Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học và vai trò của mác, angghen, angghen đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?

với những kiến thức và thông tin bổ ích giúp sinh viên tham khảo, ôn luyện và phục vụ nhu cầu học tập của mình cụ thể là có định hướng, ôn tập, nắm vững kiến thức môn học và làm bài tốt trong những bài kiểm tra, bài tiểu luận, bài tập kết thúc học phần, từ đó học tập tốt và có kết quả cao cũng như có thể vận dụng tốt những kiến thức mình đã học vào thực tiễn cuộc sống.

NGUYỄN XUÂN TÌNH
LLCT- GDCD
Câu 1 hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học và vai trò của mác, ;
angghen, với sự ra đời của CNXHKH? Tại sao nói mác, angghen đã biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?
Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là
chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh
tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ
bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống
nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất
tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội
khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh
mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ
mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà
dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để
đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng
xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết
những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ
chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành
phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844;
phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong trào đó có tính quần
chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra
yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời,
không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận
phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen
và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học
cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít,
Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S.
Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra
những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
----. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội
khoa học:
- Các Mác (1818 – 1883):
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và
người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát
kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân
quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào
công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ
ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”,
theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít – lêninnít lấy tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chiến
lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa
cộng sản.
TẠI SAO ???
Các Mác, Ph. Ăng-ghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác
và Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế
và vai trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình,
đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn
cố hữu, nội tại, gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay
thế bởi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội khoa học, các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh
giải phóng thoát khỏi sự nô dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, không phải ngẫu
nhiên, V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học thuyết
Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với tư cách
là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới.Và đã trải qua 3 giai đoạn để đi lên chủ
nghĩa khoa học :
- Giai đoạn thứ nhất: những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ
nghĩa thời cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai câp quý tộc chủ
nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh những mầm mống tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện trong dòng
“văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: chuyện thần
thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt phản ánh sự bất bình
của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức
về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí
muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.
- Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong
bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua
các tác phẩm “ văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên
án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã
hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
- Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ
bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền
lợi của giai cấp mình; đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và
bắt đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học
thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã
hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp và
những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai
Câu 2 ;sứ mệnh của giai cấp công nhân ? những điều kiện quy định sứ mệnh
của giai cấp của công nhân ? liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
việt nam?
Sứ mệnh công nhân là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
- SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP VIỆT NAM ;
. Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản):
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất
định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người
vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai
cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân
hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền
đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai
cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản
tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể
và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần.
Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động,
phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai
cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu
sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ
có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội
khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người
lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn
với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công
nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư
mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu
chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai
cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở
thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa.
Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng
dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội
chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời
đại ngày nay.
. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ
đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của
chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh
lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới –
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ
có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai
cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân
vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải
phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng
dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội
hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong
thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản
xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô
sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của
nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường
làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những
điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải
phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được
cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”.
- Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân:
- Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai
cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô
sản nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những
đặc điểm riêng như sau:
+Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN Mac-
Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt
Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với
tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu:
+ Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH và CNCS ở Viêt Nam.
GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh
đạo của Đảng Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa,
nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam
là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản
xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất,
chúng ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một
ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
+ GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công
nhân, nông dân trí thức.
+ Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa
được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay
nghề còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam.
+Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ chức chính trị nào, giai
cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng
một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập
và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu
cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
| 1/39

Preview text:

NGUYỄN XUÂN TÌNH LLCT- GDCD
Câu 1 ; hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học và vai trò của mác,
angghen, với sự ra đời của CNXHKH? Tại sao nói mác, angghen đã biến chủ
nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học ?

Khái niệm chủ nghĩa xã hội khoa học:
Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa xã hội khoa học (hay chủ nghĩa cộng sản khoa học) là
chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung với tính cách là sự luận toàn diện (triết học, kinh
tế chính trị và xã hội – chính trị) về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và
thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa cộng sản, là sự biểu hiện khoa học những lợi ích cơ
bản và những nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp công nhân. Điều ấy nói lên sự thống
nhất, tính hoàn chỉnh về mặt cấu trúc của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa xã hội khoa học là một trong ba bộ phận hợp thành chủ
nghĩa Mác – Lênin. Chủ nghĩa xã hội khoa học là bộ phận thể hiện tập trung nhất
tính chính trị - thực tiễn sinh động của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa xã hội khoa học là khoa học về các quy luật xã hội – chính trị, là học
thuyết về những điều kiện, con đường giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, về cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân, về cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa, về các quy luật, biện pháp đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít nhằm thưc hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Những điều kiện và tiền đề khách quan dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa xã hội khoa học:
- Điều kiên kinh tế xã hội:
Vào những năm 40 thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở châu Âu đã đạt được những
bước phát triển rất quan trọng trong kinh tế. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật
lần thứ nhất đã thúc đẩy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh
mẽ. Chính sự phát triển đó làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bộc lộ
mâu thuẫn giữa sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày
càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản tạo ra những khả năng hiện thực cho những nhà
dân chủ cách mạng tiến bộ nhận thức đúng đắn bản chất của chủ nghĩa tư bản, để
đề ra lý luận khoa học và cách mạng.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân hiện đại trưởng
thành bước lên vũ đài đấu tranh chống giai cấp tư sản với tư cách là một lực lượng
xã hội độc lập. Giai cấp công nhân là lực lượng xã hội có khả năng giải quyết
những mâu thuẫn mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.
Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, đã bắt đầu có tổ
chức và trên quy mô rộng khắp. Nó đòi hỏi có một lý luận khoa học hướng dẫn.
Tiêu biểu cho các phong trào công nhân lúc đó là: cuộc khởi nghĩa công nhân thành
phố Liông (Pháp) 1831 – 1834; cuộc khởi nghĩa công nhân dệt Xêlidi (Đức) 1844;
phong trào Hiến chương (Anh) 1838 – 1848. Những phong trào đó có tính quần
chúng và mang hình thức chính trị. Sự lớn mạnh của phong trào công nhân đặt ra
yêu cầu bức thiết phải xây dựng một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng.
Đó là những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan cho chủ nghĩa xã hội khoa học ra
đời để thay thế các trào lưu xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời,
không còn có khả năng đáp ứng phong trào công nhân trong cuộc đấu tranh chống
giai cấp tư sản, đồng thời chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời phản ánh bằng lý luận phong trào công nhân.
- Những tiền đề văn hóa – tư tưởng (tiền đề lý luận)
Đến đầu thế kỷ XIX, nhân loại đã đạt nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực khoa
học, văn hóa và tư tưởng. Về khoa học tự nhiên có: thuyết tế bào của M. Sơlayđen
và T. Savanxơ (Đức); thuyết tiến hóa của Đ. Đácuyn (Anh); thuyết bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng của M. Lômônôxốp (Nga). Về khoa học xã hội có: triết học
cổ điển Đức (Ph. Hêghen, L. Phơbách,…), kinh tế chính trị học Anh (Ađam Smít,
Đ. Ricácđô,…), chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán (H. Xanhximông, S.
Phuriê, R.Ôoen,…). Những thành tựu của khoa học, văn hóa, tư tưởng đã tạo ra
những tiền đề tư tưởng – văn hóa cho sự ra đời chủ nghĩa Mác nói chung và chủ
nghĩa xã hội khoa học nói riêng.
----. Vai trò của C. Mác, Ph. Ăngghen đối với sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học: - Các Mác (1818 – 1883):
C. Mác là người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị khoa học. Ông là lãnh tụ và
người thầy của giai cấp vô sản thế giới.
- Phriđrích Ăngghen (1820 – 1895):
Ph. Ăngghen là nhà bác học, lãnh tụ và là người thầy của giai cấp công nhân hiện
đại, đã cùng với C. Mác sáng lập ra học thuyết mácxít.
Khi nghiên cứu miếng đất hiện thực tư bản chủ nghĩa trên quan điểm chủ nghĩa duy
vật biện chứng với phương pháp luận khoa học, C. Mác đã nêu ra hai phát kiến vĩ
đại đó là: chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư. “Nhờ hai phát
kiến ấy, chủ nghĩa xã hội đã trở thành khoa học”. Chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời
không phải do tưởng tượng, ước mơ mà là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản, của tư duy lý luận có cơ sở khoa học.
Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” do C. Mác và Ph. Ăngghen soạn thảo
theo sự ủy nhiệm của “Đồng minh những người cộng sản” – một tổ chức công nhân
quốc tế, đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” (2-1848) là tác phẩm bất hủ, là khúc ca tuyệt tác
của chủ nghĩa Mác, là văn kiện có tính chất cương lĩnh đầu tiên của phong trào
công nhân, phong trào cộng sản. Với những nội dung đã được trình bày một cách rõ
ràng và sáng sủa của thế giới quan khoa học, “Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản”,
theo V.I. Lênin, xứng đáng được thừa nhận là Tuyên ngôn của chủ nghĩa xã hội thế
giới, là “cuốn sách gối đầu giường cho tất cả những người công nhân giác ngộ”.
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” là kim chỉ nam cho hành động của phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Các Đảng Cộng Sản mácxít – lêninnít lấy tác phẩm
“Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản” làm cơ sở cho việc xây dựng đường lối chiến
lược và sách lược cách mạng nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân: thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa xã hội, để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. TẠI SAO ???
Các Mác, Ph. Ăng-ghen đã có đóng góp lớn trong việc cung cấp những luận cứ
thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội
khoa học. Với chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, C. Mác
và Ph. Ăng-ghen đã cung cấp cho giai cấp công nhân “vũ khí” lý luận, chỉ rõ vị thế
và vai trò của họ trong sự phát triển của lịch sử. Trong toàn bộ lý luận của mình,
đặc biệt là trong bộ “Tư bản”, các ông đã phân tích, chứng minh rất rõ rằng, hình
thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ không thể trụ vững trước những mâu thuẫn
cố hữu, nội tại, gắn liền với nó và theo quy luật khách quan, tất yếu nó sẽ bị thay
thế bởi hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong lý luận về chủ nghĩa xã
hội khoa học, các ông cũng chỉ ra con đường dẫn dắt giai cấp công nhân đấu tranh
giải phóng thoát khỏi sự nô dịch và bóc lột tư bản chủ nghĩa và tiến tới xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, mà sau này, không phải ngẫu
nhiên, V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn mạnh rằng: Điều quan trọng nhất trong học thuyết
Mác là việc làm sáng tỏ vai trò lịch sử toàn thế giới của giai cấp vô sản với tư cách
là người xây dựng, kiến tạo xã hội mới.Và đã trải qua 3 giai đoạn để đi lên chủ nghĩa khoa học :
- Giai đoạn thứ nhất: những mầm mống và khuynh hướng tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại.
Chế độ chiếm hữu nô lệ là bước phát triển tất yếu của lịch sử. Giai câp quý tộc chủ
nô và giai cấp nô lệ là hai giai cấp cơ bản mang tính chất đối kháng quyết liệt.
Mâu thuẫn giai cấp và cuộc đấu tranh giai cấp làm nảy sinh những mầm mống tư
tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa thời cổ đại thể hiện trong dòng
“văn học chưa thành văn”. Thông qua các câu chuyện dân gian như: chuyện thần
thoại, chuyện cổ tích, chủ nghĩa xã hội không tưởng một mặt phản ánh sự bất bình
của đông đảo quần chúng nhân dân đối với các hành vi áp bức, bóc lột của giai cấp
thống trị; mặt khác, nêu lên ước mơ, khát vọng của công chúng bị bóc lột, bị áp bức
về một xã hội bình đẳng, công bằng, bác ái, nhưng rất mơ hồ, vụn vặt, thậm chí
muốn trở về với thời đại “hoàng kim nguyên thủy”.
- Giai đoạn thứ hai: Tư tưởng xã hội chủ nghĩa từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII
Chủ nghĩa tư bản ra đời và sau đó phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu.
Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ và kèm theo đó là những xung đột giai cấp
cũng diễn ra quyết liệt. Giai cấp tư sản từng bước thiết lập địa vị thống trị của mình
và đã dùng nhiều thủ đoạn áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong
bối cảnh lịch sử đó, đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua
các tác phẩm “ văn học nhân đạo” của mình, các nhà nhân đạo thời cận đại đã lên
án, phê phán chế độ xã hội dựa trên chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế chế độ xã
hội đó bằng một xã hội mới thực sự công bằng, bác ái.
- Giai đoạn thứ ba: Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đầu thế kỷ XIX
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản
hoàn thành ở nước Anh và sau đó tiếp diễn ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản chiến thắng chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ
bản chất cố hữu của nó: phản động và bóc lột áp bức nhân dân lao động vì quyền
lợi của giai cấp mình; đây cũng là giai đoạn giai cấp vô sản hiện đại hình thành và
bắt đầu thức tỉnh về chính trị.
Trong thời kỳ này, các tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học
thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng – phê phán đã tố cáo, phê phán sâu sắc xã
hội tư bản chủ nghĩa, phủ định nó, đồng thời đề xuất con đường, biện pháp và
những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai
Câu 2 ;sứ mệnh của giai cấp công nhân ? những điều kiện quy định sứ mệnh
của giai cấp của công nhân ? liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?

Sứ mệnh công nhân là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư
bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc
hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh
- SỨ MỆNH CỦA GIAI CẤP VIỆT NAM ;
. Khái niệm giai cấp công nhân (giai cấp vô sản):
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, giai cấp công nhân là con đẻ của một
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cùng với sự phát triển của lịch sử, cũng luôn luôn
phát triển với những biểu hiện và đặc trưng mới trong từng giai đoạn nhất định.
Sự phát triển của đại công nghiệp không những đã làm tăng thêm số người
vô sản, mà còn tập hợp họ lại thành một tập đoàn xã hội rộng lớn, thành giai
cấp vô sản hiện đại. Chính vì vậy, một kết luận rút ra là, giai cấp công nhân
hiện đại ra đời gắn liền với sự phát triển của đại công nghiệp, nó là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp và lớn lên cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp đó.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai
cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản
tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để
sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể
và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần.
Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động,
phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư,
nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt.
Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng, “Giai
cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu
sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.
Dù giai cấp công nhân có bao gồm những công nhân làm những công việc
khác nhau như thế nào đi nữa, thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen, họ vẫn chỉ
có hai tiêu chí cơ bản để xác định, phân biệt với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác.
- Một là, về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người
lao động trong nền sản xuất công nghiệp. Có thể họ là người lao động trực
tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp
ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao. Đã là công nhân hiện đại thì phải gắn
với nền đại công nghiệp, bởi vì nó là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai
cấp công nhân hiện đại là hạt nhân, bộ phận cơ bản của mọi tầng lớp công nhân.
- Hai là, về vị trí trong quan hệ sản xuất của giai cấp công nhân, chúng ta
phải xem xét trong hai trường hợp sau:
+ Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa thì giai cấp công nhân là những người vô sản
hiện đại, không có tư liệu sản xuất, nên buộc phải làm thuê, bán sức lao động
cho nhà tư bản và bị toàn thể giai cấp tư sản bóc lột. Tức là giá trị thặng dư
mà giai cấp công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm đoạt. Chính căn cứ vào tiêu
chí này mà những người công nhân dưới chủ nghĩa tư bản được gọi là giai cấp vô sản.
+ Sau cách mạng vô sản thành công, giai cấp công nhân trở thành giai cấp
cầm quyền. Nó không còn ở vào địa vị bị áp bức, bị bóc lột nữa, mà trở
thành giai cấp thống trị, lãnh đạo cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Giai cấp công nhân cùng với toàn thể
nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu đã công hữu hóa.
Như vậy họ không còn là những người vô sản như trước và sản phẩm thặng
dư do họ tạo ra là nguồn gốc cho sự giàu có và phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ vào hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp
công nhân như sau: Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa
ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá
trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội;
đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.
. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Khi phân tích xã hội tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác với hai phát kiến vĩ
đại, đó là quan niệm duy vật về lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, đã
chứng minh một cách khoa học rằng sự ra đời, phát triển và diệt vong của
chủ nghĩa tư bản là tất yếu và cũng khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến nhất và cách mạng nhất, là lực lượng xã hội duy nhất có sứ mệnh
lịch sử: xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng xã hội mới –
xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Là giai cấp cơ bản bị áp bức dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ
có thể thoát khỏi ách áp bức bằng con đường đấu tranh giai cấp chống giai
cấp tư sản, bằng con đường thủ tiêu chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và thiết
lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Bằng cách đó, giai cấp công nhân
vĩnh viễn thủ tiêu mọi hình thức người bóc lột người, chẳng những tự giải
phóng mình, mà còn giải phóng cả các tầng lớp lao động khác, giải phóng
dân tộc và giải phóng toàn thể nhân loại.
Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử thế giới là do địa vị kinh tế - xã hội
khách quan của nó quy định:
- Dưới chủ nghĩa tư bản, với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp
công nhân ra đời và từng bước phát triển. Giai cấp công nhân là bộ phận
quan trọng nhất, cách mạng nhất của lực lượng sản xuất có trình độ xã hội
hóa cao. Đây là giai cấp tiên tiến nhất, là lực lượng quyết định phá vỡ quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, là người duy nhất có khả năng lãnh đạo xã hội
xây dựng một phương thức sản xuất mới cao hơn phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là giai cấp tiêu biểu cho xu hướng phát triển của lịch sử trong thời đại ngày nay.
- Mặc dù là giai cấp tiên tiến, nhưng giai cấp công nhân không có tư liệu sản
xuất nên buộc bán sức lao động của mình cho nhà tư bản để sống. Họ bị giai
cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư mà họ đã tạo ra trong thời gian lao động.
Một khi sức lao động đã trở thành hàng hóa, thì người chủ của nó (người vô
sản) phải chịu đựng mọi thử thách, mọi may rủi của cạnh tranh; số phận của
nó tùy thuộc vào quan hệ cung – cầu hàng hóa sức lao động trên thị trường
làm thuê và phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ bị giai cấp tư
sản áp bức, bóc lột và ngày càng bị bần cùng hóa cả đời sống vật chất lẫn đời
sống tinh thần. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
là mâu thuẫn đối kháng, cơ bản, không thể điều hòa trong xã hội tư bản chủ
nghĩa. Xét về mặt bản chất, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức bóc lột tư bản chủ nghĩa. Những
điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng, họ chỉ có thể giải
phóng mình bằng cách giải phóng toàn thể nhân loại khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa. Trong cuộc cách mạng ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Địa vị kinh tế - xã hội khách quan không chỉ khiến giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cách mạng triệt để mà còn tạo cho họ có khả năng thực hiện
được sứ mệnh lịch sử đó. Đó là khả năng đoàn kết giai cấp trong cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới. Đó là khả năng đoàn kết
với các giai cấp lao động khác chống chủ nghĩa tư bản. Đó là khả năng đoàn
kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên quy mô quốc tế
chống chủ nghĩa đế quốc.
Vì vậy, C. Mác và Ph. Ăngghen khẳng định: “Trong tất cả các giai cấp hiện
đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản thực sự cách mạng.
Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại
công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”.
- Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân việt nam?
GCCN Việt Nam có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân:
- Là giai cấp tiên tiến, là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất, là giai
cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật và có tinh thần quốc tế vô
sản nhưng do hoàn cảnh lịch sử giai cấp công nhân Viêt Nam còn có những
đặc điểm riêng như sau:
+Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, bị ba tầng áp bức nặng nề ngay từ mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng của cách mạng Tháng 10 Nga, tiếp thu CN Mac-
Lênin, không bị ảnh hưởng của các trào lưu tư tưởng tiểu tư sản, GCCN Viêt
Nam từ khi có đảng lãnh đạo, đã nhanh chóng bước lên vũ đài chính trị với
tư cách là một lực lượng chính trị độc lập với mục tiêu:
+ Giải phóng dân tộc xây dựng thành công CHXH và CNCS ở Viêt Nam.
GCCN khi sinh ra đã kế thừa truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc
ngoại xâm của dân tộc, tinh thần đó lại được nhân lên gấp bội khi có sự lãnh
đạo của Đảng Sinh ra và trưởng thành ở một nước phong kiến nửa thuôc địa,
nông nghiệp lạc hậu nện hạn chế lớn nhất của giai cấp công nhân Viêt Nam
là còn chịu ảnh hưởng tư tưởng nho giáo phong kiến, tác phong của nền sản
xuất nhỏ tiểu nông, câu nệ với sách vở, xa rời quần chúng, thoát ly sản xuất,
chúng ta đừng có ảo tưởng những tàn dư tâm lý sản xuất nhỏ ấy có thể một
ngày, hai ngày bị quét sạch ra khỏi đời sống xã hội.
+ GCCN Việt Nam hiện nay gồm người lao động chân tay, lao động trí óc,
hoạt động sản xuất trong các ngành công nghiệp thuộc các Doanh nghiệp nhà
nước, hợp tác xã, khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài, họ đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến có tri thức. Họ là lực lương đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân, nông dân trí thức.
+ Nhược điểm của giai cấp công nhân Việt Nam: như số lượng còn ít, chưa
được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ văn hoá và tay
nghề còn thấp. Nhưng điều đó không thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch
sử chủ nghĩa GCCN Viêt Nam.
+Xét về bản chất thì chưa thể có và không thể có tổ chức chính trị nào, giai
cấp nào có thể thay thế được giai cấp công nhân trong sự nghiệp xây dựng
một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động được làm chủ, đất nước độc lập
và phồn vinh xóa bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu
cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.