luận đề: tự lực văn đoàn (Bướm trắng, Con đường xám,…)
- Tiểu thuyết đường rừng: Lan Khai, Thế Lữ,…
- Tiểu thuyết trào phúng: Vũ Trọng Phụng (Số đỏ)
- Tiểu thuyết lãng mạn, hiện thực
- Tiểu thuyết lịch sử: Tiếng sấm đêm đông (1928), Đinh Tiên Hoàng (1929), Lê Đại Hành (1929),…
* Giai đoạn: (1945 – 1975) - Tiểu thuyết LS:
Lan Khai: Treo bức chiến bào (1940), Toan Ánh – thanh gươm Bắc Việt (195)),
Nguyễn Huy Tưởng - Sống mãi với thủ đô 1960), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960),
Tổ quốc kêu gọi (1972),… - Tiểu thuyết sử thi:
Vỡ bờ, Đất nước đứng lên, Sống mãi với thủ đô, Vùng trời, Dấu chân người lính, …
- Tiểu thuyết tâm lí: Bình Nguyên Lộc, Đò dọc (1959), Ái ân thâu ngắn cho dài
tiếc thương (1963), Hoa hậu Hồ Đào (1963),…
- Tiểu thuyết luận đề: Đoàn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Thanh Tâm Tuyền, Nhất Hạnh
- Tiểu thuyết hiện sinh: Nguyễn Thị Hoàng, Vũ Hồng,…
* Giai đoạn sau 1975
- Tiểu thuyết lịch sử: Võ Thị Hảo – Giàn Thiêu, Búp sen xanh – Sơn Tùng,….- Tiểu thuyết sử thi - Tiểu thuyết phóng sự
- Tiểu thuyết hậu hiện đại
- Tiểu thuyết trinh thám: Trại hoa đỏ
- Tiểu thuyết tự thuật - Tiểu thuyết tư liệu
* So sánh tiểu thuyết trung đại và hiện đại trên những nét lớn
(Văn tự, cốt truyện, nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn trần thuật, kết cấu,…) Trung đại Hiện đại
Viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu Viết bằng chữ quốc ngữ là chữ Hán
Chú ý đến chi tiết, sự việc
Đặc biệt chú ý tới việc khai thác thế giới
bên trong của nhân vật: tâm trạng, lOMoAR cPSD| 61527594
cảm xúc, sự biến đổi tinh vi trong nhận thức của con người
Cốt truyện đơn giản, đơn tuyến, thời Cốt truyện đa tuyến, phức tạp. Thời gian gian tuyết tính
tuyết tính hoặc có sự xoá trộn
Chú trọng chi tiết, sự việc nên tâm lí và Nhân vật có chiều sâu, phức tạp, đa
dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật diện chỉ là sơ lược
Thường kể theo ngôi thứ 3, người kể Người kể đa dạng: ngôi thứ 3, ngôi thứ
chuyện là người biết hết, biết tuốt, điểm 1 hoặc kết hợp nhiều ngôi kể điểm nhìn nhìn bên ngoài
bên trong hoặc thay đổi linh hoạt điểm nhìn Kết cấu chương hồi
Kết cấu theo chương, đoạn, khúc KẾT LUẬN: -
Tiểu thuyết ở Việt Nam là một thể loại có lịch sử phát triển lâu dài, mạnh
mẽ,phong phú phức tạp và có nhiều thành tựu. -
Tuỳ mỗi giai đoạn mà có những tiểu loại vẫn tiếp tục phát triển và có nhiều
thànhtựu, có tiểu loại nổi trội hoặc non lép hơn các tiểu loại khác phụ thuộc và hoàn
cảnh khách quan, nhu cầu tự thân của người viết và người đọc.
5. Phân loại tiểu thuyết
- Phạm Quỳnh: Tiểu thuyết ngôn tình, tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết truyền kì - Vũ
Ngọc Phan (1942) phân thành: Phong tục, luận đề, luân lí, xã hội, truyền kì, hoạt
kê, tả chân, tình cảm, trinh thám, phóng sự
- Võ Phiến phân chia tiểu thuyết 45 – 54
+ Dòng truyền thống: khuynh hướng luận đề, xã hội, phong tục, tình cảm, luân lí, tâm lí, tả chân.
+ Dòng phản truyền thống: Khuynh hướng phản ứng trong suy tưởng, phản ứng
trong nếp sống (hiện sinh), phản ứng trong bút pháp (tiểu thuyết mới).
Nhận xét: Có thể dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân loại (đề tài, bút pháp
sáng tác, thi pháp thể loại, trào lưu – khuynh hướng, sự giao thoa giữa các thể q
TIỂU THUYẾT LUẬN ĐỀ I. Khái niệm
GS. Susan Rubin Suleiman
- Trùng điệp luận đề tư tưởng, chính trị, xã hội, luân lí
- Luận đề được bộc lộ trực tiếp nhiều lần đến mức thừa thãi
- Chỉ có một ý nghĩa rõ ràng, chính xác, đơn nhất, không đa âm, đủ để thuyết
phụcngười đọc. Nhất Linh lOMoAR cPSD| 61527594
- Viết tiểu thuyết luận đề là viết tiểu thuyết để nêu lên một lí thuyết, để tán
dươngtuyên truyền một cái gì mà tác giả cho là đẹp; đả đảo một cái gì tác giả cho là xấu xa.
KL: Tiểu thuyết luận đề là những tác phẩm được viết ra nhằm khẳng định một
luận đề dường như có sẵn, một ý đồ, tư tưởng về triết lí nhân sinh. Toàn bộ tác phẩm
tập trung định hướng vào luận đề, từ cốt truyện nhân vật cho đến các chi tiết.
II. Tiểu thuyết luận đề và thực tiễn sáng tác
- Điều kiện phát triển: trong những thời kì hình thành những tư tưởng triết học vàmĩ
học mới, những chủ thuyết chính trị và đạo đức mới, những thời kì đổi mới tư
duy,… có sự chuyển biến từ hệ tư tưởng này sang tư tưởng khác.
- Tiểu thuyết luận đề tiêu biểu:
+ Thời trung đại: Truyền kì mạn lục
+ Đầu TK XX: Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt, Gia đình, Thoát li, Con đường sáng,
Lạnh lùng, Hai vẻ đẹp,…
+ Sau 1975: Đám cưới không có giấy giá thú, Thời gian của người, Thời xa vắng, …
III. Thực hành phân tích một TT luận đề tiêu biểu
- Xác định luận đề của tiểu thuyết
- Luận đề đó được thể hiện qua các phương diện nào của TT? (Nhan đề, Cốt truyện,
Nhân vật, Kết cấu, Sự kiện, Tình tiết – chi tiết, Lời người kể chuyện,….)
- Nhận xét về NT thể hiện luận đề
* TT Nửa chừng xuân – Khái Hưng
- Luận đề: Sự tương phản đấu tranh giữa ý thức cá nhân với đại gia đình phong kiến,
tập tục cổ hủ đòi quyền sống, hạnh phúc cá nhân:
+ Đề tài: tình yêu, hôn nhân, gia đình
+ Cốt truyện truyền thống là cốt truyện sự kiện (kết nối chặt chẽ, cái này dẫn đến cái
khác) Ở đây cốt truyện được nới lỏng cốt truyện tâm lí.
+ Kết cấu: đối lập, tương phản
+ Nhân vật: Nhân vật đại diện cho thế hệ trẻ >< nhân vật đại diện cho thế hệ già bảo thủ.
+ Lời trữ tình ngoại đề
+ Giọng điệu luận chiến giữa cái cũ và cái mới TIỂU THUYẾT TÂM LÍ I. Khái niệm
- Đặt trọng tâm ở việc miêu tả diễn biến tâm lí, động cơ, cảnh ngộ của nhân vật. Loại
này không thoả mãn với việc kể chuyện nhân vật mà muốn giải thích nguyên nhân
tâm lí bên trong. Các tác giả thường coi trọng quan sát, phân tích những biểu hiện
khác thường, chú ý những trường hợp tâm lí biến thái, mâu thuẫn. lOMoAR cPSD| 61527594
II. Các phương diện chính yếu của tiểu thuyết tâm lí
- Cốt truyện tâm lí, không phải cốt truyện sự kiện
- Kết cấu tâm lí, tính chất hướng nội
- Cảm hứng chủ đạo: khám phá, phân tích tâm lí nhân vật
- Nhân vật suy nghĩ, không phải nhân vật hành động
- Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật, độc thoại nội tâm, kĩ thuật “dòng ý thức”.
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ I. Khái niệm
- Tiểu thuyết lịch sử là một loại của tiểu thuyết chuyên viết về những nhân vật và sự
kiện có thật trong lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử không chỉ kể lại sự kiện lịch sử và nhân
vật, mà còn tái hiện lại cuộc sống con người với cả không khí thời đại, các chi tiết
về tâm hồn, cá tính, trang phục, nhà ở, đồ dùng, lời ăn tiếng nói, bài ca, trò chơi,…
và đặc biệt miêu tả đời sống cụ thể sinh động của nhân vật lịch sử, một trải nghiệm
của con người có tính cách, cá tính trong dòng chảy của lịch sử, khiến cho người
đọc không chỉ đọc một câu chuyện mà còn sống, thể nghiệm với thời đại ấy.
II. Mối quan hệ giữa lịch sử và tiểu thuyết lịch sử
- Trong VHVN thế kỉ XX Những vấn đề lịch sử và lí luận: “Lịch sử là cuốn tiểu
thuyết đã viết xong, tiểu thuyết là lịch sử có thể sẽ diễn ra như thế… Thượng đế
chẳng làm gì được với lịch sử nữa, nhưng con người thì còn có thể viết lịch sử và
làm thay đổi hình dạng của nó”. III. Tiểu thuyết lịch sử - các hướng đi
Vấn đề hư cấu trong TT lịch sử khiến TTLS được phân thành 2 hướng dưới đây:
- Lịch sử được tiểu thuyết hoá: coi trọng sự thực lịch sử
VD: Mười hai sứ quân, Bắn rụng mặt trời (Vũ Ngọc Đĩnh), Bóng nước hồ Gươm,
Bút nghiên (Chu Thiên), Cờ nghĩa Ba Đình (Thái Vũ), Đêm hội Long Trì, An Tư,
Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Bão táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải), …
- Tiểu thuyết hoá LS: trọng hư cấu, quan niệm: tiểu thuyết trước hết phải là
tiểuthuyết (thậm chí có thể lấn sang các địa hạt khác nữa). Nếu đòi hỏi sự chính
xác thì tiểu thuyết không thể địch với sử kí. Người đọc không cần cung cấp kiến
thức, lịch sử chỉ là phương tiện để đạt tới những mục đích khác nhau. Nhà văn sáng
tạo tiểu thuyết dưới cái vỏ lịch sử.
VD: Gió lửa (Nam Dao), Sông Côn mùa lũ (Nguyễn Mộng Giác), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh),…
Quan niệm mở rộng này không khiến TT LS tàn lụi mà hồi sinh với một sức sống mới.
Sự bất đồng trong quan niệm về tiểu thuyết LS: lOMoAR cPSD| 61527594
- Quan niệm về vấn đề hư cấu, giữa hư cấu và sự thực lịch sử
- Các nhân vật của TTLS phải sinh động hơn các nhân vật LS, vì các nhân vật củatiểu
thuyết lịch sử được trao cho sự sống, còn các cá nhân lịch sử thì đã sống.
TIỂU THUYẾT THEO PHONG CÁCH HẬU HIỆN ĐẠI
Lí thuyết Hậu hiện đại, đặc trưng, quan niệm, tư tưởng
Tiểu thuyết nào xếp vào TT Hậu hiện đại
Thiên sứ, thiên thần sám hối
Đọc TT Nguyễn Bình Phương TRUYỆN NGẮN
- Khái niệm: là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, tập trung mô tả một mảnh của cuộc
sống, một biến cố xảy ra trong một giai đoạn nào đó của đời sống nhân vật, biểu
hiện một mặt nào đó của tính cách nhân vật, thể hiện một khía cạnh nào đó của vấn đề xã hội.
- Đặc trưng của truyện ngắn:
+ ngắn, hàm súc, dồi dào
+ Tiểu thuyết: tái hiện một cuộc đời, truyện
ngắn; tái hiện một lát cắt của đời sống. + cốt truyện đơn giản + ít nhân vật
+ giản lược không gian và thời gian + chú trọng chi tiết
+ hành động thường diễn ra với tốc độ nhanh
+ kết thúc thường bất ngờ
- Truyện ngắn ở Việt Nam :
QĐ 1: có từ lâu đời, từ thời trung đại đã có mầm mống.
Quan điểm 2: chưa có từ thời trung đại, xuất hiện từ thời hiện đại.
Có lịch sử và truyền thống từ thời Xuất hiện ở thời hiện đại trung đại
- Hình thức ban sơ của truyện ngắn - Sự biến đổi quan điểm sáng
là truyện truyền kì “một thức truyện tác:”văn dĩ tải đoạ” đến “văn là lOMoAR cPSD| 61527594
thần thoại có tác giả”, cốt truyện có đời”, sự trợ giúp đắc lực của chữ
thể lưu truyền trong dân gian, một Quốc ngữ, vai trò của báo chí, giao
thể loại dành cho trí tưởng tượng lưu văn hóa đông tây,... bay bổng.
- Tiến trình phát triển của truyện ngắn Việt Nam: 1900-1930:
+ sự phân biệt truyện ngắn và tiểu thuyết chưa được rạch ròi.
+ chưa có nhiều thành tựu
+ nhiều khuynh hướng: khuynh hướng đạo lí, yêu nước, phê phán hiện thực.
+ tác giả tiêu biểu: Nguyễn Ái Quốc, Phạm Duy Tốn,... 1930-1945:
+ thực sự bước vào phạm trù hiện đại
+ phát triển phong phú, đa dạng, nhiều thành tựu
+ nhiều khuynh hướng: cách mạng, hiện thực, phê phán, lãng mạn
+ tác giả tiêu biểu: Nam Cao, Phan Bội Châu, Tố Hữu, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam,...
1945 - 1975: mang nhiều chất kí
Từ 1955-1975: đa dạng hơn về thi pháp, thể loại, có nhiều thành tựu hơn trước.
+ đa khuynh hướng sử thi và lãng mạn( Nam Cao, Tô Hoài...) thể hiện tinh thần phản
kháng, phản chiến (Trần Hoài Thư,...) tôn vinh tuyền thống văn hoá dân tộc (Bình
Nguyên Lộc...) tái hiện thân phận con người. từ sau 1975
+ xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút tài năng, ấn tượng. Đội ngũ sáng tác vô cùng đông đảo
+ đa dạng về thi pháp và nguồn ảnh hưởng
+ thể hiện rõ tinh thần đổi mới văn học
+ ngày càng tiệm cận với văn học thế giới ở tư duy thể loại
+ tác giả tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phan Thị Vàng Anh.
II. Các chặng đường phát triển 1. Giai đoạn 1945 – 1975
- 45 – 75: mang nhiều chất kí
- Từ 1955 -1975: đa dạng hơn về thi pháp thể loại, có thành tựu hơn lOMoAR cPSD| 61527594
Đa khuynh hướng: sử thi và lãng mạn (Trần Đăng, Nam Cao, Tô Hoài, Vũ Thị
Thường, Nguyễn Kiên, Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Nguyễn Minh Châu, Đỗ
Chu, Nguyễn Ngọc Tấn, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng,… thể hiện tinh thần phản
kháng, phản chiến (Vũ Hạnh, Mường Mán, Trần Hoài Thư), tôn vinh truyền thống
văn hoá dân tộc (Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Trang Thế Hy,…), tái hiện thân
phận con người (Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo,…). 2. Từ sau 1975
- Xuất hiện ngày càng nhiều các cây bút tài năng, ấn tượng. Đội ngũ sáng tác vôcùng đông đảo.
- Đa dạng về thi pháp và nguồn ảnh hưởng.
- Thể hiện rõ tinh thần đổi mới văn học.
- Ngày càng tiếp cận với văn học thế giới ở tư duy thể loại.
- Tác giả tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm
Thị Hoài, Lê Minh Khuê, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm
Duy Nghĩa, Trần Thuỳ Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu, Hồ Anh Thái, DiLi, Nguyễn Bình Phương,…
III. Phân loại truyện ngắn
Tiêu chí phân loại
Các dạng thức truyện ngắn Sự giao thoa thể loại
Truyện kí, truyện ngắn giàu chất thơ,
truyện ngắn kịch, truyện ngắn tiểu
thuyết hoá, truyện ngắn ngụ ngôn hiện
đại, giả cổ tích, giả lịch sử, giả liêu trai, …
Đặc trưng bút pháp, thi pháp
Truyện ngắn lãng mạn, hiện thực, hiện
sinh, hậu hiện đại, truyện ngắn kì ảo. Dung lượng
Truyện ngắn, truyện ngắn mini/ chớp,
truyện ngắn tiểu thuyết hoá. Đặc điểm kết cấu Truyện ngắn liên hoàn
IV. Truyện ngắn tiểu thuyết hoá
Là những truyện ngắn có chất tiểu thuyết
- Dung lượng: dài hơn so với các truyện ngắn thông thường
- Mở rộng không gian, thời gian và nhân vật, quy mô và khả năng phản ánh hiệnthực,
tăng cường khái quát hoá; từ chú ý đến “lát cắt, khoảng khắc” tới chú ý đến chu
trình nhân – quả, vòng đời, đường đời, kiếp người, số phận con người. - Tư duy
tiểu thuyết: tư duy về cái hiện thực chưa hoàn thành
- Sự luân chuyển ngôi kể, đan xen điểm nhìn, gia tăng phân tích tâm lí nhân vật,độc thoại nội tâm,… lOMoAR cPSD| 61527594 I. Khái niệm
- Truyện ngắn “tiểu thuyết hoá” là sự kết hợp, hài hoà nhuần nhuyễn giữa yếu
tố“truyện ngắn” và “tiểu thuyết”, trong đó:
- Hình thức truyện ngắn: dung lượng không quá dài như tiểu thuyết nhưng dài hơnso
với truyện ngắn truyền thống; số lượng nhân vật không quá lớn như trong tiểu
thuyết; cốt truyện gắn với trục một vài sự kiện, biến cố chính trong cuộc đời nhân vật.
→ Nội dung, tư tưởng mang tầm vóc tiểu thuyết + Cách tân nghệ thuật tự sự. •
Nội dung: khái quát được bức tranh hiện thực rộng lớn hoặc chiều dài lịch sử
thông qua cuộc đời của nhân vật → thể hiện bản chất, quy luật của hiện thực đời sống. •
Cốt truyện: lồng ghép, đa tầng, đa tuyến → đa chủ đề •
Nhân vật: là những con người mang tính chất đa chiều, đa diện → nhân vật là
“con người nếm trải” (con người mang tầm vóc lịch sử) (nhà văn gợi lên
những biến cố trong cđ nv → biến cố ấy đặt trong dòng chảy ls của dt) •
Ngôn ngữ: đa thanh, phức điệu, mang tính đối thoại (Bakhtin: là sự va xiết
của nhiều tư tưởng khác nhau, thậm chí là đối lập nhau) Kết mở → “cái hiện tại chưa hoàn kết”.
- Nhà văn Nguyễn Kiên: “Truyện ngắn trong suốt quá trình phát triển luôn đứng
trước một thách thức: phải làm sao sức chứa và sức nặng vượt thoát được ra ngoài
cái khuôn khổ nhỏ bé mà nghệ thuật khuôn vào nó. Lẽ dĩ nhiên, truyện ngắn phải
tự tìm tòi, đồng nghĩa nó cũng phải nhìn sang tiểu thuyết”.
⇒ Mục đích: phá bỏ giới hạn của thể loại truyện ngắn → mở rộng biên độ, chiều
kích phản ánh hiện thực của truyện ngắn, khai thác được nhiều vỉa tầng đời sống bên
ngoài và bên trong con người ⇒ đáp ứng nhu cầu của thời đại bộn về, đa dạng, phồn
tạp → kích thích liên tưởng, đối thoại với bạn đọc.
⇒ Sự tương tác, xâm nhập, dung hợp các thể loại văn học là một đặc điểm của
VHVNHĐ (thơ văn xuôi, truyện ngắn trữ tình, tiểu thuyết ngắn, truyện ngắn “kịch
hoá”, truyện ngắn “tiểu thuyết hoá”,...) → phát huy được sức mạnh tổng hợp của các
thể loại văn học trong việc truyền tải thông điệp thẩm mỹ của tác giả. Hình thức truyện ngắn: • dung lượng •
số lượng nhân vật: ít, tập trung vào 3 nhân vật chính Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở. •
cốt truyện → biến cố cuộc đời nhân vật Chí Phèo
- Nội dung tư tưởng mang tầm vóc tư tưởng •
Tái hiện cuộc đời Chí Phèo (sinh ra → đi ở → đi tù → con quỷ dữ → muốn hoàn lương lOMoAR cPSD| 61527594 →
II. “Phiên chợ Giát”/ “Cỏ lau” - Nguyễn Minh Châu - Truyện ngắn “tiểu thuyết
hoá” * Tình huống truyện:
Bắt đầu câu chuyện từ một tình huống truyện éo le: sau 18 năm gắn bó, thân thiết
như ruột thịt, lão Khúng quyết định mang con bò khoang đen lên chợ huyện bán vì
nó đã quá già, không còn làm việc năng suất, và cũng để lấy tiền gửi cho thằng con
trai đang đi làm “kinh tế mới” ở Đắk Lắk.
→ Tình huống dễ gợi dẫn đến những xung đột, đấu tranh trong nội tâm nhân vật lão
Khúng (tình nghĩa >< lợi ích, nhu cầu vật chất) * Kết cấu:
- Kết cấu dòng ý thức: mạch truyện vận động theo dòng ý thức và vô thức bêntrong
nhân vật lão Khúng → nhân vật chìm trong trạng thái “thấy”, “nghĩ”, “nhớ lại”,
“nhớ về”, “mơ”... → xáo trộn trật tự thời gian, không gian, đan xen quá khứ hiện
tại, mơ và tỉnh, hữu thức và vô thức…
- Kết cấu lồng ghép: trên hành trình từ nhà đến phiên chợ Giát, trong khoảng thờigian
từ tờ mờ sáng đến sáng hẳn, qua dòng hồi ức của lão Khúng, tác giả lồng ghép
nhiều câu chuyện xoay quanh cuộc đời lão Khúng: •
Chuyện lão Khúng bỏ làng bỏ xóm, mồ mả tổ tiên ở dưới biển để khai hoang
vỡ đất miền ngược ma thiêng nước độc. •
Chuyện lão tình cờ gặp và lấy mụ Huệ - 1 cô gái thành phố có nhan sắc → sinh ra 9 đứa con. •
Chuyện các con của lão: thằng con trai cả bỏ đi làm kinh tế mới ở Đắk Lắk,
gặp nhiều khó khăn; chuyện thằng Dũng - con trai thứ 2 - hi sinh trên chiến
trường Campuchia cách đây 2 năm; chuyện mấy đứa nhỏ: cái Hương, cái Nghiên, thằng Bút… •
Chuyện về con bò khoang đen gắn bó suốt 18 năm trời với gia đình lão, đã trở
thành 1 thành viên trong gia đình lão Khúng. •
Chuyện về Chủ tịch Bời với công cuộc đại cơ khí hoá nông nghiệp, với quyết
tâm biến lão Khúng thành con người mới XHCN. (sự hoài nghi) •
Chuyện về gia đình mụ Hái và ông Kẹp - hàng xóm của lão Khúng - có 3
người con hi sinh ở các mặt trận. •
Chuyện về những giấc mơ của lão Khúng và quyết định bất ngờ của lão: trả
tự do cho con khoang đen nhưng cuối cùng, con bò khoang vẫn tìm về phủ phục dưới chân lão.
⇒ Qua các câu chuyện lồng ghép, đan xen trong dòng liên tưởng nhảy cóc đầy bất
định của lão Khúng, nhà văn đã dựng lại lịch sử của một kiếp người và thông qua lOMoAR cPSD| 61527594
đó là lịch sử của cả một dân tộc: con người với sức mạnh hoang sơ, bản năng, sức
mạnh khai phá “vạch rừng vỡ đất”, làm nên ruộng vườn, nuôi sống con người, mở
mang làng mạc, tạo dựng đất nước → đã kinh qua những mất mát trong hai cuộc
chiến tranh → công cuộc hợp tác hoá nông thôn, tiến lên CNXH.
⇒ Độ ôm trùm, bao quát hiện thực của một tiểu thuyết.
⇒ Kết cấu gợi mở nhiều chủ đề tư tưởng lớn lao:
- Giả thiết về số phận cực nhọc của người nông dân qua motif hoá thân người -
bò(huyền thoại về sự hoá thân → huyền thoại mang màu sắc “humour đen”) (đối
sánh: thân phận của ng nông dân nô lệ, cực nhọc, lam lũ)
- Thân phận con người nhỏ bé trong những biến thiên dữ dội của lịch sử.
- Sức mạnh tiềm tàng, khát vọng tự do và giới hạn của người nông dân.
- Mối quan hệ giữa con người với môi trường sinh thái: con người thuần hoá,
chinhphục thiên nhiên nhưng chính thiên nhiên cũng biến cải, nhào nặn con ời.
- Tư tưởng hiện sinh chủ nghĩa: nhận thức được cuộc đời phi lí và bi đát, nhưngcon
người không chấp nhận buông xuôi hoặc đánh mất bản sắc mà con người dám đối
mặt với hiện sinh phi lí để nổi loạn, dấn thân, tự lựa chọn con đường đi riêng của mình.
(Lão Khúng - con người là “tụ điểm của cuộc sống”; một lão nông gan góc, bản lĩnh,
tự bước đi trên đôi chân của chính mình, “vạch những luống cày trong đêm tối”, chỉ
tin vào bàn tay, khối óc của bản thân mình). - Nhân vật lão Khúng: •
Kiểu con người nếm trải: kinh qua những biến cố lịch sử lớn của đất nước,
cuộc đời của lão trải qua thành công và thất bại, hạnh phúc lẫn đắng cay. •
Kiểu con người đa chiều, đa diện: gan góc, bướng bỉnh, quyết đoán trong làm
ăn; ranh mãnh, nhạy bén trong nhận thức tình thế; nhưng cũng có một trái tim
nhạy cảm, yêu thương vợ con sâu sắc, tình cảm gắn bó sâu nặng với những
con vật nuôi trong nhà… ⇒ nhân vật có chiều sâu, không đơn giản, nhất phiến.
- Ngôn ngữ: độc thoại nội tâm, đối thoại nội tâm, lời nửa trực tiếp. - Giọng điệu: • Trữ tình đằm thắm. • Xót xa, thương cảm. •
Giễu nhại sắc nhọn, gai góc.
“Cái lão Khúng này thiết đếch gì!...gia đình lão”.
“Hì hì…Tao đâu dám cười mày?...chợ Giát vẫn tối như hũ nút thế này?”
TRUYỆN NGẮN TIỂU THUYẾT HÓA TRONG TRUYỆN “KHÔNG CÓ
VUA” CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
* Hiện thực nào được nói tới trong “Không có vua”. lOMoAR cPSD| 61527594 - tên của gia đình:
Mô hình giađình = mô hình XH thu nhỏ = mô hình thếgiới hỗn độn. Các tầng lớp
(tri thức-Đoài, lao động chân tay-Kiền (thọư sửa xe), nộitrợ, mất khả nnawg
laođộng- Tốn thợ cắt tóc- Cấn, Khảm- sinh viên đại học ) -> Mô hình XH thu nhỏ,
đầy đủ hỉ nộ ái ố.
Thằng cu Tốn -> Không có vua (XH VN thời hậu chiến với những vấn đề bất ổn, bất cập.) Tư duy tiểu thuyết
-> Sự xuống cấp của đạo đức con người-tha hóa đến độ vô luân và loạn luân
-> Giấc mơ của Khảm – Khiêm giết lợn - đập xà beng vàogáy lợn =>
XH đảo điên, vô trật tự.
-> Nhân vật ông Kiền phải chết – bệnh, tuổi già -> quy luật sinh lão bệnh tử của tác giả. Tư duy tiểu thuyết
* Tư duy về cái hiện thực chưa hoàn thành:
- Ấn tượng về dòng đời trôi chảy: sáng chiều tối, ngày tối, ngày lễ, ngày thường/vui
buồn, hạnh phúc, đau khổ/ tất yếu và ngẫu nhiên...; vòng đời sinh lão bệnh tử, có
kết thúc, có bắt đầu; sự sống vận động theo quy luật: tre già măng mọc, sống chết
là vấn đề có tính quy luật, đau khổ hay hạnh phúc, sống hay chết là những chuyện
hết sức ngẫu nhiên, không thể đoán định ( kết truyện).
- đề tài thế sự, không gian sinh hoạt. - Kết mở.
- tg nhân vật: khônh phải là đông đảo nhưng có tính đại diện, mỗi nhân vật là mộttính cách, một mẫu hình.
+ Lão Kiền: thô tục, cộc cằn, suốt ngày cau có, cãi nhau với mọi người như cơm
bữa, lời lẽ độc đoán nhưng cũng giàu đức hi sinh.
+ Khiêm: to lớn lừng lững, tính tình nóng nảy, một tên đạo chichs chuyên ăn cắp vặt
(lòng thịt lợn), coi trọng tiền, sòng phẳng dứt khoát, coi Đoàn như kẻ thù, lưu manh,
nhưng cũng có tình nghĩa.
+ Cấn: cục cằn, vũ phu, rạch roic
+ Khảm: lười biếng, ăn cắp, a dua, không có chính kiến.
+ Đoài: trí thức lưu manh, vô huấn, trơ trẽn, trắng trợn, vụ lợi, thực dụng, nhẫn tâm. lOMoAR cPSD| 61527594
+ Sinh: Một thanh âm trong trẻo, hiền hậu, vị tha, cam chịu, nhẫn nhịn.
+ Tốn: ngoan ngoãn, chăm chỉ, ngờ nghịch, đáng thương, nhân hậu *
Kết cấu chương mục: - gia cảnh Buổi sáng Ngày giỗ Buổi chiều Ngày Tết Buổi tối Ngày thường:
- giễu nhại các diễn ngôn văn học, các cách hành văn và giọng văn sến súa trước
đó: Cấn chồng cô Sinh là thương bình. Họ quen biết nhau...”
- một ám dụ về thời cuộc đảo đên, càn khôn rối loạn, trên dưới lộn sòng, tình yêu
và lương tâm bị thế chỗ trắng trợn bởi tiền bạc và sự vô luân, loạn luân, thế giới mà “tiền là vua”.
- Thế giới nhân vật là một nhân loại “nửa quỷ”- “nửa người”. Không phải ngẫu
nhiên khi chuyển thể truyện ngắn sang kịch bản, NHT đã đổi nhan đề “Không
có vua thành “Quỷ ở với người”.
- Triết lí cay đắng về nhân sinh, về kiếp người
- Làm người nhục lắm-Kiền
- “Khổ chứ! Nhục lắm! vừa đau đớn vừa chua xót. Nhưng thương lắm (Sinh).
- Sự pha trộn thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, báo chí, kịch, thơ.
- Sự thông tục hóa ngôn ngữ.
V. Truyện ngắn giàu tính kịch
- Thể hiện qua xung đột căng thẳng, gay gắt, qua hành động kịch
- Nhân vật là nhân vật hành động, nhân vật tính cách
- Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ đối thoại
- Kết cấu màn, cảnh, hồi
VD: Sang sông – Nguyễn Huy Thiệp
- Kết cấu màn, cảnh: lên đò, sang sông, lên bờ
Hồi 1 Lên đò – Nhân duyên; hồi thứ 2 trên đò - bản tính; hồi thứ 3 xuống đò – sắc không.
- Tiết chế dẫn truyện, miêu tả lOMoAR cPSD| 61527594
- Nhân vật: một nhà sư, một nhà thơ, một nhà giáo, hai tên buôn đồ cổ, hai mẹ
con,một cặp tình nhân, chị lái đò.
- Khắc hoạ nhân vật qua hành động và lời thoại, không miêu tả tâm lí nhân vật.-
Tình huống kịch: sang sông, đứa bé đút tay vào trong chiếc bình, không rút tay ra được
- Xung đột kịch ngày càng được đẩy lên cao trào:
+ Chú bé hoảng hốt, sợ hãi
+ Người mẹ lo lắng, hoang mang, khóc lóc, rên rỉ + Nhà thơ: đùa cợt
+ Hai tên buôn đồ cổ: lăm lăm hai mũi dao nhọn, dí dao vào cổ chú bé, điều quan
tâm duy nhất của chúng là tiền.
+ Ông giáo lập cập, hoảng sợ, + Cô gái hoảng sợ + Người mẹ tháo nhẫn + Chàng trai tháo nhẫn
+ 2 tên buồn đồ cổ không tha
Giải quyết xung đột kịch: Tên cướp đập vỡ bình cứu chú bé Mâu
thuẫn giữa các nhân vật và trong mỗi nhân vật:
+ Đôi trai gái với những hành động không đoan chính, gây ác cảm ban đầu lại có
hành động cao thượng bất ngờ khi chú bé gặp nạn.
+ Nhà thơ, nhà giáo, nhà sư – đại diện cho những chuẩn mực đạo đức, lí tưởng từ bi
bác ái,… lại bất lực hoặc dửng dung trước cái ác. Tôn giáo, thi ca, đạo đức, không
thể cứu sống được ai, nó bất lực trước sức mạnh vật chất. -
Người thiếu phụ xinh đẹp đài các nhưng tài sản chị có trong tay không đáng làbao -
Tên cướp – đại diện cho cái ác nhưng lại có những phát ngôn và những
hànhđộng cao cả; bạo lực chiến thắng sức mạnh vật chất, bạo lực mới chiến đấu được với bạo lực. -
Sự ngây thơ, dễ dãi, ngộ nhận của nhà giáo, nhà thơ; sự thông tuệ, trải đời của côlái đò.
VI. Truyện ngắn giàu chất thơ/ truyện ngắn trữ tình
- Tính chất “phi cốt truyện”: nới lỏng cốt truyện
- Bộc lộ rõ tính chất chủ quan của sự viết (trữ tình ngoại đề, tình cảm, cảm xúc chủquan của chủ thể).
- Tính trữ tình thể hiện qua bức tranh thiên nhiên, chất thơ toát lên từ con người,cuộc
sống, cảm hứng lãng mạn, đi sâu miêu tả phân tích những rung động nội tâm, tâm lí nhân vật,…
- Ngôn ngữ giàu cảm xúc, giàu tính hình tượng,… lOMoAR cPSD| 61527594
VII. Truyện ngắn mini/ chớp/ cực ngắn
- Giảm thiểu tối đa câu chữ - Giàu kịch tính - Nhiều khoảng trống
- Khả năng dồn nền cao độ thông qua sức mạnh của biểu tượng, ẩn dụ
VD: Sau khi loài người trên thế giới bị chết hết, chỉ có một người may mắn sống sót,
khi anh ta cô độc một mình ngồi trong nhà, bỗng có tiếng gõ cửa bên ngoài.
(Giải nhất cuộc thi truyện rất ngắn ở Trung Quốc)
Truyện ngắn Đất của Nhật Chiêu: Ramayana diễn tả cuộc đời nàng Sita sinh ra từ
một vết nứt của đất. Nàng trải qua cuộc sống đầy bi kịch trên mặt đất để rồi nàng lại
trở về vết nứt của đất chấm dứt một quá trình sống. Nếu ai từng đọc Ramayana hẳn
sẽ biết đất đóng vai trò quan trọng thế nào trong sử thi này.
Thể hiện triết lí từ Đông sang Tây về thân phận một kiếp người, “Sinh ra từ cát
bụi và trở về từ cát bụi”.
* Phân tích 1 truyện ngắn tiểu thuyết hoá Chí Phèo (Nam Cao)
- Quy mô phản ánh, khả năng khái quát hiện thực rộng lớn: giai cấp (nông dân –địa
chủ; giai cấp bị trị - giai cấp thống trị; bi kịch bần cùng hoá – tha hoá nhân hình
lẫn nhân tính; lưu manh hoá của những người nông dân thể hiện bức tranh hiện
thực nông thôn Việt Nam trước CMT8).
- Không gian làng quê, không gian xã hội với các giai tầng
- Thời gian đời người (Chí Phèo từ khi sinh ra cho đến khi chết đi)
- Tâm lí nhân vật (như một quá trình)
- Đan xen điểm nhìn, luân chuyển ngôi kể, lời nửa trực tiếp, độc thoại nội tâm- Tư
duy về cái hiện thực chưa hoàn thành: chưa được giải quyết xong xuôi, kết thúc
gợi mở những suy nghĩ, dự đoán
* Truyện ngắn trữ tình: Dưới bóng hoàng lan -
Đặc trưng của truyện ngắn: •
Nội dung (Phạm vi phản ánh hiện thực): Tiểu thuyết chiếm lĩnh đời sống trong
tính đầy đặn, vẹn toàn → truyện ngắn hướng tới khắc hoạ một hiện tượng,
phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hoặc đời sống tâm hồn của con người. •
Nhân vật: ít, thường là hiện thân cho một quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc
trạng thái tồn tại của con người. •
Cốt truyện: thường diễn ra trong một thời gian, không gian hạn chế → chức
năng chính là nhận ra một điều gì đó sâu sắc về cuộc đời và tình người. •
Kết cấu: không nhiều tầng, nhiều tuyến, thường theo nguyên tắc tương phản hoặc liên tưởng. lOMoAR cPSD| 61527594 •
Bút pháp chấm phá; chi tiết cô đúc, có hàm lượng nghệ thuật lớn; hành văn nhiều ẩn ý.
2. Truyện ngắn trữ tình * Trữ tình:
- Là 1 trong 3 phương thức thể hiện đời sống làm cơ sở cho TLVH.
- Đặc trưng: phản ánh đời sống bằng cách bộc lộ trực tiếp ý thức con người, nghĩalà
con người tự cảm thấy mình qua những ấn tượng, ý nghĩa, cảm xúc chủ quan của
mình đối với thế giới và nhân sinh.
* Truyện ngắn trữ tình:
- Là sự hoà giải giữa thơ và văn xuôi, giữa tự sự và trữ tình.
- Nội dung trữ tình: thể hiện tình cảm trữ tình (yêu, thương), cái đẹp, sự hài hoàthiên
nhiên - con người, con người và con người. - Nghệ thuật: •
Kết cấu: dựa vào diễn biến tâm trạng nhân vật. Tâm hồn nhân vật là điểm tựa
cơ bản cho kết cấu truyện ngắn → Kết cấu như một tứ thơ → “truyện không có cốt truyện”. •
Tình huống: tình huống của tình cảm, cảm xúc, tâm trạng trong đó tâm hồn
nhân vật được mô tả kĩ lưỡng. •
Nhân vật: mang tính duy cảm → chú trọng cảm giác, cảm xúc. Khai thác ngôn
ngữ độc thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật. •
Ngôn ngữ: giàu chất thơ, giàu nhịp điệu (trùng với nhịp điệu tâm hồn), đầy
hình sắc của sự sống (trước hết là sự sống của tâm hồn).
⇒ Hệ thống từ vựng, ngắt nhịp, phép điệp (cấu trúc vòng tròn), phối thanh bằng trắc
→ chất nhạc trong lời văn
(Con người đích thực là con người phải có đời sống tâm hồn - Nam Cao)
Truyện ngắn trữ tình Thạch Lam
- Thạch Lam: “Nếu con người là trọng điểm của đời sống, đời sống con người là
mấu chốt của hiện thực thì tâm hồn chính là địa hạt sâu nhất của hiện thực ấy.
Một nghệ sĩ tài ba phải là người dò tìm vào cái đáy sâu của địa hạt kia” (Tiểu thuyết “Theo dòng”)
→ Tp của Thạch Lam chịu được sự đọc lại → chọn con đường đi có tính muôn thuở
- đời sống tâm hồn con người → tác phẩm vượt thời gian.
⇒ Mỗi truyện ngắn giống như một bài thơ thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng, nhân văn của tác giả.
- Truyện không có cốt truyện, đơn giản chỉ là việc Thanh trở về thăm quê nhà vàgặp
gỡ lại Nga – cô gái hàng xóm –> cốt truyện đơn giản, không tập trung vào các sự kiện và biến cố. lOMoAR cPSD| 61527594
- Thiên nhiên: đẹp, trong sáng, yên bình, giàu chất thơ
- Tập trung miêu tả những rung động mong manh mơ hồ, tinh tế của nhân vật- Ngôn
từ giản dị, thanh nhã, giàu sức gợi (các hình ảnh sử dụng như thế nào, nhịp điệu câu văn ra sao?).
II. Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan”.
Thể loại: Truyện ngắn không cốt truyện
Phương thức trần thuật: nửa trực tiếp (ngôi kể thứ ba nhưng điểm nhìn là của nhân vật)
-> Là ngôi kể thứ ba, nhưng tác giả thuật lại câu chuyện không phải dưới góc độ
của một người kể toàn năng, mà tác giả trao ngòi bút của mình cho nhân vật tự kể (
lời văn hòa cùng với cảm xúc, nội tâm của nhân vật. Dù là ngôi thứ ba nhưng ta
vẫn cảm giác là nhân vật đang kể lại câu chuyện của cuộc đời mình). Từ đó ta thấy
được tài năng kể chuyện của Thạch Lam. –
Nội dung truyện ngắn: Kể về Thanh thông qua một lần trở về
quê hương, được gặp lại bà, gặp lại Nga, gặp lại những điều dẫu
nghèo khó, bình dị nhưng vô cùng yên bình, thân thương. Khi anh trở
lại thành phố công tác, căn nhà của bà anh càng trở nên yên ắng, cô
đơn, khiến Thanh nghẹn ngào.
-> Không tình tiết, không cao trào, nhưng truyện ngắn vẫn hấp dẫn người đọc bởi
lối hành văn vô cùng nhẹ nhàng, tinh tế, giàu chất thơ. Dường như cả một làng quê
nghèo hiện lên trước mắt chúng ta sau từng con chữ mà Thạch Lam đã xây dựng nên. –
Nhan đề “Dưới bóng hoàng lan”:một trạng từ chỉ nơi chốn cụ
thể: dưới bóng cây hoàng lan
Gợi ra biết bao nhiêu kỉ niệm thân thương về quê hương, về con người mà Thanh
yêu quý. Bởi lẽ tuổi thơ của anh bên cha mẹ, bên bà, bên Nga đều diễn ra dưới
bóng cây hoàng lan. III. Đọc hiểu văn bản:
A. Tâm trạng của nhân vật Thanh sau khi trở về (trọng tâm)
a. Cảm xúc của Thanh khi trở về nhà.
Thanh gặp lại những điều bình dị của quê hương, của mái ấm thân thuộc:
“Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong khu vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn
ào ngoài kia đều ngưng lại trên bậc cửa”.
“cảnh tượng không gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y như ngày chàng đi khi
xưa” -> sự yên tĩnh, vắng lặng khiến Thanh bỗng nghẹn lòng
“trên con đường gạch Bát Tràng rêu phủ, những vòng ánh sáng lọt qua vòm cây nhảy múa theo chiều gió”. lOMoAR cPSD| 61527594
-> Không gian ấy tuy bình dị nhưng khúc xạ qua trái tim đầy thổn thức của Thanh,
dường như nó trở thành những điểm tựa thiêng liêng, có sức mạnh khơi gợi xúc
cảm nhớ mong, bồi hồi trong tâm hồn.
– Khi gặp bà; mọi phiền muộn, lo âu của cuộc sống tấp nập nơi phố thị dường như
đã biến mất, Thanh trở về làm một người cháu nhỏ bé, tha thiết, cảm động trước
tình cảm của người bà thân yêu:
Thanh mồ côi cha mẹ từ sớm nên anh phải sống cùng bà. Vì thế mà tình cảm giữa
anh và bà vô cùng thấm thiết.
Khi trở về, Thanh cảm nhận được sự chăm sóc tận tình của bà: “Đi vào trong nhà
không nắng cháu”; “Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt”; “bà lại gần săn sóc
buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi, gió quạt nhẹ trên mái tóc chàng”. – Một
cảm giác thân thuộc vẫn vẹn nguyên trong cõi lòng của Thanh dẫu cho anh đã xa
quê hương hai năm. Hai năm ấy đặt trong bối cảnh của một cuộc sống thành thị,
có biết bao nhiêu đổi thay mà người ta còn lo lắng đến cái gọi là “vật đổi sao
dời”. Nhưng khi trở về quê hương, trở về với vòng tay của bà, Thanh vẫn cảm
nhận được một sự thân thuộc, sự bền vững của những giá trị tuy bé nhỏ nhưng lại vô cùng ý nghĩa.
=> Thời gian không thể làm hao mòn đi tình cảm của Thanh với quê hương, với
người bà hiền hậu.
b. Cảm xúc của Thanh khi gặp cây hoàng lan – Hình ảnh cây hoàng lan:
“dưới làn gió nhẹ. Một cây vút cao lên trước mặt”
“mùi hương thơm thoang thoảng đưa vào”
-> Hình ảnh cây hoàng lan được khắc họa bằng những nét chấm phá vô cùng độc
đáo qua tán cây đung đưa theo chiều gió và mùi hương gợi biết bao niềm thân mật.
Cũng như quê hương, cây hoàng lan gợi lại trong Thanh những cảm xúc vô cùng ngọt ngào.
– Cảm xúc của Thanh khi gặp lại cây hoàng lan:
Nhớ về quá khứ khi ba mẹ còn sống
Nhớ về tuổi thơ nô đùa dưới gốc cây, ngắm mùi hương, nhặt hoa.
Nhớ về những kỉ niệm bà cháu quấn quýt bên nhau.
–> Đứng trước cây hoàng lan, Thanh dường như rơi vào một thế giới của hoài
niệm, của những ký ức tươi đẹp. Trải nghiệm ấy khiến Thanh thoải mái, nhẹ
nhõm và vô cùng xúc động.
c. Cảm xúc của Thanh khi gặp lại Nga.
Nga tuy là một cô bé hàng xóm hay sang chơi, nhưng Thanh và bà đều coi cô là
một thành viên trong gia đình. Cảm xúc của Nga khi thấy Thanh về: đang nhặt
rau vội ngửng đầu một nụ cười, đôi mắt trong sáng lên lOMoAR cPSD| 61527594
Lời nói dịu dàng, trìu mến: “Những ngày em đến đây hái hoa, em nhớ anh quá”.
Tình cảm giữa Thanh và Nga
Thanh không muốn Nga đứng ăn cơm mà ra sức thuyết phục cô hãy ngồi xuống và
tự nhiên như ở nhà -> Thanh không muốn Nga cảm thấy ngại vì mình là khách.
Thanh cùng Nga ra vườn nhặt hoàng lan. Thanh cài hoa hoàng lan lên mái tóc của Nga
Niềm hạnh phúc chưa kéo dài bao lâu thì hai người lại sắp phải chia xa nhau. Lời
thoại: “Bao giờ anh lên tỉnh” như một sự chuyển giao tinh tế về mặt cảm xúc. =>
Qua đó ta thấy được tình cảm vô cùng trong sáng, tình tứ giữa Nga và Thanh.
d. Cảm xúc của Thanh khi chia tay.
Trước khi lên tỉnh, cả ba đã có những giây phút vô cùng ấm áp, yên bình dưới bóng
hoàng lan: “Đêm ấy, một bà, một cháu với một cô láng giềng chuyện trò dưới bóng
đèn mãi đến khuya, khi trăng lên”.
Giây phút chia li, Thanh cầm lấy tay Nga, để yên trong tay mình. Sau khi Ngan về,
một chút dịu ngọt của tình yêu vẫn còn vương vấn trong lòng Thanh.
Thanh ra đi nửa buồn lại nửa vui. Nhưng Thanh tin rằng Nga sẽ chờ đợi anh, tin
rằng họ sẽ được hội ngộ và trao nhau tình yêu chân thành nhất dưới bóng ngây hoàng lan.
IV. Đánh giá điểm nhìn trần thuật.
Điểm nhìn trần thuật của truyện ngắn “dưới bóng hoàng lan” là điểm nhìn nửa trực
tiếp, nhà văn kể bằng ngôi thứ ba nhưng vẫn theo rất sát vào diễn biến tâm lý, tình cảm của nhân vật.
Điểm nhìn của truyện có sự dịch chuyển đa dạng từ không gian đến con người. Khi
là ở con mèo, rồi người bà, rồi đến cây hoàng lan,… Tác dụng của điểm nhìn trần
thuật nửa trực tiếp: Khắc họa chân thực cảm xúc, nội tâm nhân vật.
Tăng khả năng đồng hiện của tâm lý nhân vật, giúp nhân vật thoát ly khỏi trật tự
thời gian tuyến tính và dồn nén nhiều lát cắt quá khứ – hiện tại chồng chéo vào nhau.
Điểm nhìn trần thuật nửa trực tiếp cũng là cơ hội để Thạch Lam thể hiện sự trong
sáng, tinh tế trong văn phong của mình. Dù là truyện phi cốt truyện, nhưng mọi thứ
đều diễn ra vô cùng hấp dẫn, nhẹ nhàng và đi sâu vào tâm hồn bạn đọc. v. TỔNG KẾT.
Giá trị nội dung:
Khắc họa bức tranh làng quê bình dị, thân thuộc, cùng với những con người đôn hậu, chất phác.
Thể hiện tâm tư, tình cảm và nỗi niềm của những người con xa quê luôn tha thiết trở về.
Giá trị nghệ thuật: lOMoAR cPSD| 61527594
Khắc họa hình tượng nghệ thuật độc đáo “cây hoàng lan”
Nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật Giọng văn trong sáng, giàu chất thơ.
__________________________________________________________________
* Thạch Lam
Trong sự phát triển lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, Thạch Lam chỉ hiện
diện chừng non mười năm nhưng ông vẫn được xem là một tác giả văn xuôi có tầm
vóc. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về Thạch Lam. Luận văn này chỉ đơn
thuần đề cập về sự đóng góp của truyện ngắn trữ tình Thạch Lam.
Xuất hiện trên văn đàn cùng thời với rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam mang
một dấu ấn riêng. Không trào lộng như Vũ Trọng Phụng, không hài hước như
Nguyễn Công Hoan, không triết lý như Nam Cao, văn Thạch Lam nhẹ nhàng và tinh
tế. Thế Uyên, người cháu gọi Thạch Lam bằng cậu đã viết: “Đọc một đoạn văn của
ông, đôi khi tôi có cảm tưởng Thạch Lam chỉ là một hệ thống dây tơ bén nhạy đến
độ có thể thu nhận được sự thay đổi về cường độ ánh trăng hay âm sắc các loaì lá
khi khô rụng va vào đất” [8]. Một con người trầm tĩnh, kín đáo, thiên về đời sống
nội tâm, Thạch Lam không thích sự ồn ào thái quá. Thạch Lam luôn nâng niu mọi
vẻ đẹp, điều thiện nhiều khi khuất lấp trong cuộc sống xung quanh. Thạch Lam là
người có tâm hồn nhạy cảm “rung động khẽ khàng như cánh bướm non” khi nói về
những cơn gió lạnh đầu mùa, về hương hoàng lan, về một phố huyện nghèo...
Nhân vật trong sáng tác của Thạch Lam phần lớn là những con người nghèo
khổ, vất vả, có địa vị thấp kém (người làm thuê, người buôn bán vặt vãnh, người
công chức nhỏ...). Họ thường ở trong nhịp sống đơn điệu, buồn tẻ. Nhiều truyện
ngắn của Thạch Lam miêu tả rất xúc động những cảnh đời thê thảm của người nông
dân: Nhà mẹ Lê, Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa... Ngòi bút của Thạch Lam tinh tế,
trân trọng, nâng niu khi nói tới số phận những con người bất hạnh, đau khổ. Mỗi
truyện ngắn của ông như một bài thơ về những cuộc đời, những thân phận nhỏ bé,
côi cút và bất hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc của tình người. Truyện Cô
hàng xén khắc họa chân dung người phụ nữ mà soi vào nhân vật, người đọc tìm thấy
phẩm chất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: nhẫn nại, chịu thương chịu khó,