Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của Hiến
pháp Việt Nam năm 1946
ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa m 1911 chính sách duy tân
Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới tri thức Việt Nam đã
xuất hiện tưởng lập hiến. hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời
gian này. Khuynh hướng thứ nhất, xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến
trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp. Khuynh hướng thứ
hai, chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó xây dựng hiến pháp
của nhà nước độc lập không độc lập, t do thì không thể hiến pháp
thực sự.
Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gửi tám điểm yêu sách
của nhân dân An Nam cho Hội nghị Versailles của các nước đồng minh, trong
đó đã thể hiện tư tưởng lập hiến của Người. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc
đã dịch diễn thành lời ca bản “Yêu sách của nhân dân An Nam để tuyên
truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điểm yêu sách,
đáng lưu ý điểm thứ 7 - đó yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Việt
Nam:
“Bảy xỉn Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải thần lỉnh pháp quyền”
Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại cho công bố một bản yêu sách nữa mang đầu
đề: “Lời hoán cùng Vạn quốc hội”. Bản yêu sách đòi trả quyền tự quyết
cho nhân dân Việt Nam đòi quyền độc lập hoàn toàn tức khắc ngay cho
dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách tuyên bố:
Nếu được độc lập ngay thì Việt Nam sẽ tình nguyện trả (dần
từng năm) một phần nợ nước Pháp đã vay Mỹ Anh trong
hồi Ằu chiến, Việt Nam sẽ Hoà ước liên minh với nước Pháp
sẽ xếp đặt một nền hiến pháp theo tưởng dân quyền ”.
1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1946
Sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một
trong những nhiệm vụ cấp bách đó xây dựng hiến pháp, về vấn đề hiến
pháp, Người viết: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị,
rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không
hiến pháp. Nhân dân ta không được ởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta
phải một hiển pháp dân chủ”'7
Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành sắc lệnh thành lập Ban dự
thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng
11/1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc Bản dự thảo được công bố
cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng
góp ý kiến cho Bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của họ về
độc lập tự do.
Ngày 02/3/1946, trên sở Bản dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội
(khoá I, họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người
đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu. Ban dự thảo nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân
dân xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét thông
qua.
Ngày 28/10/1946, tại Nhà hát lớn Nội, họp thứ hai của Quốc hội khoá I
đã khai mạc. Ngày 09/11/1946, sau hơn 10 ngày làm việc khẩn trương, Quốc
hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2
phiếu chống.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến
tranh Hiến pháp năm 1946 không được chính thức ng bố, việc tổ chức
tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không điều kiện thực hiện. Tuy
nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban
thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần nội dung của Hiến pháp
năm 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
2. Nội dung bản của Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương 70 điều.
Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn kiến thiết quốc gia trên nền tảng n chủ.
Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc bản của hiến pháp. Đó những
nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân.
Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên
tắc bản trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm bản
của Hiến pháp năm 1946.
Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều 1 Hiến pháp năm 1946
quy định: “Nước Việt Nam một nước dân chủ cộnghoà. Tất cả quyền bính
trong nước của toàn thể nhân dần Việt Nam, không phân biệt nòi giong, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo Đây một bước tiến lớn trong lịch sử phát
triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên nước ta cũng như Đông Nam
Á, một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập. Lần đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam, hình thức chính thể hình thức cộng hoà. Đó bước ngoặt
lớn trong sự phát triển của tưởng dân chủ. Quy định trên đây cũng đề cao
tính dân tộc của Nhà nước.
Tuân thủ nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”, Hiến pháp năm
1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Điều đó th hiện chỗ Hiến pháp
7 chương thì Chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo các quyền tự do, dân
chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: “Cémg dãn Việt Nam quyền tự do ngôn
luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức hội họp, t do tín ngưỡng, tự do trú,
đi lại trong nước ra nước ngoài”. Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 một
bản hiến pháp dân chủ rộng rãi. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền
bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6
Điều 7 Hiến pháp năm 1946). cũng lần đầu tiên trong lịch sử n tộc,
phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản hiến
pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử,
nhân dân quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng
đáng với danh hiệu đó.
Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ ng suốt của nhân
dân, hình thức nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 nhiều nét độc đáo
đáng chú ý. Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước vừa người đứng
đầu Nhà nước, vừa người đứng đầu Chính phủ. Mặt khác, Chủ tịch nước
quyền phủ quyết. Quyền đó thể hiện Điều 31 Điều 54 Hiến pháp năm
1946. Điều 31 Hiến pháp năm 1946 quy định: “.Những luật đã được Nghị viện
biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bổ chậm nhất 10 hôm sau khi
nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ẩy, Ch tịch cỏ quyền yêu cầu Nghị
viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện
ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố”. Còn Điều 54 Hiến pháp năm
1946 quy định: “Trong hạn 24 giờ sau khỉ Nghị viện biểu quyết không tín
nhiệm Nội c thì Chủ tịch nước Việt Nam quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra
Nghị viện thảo luận lại”. Như vậy, hình thức chính thể của Nhà nước ta theo
Hiến pháp năm 1946 phần nào giống nh thức cộng h tổng thong. Nhưng
Chủ tịch của nước ta theo Hiến pháp năm 1946 không phải do cử tri trực tiếp
bầu ra do Nghị viện nhân dân bàu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ
tướng trong Nghị viện đưa ra Nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn Bộ
trưởng trong Nghị viện đưa ra Nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự
kiểm soát của Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì
phải từ chức. Những quy định trên cho thấy hình thức chính thể của Nhà
nước ta theo Hiến pháp năm 1946 hình thức kết hợp giữa cộng hoà tổng
thống cộng hoà nghị viện. Những t độc đáo của còn thể hiện chỗ
không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cùng
hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha...
Qua những nét phân tích trên chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của
nước ta - Hiến pháp năm 1946 một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không
kém bất một bản hiến pháp nào trên thế giới.
Về thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 một bản Hiến pháp đọng,
khúc chiết, mạch lạc dễ hiểu với tất cả mọi người. một bản Hiến
pháp mẫu mực trên nhiều phương diện.
===
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 đạo luật gốc, bản được Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I, họp thứ 2 thông qua ngày 09.11.1946,
gồm 7 chương, 70 điều.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, ra đời khi nhân dân Việt
Nam đã đánh đ được xiểng xích thực dân, làm ch nước nhà, lập nên nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong khi các thế lực thù địch trong ngoài
nước đang ra sức phá hoại, rắp tâm thủ tiêu chính quyền nhân dân.
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ lâm thời, Chủ tịch H Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng
một Hiến pháp dân chủ, nhiệm vụ tính lịch sử đó đã được chỉ đạo thực
hiện bằng con đường dân chủ: tổ chức tổng tuyển cử tự do phổ thông đầu
phiếu để cử tri trong cả nước không bất một sự phân biệt nào bầu ra
Quốc hội lập hiến làm ra Hiến pháp dân chủ h đại nghị hoặc cộn hai hình
thức t chức này.
Để xây dựng dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội lập hiến, cùng với công việc
chuẩn bị tiến hành tổng tuyển cử, một Uỷ ban d thảo Hiến pháp do chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập. “Mặc đất nước đang
hết sức bộn bề với muôn vàn công việc khẩn cấp, Ban dự thảo Hiến pháp đã
họp nhiều phiên dưới sự chủ toạ trực tiếp của Bác. Với trí tuệ uyên bác, với
quan điểm lấy dân làm gốc, Bác đã đưa vào Hiến pháp đầu tiên của nước ta
những điều luật ngang tâm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giồ
nhiều điều còn giá trị nóng hổi bởi tính thời sự cho đến hôm nay (Võ
Nguyên Giáp).
Sau gần 2 tháng y dựng, từ ngày thành lập Uỷ ban dự thảo (từ 20.9 đến
10.11.1945) một dự thảo Hiến pháp đã được ng bố trên Báo cứu quốc để
lấy ý kiến nhân n đóng góp. Tại họp th nhất ngày 02.3.1946 của Quốc
hội khoá Ï, Tiểu ban Hiến pháp của Quốc hội đã được thành lập để tiếp tục
nghiên cứu bản dự thảo các kiến nghị của nhân dân tham gia ý kiến.
họp thứ 2 của Quốc hội Khoá Ì khai mạc ngày 28.10.1946, đã quyết định các
thành phần trong Tiểu ban, Hiến pháp để sửa đổi, bổ sung Dự thảo đến
ngày 09.11.1946 thì chính thức thông qua Hiến pháp - Đạo luật bản đầu
tiên của Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 bản Hiến pháp ghỉ nhận thành quả đấu tranh gần 100
năm của dân tộc Việt Nam giành độc lập, tự do. Tiếp theo "Tuyên ngôn độc
lập" ngày 02.9.1945, Hiến pháp năm 1946 trang trọng xác nhận: "Cuộc cách
mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân
lập ra nền dân chủ cộng hoà”. đạo luật bản của chính quyển nhân
dân, trước tình
hình phức tạp trong ngoài nước, trước các âm mưu thâm độc của thù
trong giặc ngoài mong lật đ chế độ cộng h n chủ, thủ tiêu quyền độc lập,
tước đoạt một lần nữa chủ quyền lãnh thổ quốc gia, Hiến pháp năm 1946
kiên nghị xác định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn kiến thiết quốc gia 2% trên nền tảng dân
chủ.
Nhận thức trách nhiệm trước nhân dân cả nước xây dựng bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội khẳng định: Hiến pháp
Việt Nam phải ghi nhận những thành quả vẻ vang của cách mạng phải xây
dựng trên những nguyên tắc: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi,
gái trai, giai cấp, tôn giáo; đảm bảo quyền t do dân chủ; thực hiện chính
quyền mạnh mẽ ng suốt của nhân dân (Lời nói đầu). Cùng với “Lời nói
đầu" thể hiện những tưởng chỉ đạo bản, nội dung của Hiến pháp năm
1946 gồm 7 chương, 70 điều quy định một cách đọng, bao quát những
thiết chế bản của một Nhà nước, một hội dân chủ ch mới những
bước đi đầu tiên trên con đường dân chủ.
Chương I - Chính thể: với ba điều (Điều 1, 2 Điều 3) quy định: Nước Việt
Nam một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
tôn giáo” (Điều 1), “Đất nước Việt Nam một khối thống nhất Trung Nam
Bắc không thể phân chia" (Điều 2), “Cờ của nước Việt Nam n chủ cộng
hoà nền đỏ, giữa sao vàng năm cánh" (Điều 3) ba thể chế bản, chủ
yếu, quan trọng nhất chính những lực lượng thù địch trong ngoài nước,
không chỉ âm mưu đang thực thi những hành động vừa trắng trợn, vừa
nham hiểm nhất để nhằm xoá bỏ, thủ tiêu từng thể chế cả ba thể chế.
Chương II - Nghĩa vụ quyền lợi của công n: với 3 mục: Nghĩa vụ (mục
A); Quyền lợi (mục Bì); Bầu cử, bãi miễn phủ quyết (mục C), quy định các
quyền lợi, nghĩa vụ bản của công dân. Đáng chú ý, đây lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến các nước, trong một bản Hiến pháp, chế định quyền
nghĩa vụ công dân lại được đặt cao như vậy, ngay tại Chương II chỉ sau
Chương Ì về chính thể. Việc đặt nghĩa vụ công dân lên đầu chương này cũng
rất đáng chú ý. Các quyền lợi công dân quy định tại 16 điều, được tách thành
hai mục B €. Mục B với tiêu đề: "quyền lợi công dân" với 11 điều, quy định
rất bao quát, từ vị trí ngang quyền của tất cả công dân Việt Nam về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá (Điều 6); đều bình đẳng trước
pháp luật, đều được tham gia chính quyền công cuộc kiến quốc, tất nhiên
không thể như nhau còn tuỳ theo tài năng đức hạnh của mỗi người
(Điều 7), th hiện một cách tiếp cận cực tỉnh tế của c nhà lập hiến. Về
các quyền tự do dân chủ, Hiến pháp quy định công dân Việt Nam quyền tự
do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức hội họp; t do tín ngưỡng; tự
do trú, đi lại trong nước ra nước ngoài. Như vậy, hai loại quyền bản
đối với mỗi nhân: quyển bình đẳng, ngang quyền về mọi phương diện
các quyền t do dân chủ của mỗi nhân đã được Hiến pháp quan tâm quy
định đầy đủ, không hề một phân biệt đối xử nào. Đồng thời, tính đến hoàn
cảnh thực tế, địa vị hội của từng b phận, tầng lớp dân trong hội
như hệ quả của sự phát triển lịch sử trong điều kiện hội phong kiến,
thực dân trước đây, Hiến pháp đã dành một số điều của mục B đưa ra những
quy định nh đặc t th hiện sự quan tâm, chăm lo đến từng bộ phận dân
vốn chịu sự thiệt thòi đối xử bất công trong các hội phong kiến, thực
dân do về giới, về thành phần dân tộc, về những hạn chế về tuổi tác, về
tật nguyền... Cụ thể, Điều 9 quy định “đàn ngang quyền với đàn ông về
mọi phương diện"; “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu
số được giúp đồ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều
8); "những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp
đỡ. Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng" (Điều 14); “Học trò nghèo
được Chính phủ giúp đỡ (Điều 15).
Hiến pháp còn dành một số điều quy định những chế định giữ vị trí trung tâm
trong đời sống kinh tế - hội của đất nước. Điều 12 ghỉ: “Quyền hữu tài
sản của công dân Việt Nam được bảo đảm"; Điều 13: “Quyền lợi c giới cần
lao t thức chân tay được bảo đảm". Điều 11 cũng điều được đặc biệt
chú ý: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ giam cầm người
công dân Việt Nam. Nhà t tín của ng dân Việt Nam không ai được
xâm phạm một cách trái pháp luật" cuối mục B này, trung thành với các
tưởng dân chủ, tự do, các nhà lập hiến Việt Nam đã dành Điều 16 để quy
định: “Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ tự do phải trốn
tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam". Mục C Chương ¡l đã được dành
riêng để quy định về bầu cử, bãi miễn phủ quyết tại 5 điều. Về mặt này,
thể nói Hiến pháp không tạo khung, vạch hành lang cho chế độ bầu cử mà
ghi nhận, đưa o Hiến pháp thực tế cuộc bầu cử đã được tiến hành trước
đó gần một năm. Nói một cách khác, đã diễn ra một tình huống rất đặc thù
của cuộc vận động cách mạng dân tộc, dân chủ của Việt Nam, khi Hiến pháp
đi sau thực tế tiến trình cách mạng đã diễn ra Hiến pháp không còn phải
làm chức năng dọn đường, vạch hành lang, tạo khung pháp luật cho diễn tiến
của cuộc ch mạng ghi nhận lại cái đã diễn ra, thể chế hoá các thành
quả đã đạt được thành quy tắc tính hiến định về chế đ bầu cử: phổ thông
đầu phiếu; bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp kín; tất cả công dân từ 18 tuổi trở
lên không phân biệt trai gái, đều quyền bầu cử; nhân dân quyền bãi
miễn các đại biểu mình đã bầu ra; nhân dân quyền phủ quyết về Hiến
pháp những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.
Chương III- Nghị viện nhân dân: gồm 23 điều (từ Điều 22 đến Điều 42),
chương lớn nhất của Hiến pháp. Ngh viện nhân dân quan quyền cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Điều 22); giải quyết mọi vấn để
chung cho toàn quốc; đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các
hiệp ước Chính phủ với nước ngoài (Điều 24), Nghị viện quyết nghị
theo q nửa số nghị viên mặt, nhưng muốn tuyên chiến thì phải hai
phần ba số nghị viên mặt bỏ phiếu thuận (Điều 29), Các luật đã được Nghị
viện biểu quyết phải được Chủ tịch nước ban bố chậm nhất 10 ngày sau khi
nhận được thông tin. Chủ tịch nước quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại
nhưng nếu luật vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì Chủ tịch nước bắt buộc
phải ban b (Điều 31). Nghị viện lập Ban thường vụ gồm 1 nghị trưởng, 2 phó
nghị trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết đều được bầu bởi
Nghị viện (Điều 27). Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ quyền biểu
quyết những dự án sắc luật do Chính phủ trình phải đem trình Nghị viện
vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ; triệu tập Nghị
viện nhân dân; kiểm soát phê bình Chính phủ (Điều 36). Khi Nghị viện
không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ quyển quyết định
tuyên chiến hay đình chiến (Điều 38).
Chương IV - Chính phủ: 14 điều, từ Điều 43 đến Điều 56. Điều 43 xác định
Chính phủ quan hành chính cao nhất của toàn quốc. Chính phủ gồm
Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch Nội các. Nội c Thủ tướng, các B
trưởng, Thứ trưởng. Có thể Phó Thủ tướng (Điều 44). Chủ tịch nước được
chọn trong Nghị viện nhân dân phải được hai phần ba trong tổng sế nghị
viên bỏ phiếu thuận; nếu không đủ số phiếu ấy thì lần bổ phiếu thứ nhì sẽ
theo đa số tương đố: (Điều 45). Ch tịch nước được Hiến pháp quy định
những quyền hạn rất rộng i: thay mặt cho nước; giữ quyền tổng chỉ huy
quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức c tướng soái...; sắc lệnh b
nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các...; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố
các đạo luật đã được Nghị viện nhân dân quyết nghị; thưởng huy chương
các bằng cấp danh dự, đặc xá; hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt
Nam đến nước ngoài tiếp nhận đại biểu ngoật giao của các nước; trong
trường hợp Nghị viện nhân dân không họp được, cùng Ban thường vụ quyết
định tuyên chiến hay đình chiến.
Những quyền hạn Hiến pháp giao cho Ch tịch nước hết sức rộng rãi,
về đại thể nhiều nét tương đồng với quyền hạn của Tổng thống các nước
theo chế độ tổng thống. Điều đó không ngẫu nhiên. Một trong ba nguyên tắc
lớn được đ ra ngay trong Lời nói đầu làm phương châm chỉ đạo thiết kế các
thể chế của Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam là: “thực hiện chính
quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân”. Trong điều kiện của những năm
đầu ch mạng mới thành công, kẻ thù tàn bạo trong ngoài nước đang ra
sức p hoại, hòng lật đổ chính quyền nhân dân, khi bản thân chính quyền
non trẻ đang trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” khi ng cuộc “bảo
toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn kiến thiết quốc gia trên nền tẳng
dân chủ" đã trở thành một nhiệm vụ trực tiếp cùng bức thiết thì việc
thiết kế một chức danh Ch tịch nước, nguyên th quốc gia với sự tập trung
nhiều quyền lực cùng cần thiết. Trong lúc đó, tại Điều 50 Hiến pháp lại
xác định: “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ
khi phạm tội phản quốc".
Đồng thời, Hiến pháp còn quy định: “Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách
nhiệm về con đường chính trị của nội các” (Điều 54), còn c Bộ trưởng như
quy định tại Điều 53, tu theo quyền hạn của các bộ, phải tiếp vào các sắc
lệnh Chủ tịch nước đã Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Nghị viện
về các sắc lệnh đã tiếp ký. Trong cả hai trường hợp: về con đường chính trị
của Nội các, về các sắc lệnh Chủ tịch nước đã ký, Hiến pháp đều không
quy định Chủ tịch nước phải chịu bất một trách nhiệm nào.
Bằng những quy định đó, Hiến pháp dành cho Chủ tịch nước, trong khi thực
hiện những quyền hạn rộng lớn trong lãnh đạo đất nước, quyền ch động
trong việc đưa ra những quyết định h trọng, khi sống n của đất nước.
Đó thực sự một thiết chế đặc biệt, vừa phản ánh tính quyết liệt, khẩn
trương của tình hình đất nước, vừa thể hiện sự tin cậy, sự u thác rất cao
các đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân cả nước dành cho Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Đối với Nội các các Bộ trưởng, vấn đề tín nhiệm đã được đặt ra: Bộ
trưởng nào không được tín nhiệm thì phải từ chức (Điểu 54); Ngh viện thể
biểu quyết về vấn đ tín nhiệm, khi Thủ tướng, Ban thưởng vụ hoặc một phần
tổng số nghị viên nêu vấn đề đó ra.
Chương V - Hội đồng nhân dân Uỷ ban hành chính: Cả nước về phương
diện hành chính gồm ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi b chia thành tỉnh; tỉnh
chia thành thành huyện; huyện chia thành tỉnh, thành phố, thị
Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố hay cử ra Uỷ
ban hành chính. bộ huyện chỉ U ban hành chính do Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp bầu ra.
Chương VI - quan pháp gồm: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm;
các Toà án đệ nhị cấp cấp (Điều 63). Thẩm phán do Chính phủ bổ
nhiệm. Xử việc hình Phụ thẩm nhân n để: hoặc tham gia ý kiến, nếu
việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình (Điều
65). Dân tộc thiểu số quyền dùng tiếng nói của mình trước toà (Điều 66).
Bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật (Điều 67). Cấm tra tấn,
đánh đập, ngược đãi bị cáo tội nhân (Điều 68). Khi xét xử, Thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các quan khác không được can thiệp.
Chương VII - Sửa đối Hiến pháp: khi hai phần ba tổng số Nghị viên u
cầu. Những điều sửa đổi được Nghị viện ưng chuẩn phải đưa ra toàn dân
phúc quyết. ng với việc thông qua Hiến pháp Sãš năm 1946, Quốc hội ra
Nghị quyết giao Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố thi
hành Hiến pháp khi điều kiện. Trong thời chưa thi hành được thì Chính
phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành
các sắc luật. Ngày 19.12.1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng n nên
Hiến pháp năm 1946 chính thức chưa được công b thi hành, nhưng tinh
thần, lời văn của các thể chế hiến định tác dụng to lớn đối với công tác tổ
chức, lãnh đạo, điều hành công việc của Chính phủ. Hiến pháp năm 1946
cũng tác dụng to lớn, khi đến được với nhân dân các nước, giúp cho họ
hiểu biết hơn nhân dân ta chế độ mới dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch
Hồ
Chí Minh đang xây dựng.
Tìm hiểu về Hiến pháp Việt Nam m 1959
Hiến pháp Việt Nam năm 1959 Đạo luật gốc, bản được Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa Khoá I, họp thứ 11 thông qua ngày 31.12.1959
Chủ tịch Hồ Chí Minh lệnh công bố ngày 01.01.1960, gồm 10 chương
112 điều. Hiếp pháp năm 1959 bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt
Nam, thay thế Hiến pháp năm 1946, ra đời khi đất ớc đang tạm thời bị chia
cắt thành hai miền. Tại họp thứ 6, Quốc hội Kh l (cuối m 1956 đầu
năm 1957) đã quyết định sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
Trưởng ban. Kế thừa phát triển các chế định th hiện bản chất, chức ng,
sức mạnh, các nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
thông qua sự thử thách, kiểm nghiệm của thực tế đấu tranh của nhân dân,
Hiến pháp năm 1959, một mặt ghi lại theo tinh thần lời văn của nhiều chế
định của Hiến pháp năm 1946, mặt khác, đã mở rộng phạm vi quy định,
thêm những chương mới chưa được quy định Hiến pháp năm 1946. Đó là
Chương II, "Chế độ kinh tế hội' một chương lớn với 13 điều, hoặc
chế định “Chủ tịch nước” được tách ra khỏi chế định Chính phủ quy định
thành một chương riêng, Chế định: “Quốc kì, Quốc huy Thủ đô" Hiến
pháp năm 1946 đặt thành một điều Chương l “Chính thể" đã được tách
thành một chương, riêng “Quốc ki, Quốc huy, Thủ đô” với 3 điều đặt cuối
Hiến pháp, ơng t như Hiến pháp nhiều nước trên thế giới. “Lời nói đầu"
cũng như Điều 1 đều khẳng định: "Nước Việt Nam một nước thống nhất từ
Lạng Sơn đến Maư'" (Lời nói đầu) hoặc "Nước Việt Nam một khối Bắc
Nam thống nhất không thể chia cắt' (Điều 1). Nội dung chính của “Lời nói
đầu" tính chất của một bản tổng kết lịch sử đấu tranh trong suốt gần 100
năm b thực dân Pháp đô hộ độc lập, tự do, nhất từ khi sự lãnh đạo
của Đảng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra một tuyên ngôn,
phương hướng cho cuộc đấu tranh trong thời tới: "Cách mạng Việt Nam
chuyển sang một hình thể mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc
đưa miền Bắc tiến lên ch nghĩa hội tiếp tục đấu tranh, hoà bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả
nước”, chỉ “Hiến pháp mới một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến
pháp mới sức mạnh động viên nhân dân cả nước phấn khỏi tiến lên giành
những thắng lợi mới".
Chương I, “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, c định tính nhân dân của
Nhà nước: Nhà ớc Việt Nam dân ch cộng hoà... một nước dân chủ
nhân dân; Điều 3 xác định: "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà một nước
thống nhất gồm nhiều dân tộc", đồng thời, thiết kế một quy định mang tính thể
chế chính quyền tự trị đối với các dân tộc thiểu số: "Những địa phương
dân tộc thiểu số sống tập trung thì thể thành lập khu vực t trị. Khu tự trị
khu vực không thể tách rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Điều 4 ghi lại quy định của Điều 1 Hiến pháp năm 1946 với sự điều chỉnh
“quyền bính" thành quyền lực" cả cách thể hiện: từ “Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” thành: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân". Nhân dân khái niệm nội dung giai cấp. Cũng vậy, cách thể hiện:
“Toàn thể nhân dân không phân biệt...” phạm vi rộng n khái niệm nhân
dân. Đây cũng một trong những khuynh hướng hội chủ nghĩa đầu tiên
Hiến pháp năm 1959. Điều 5 đề cập đến chế đ tuyển cử đại biểu Quốc hội
Hội đồng nhân dân; Điều 6 (mới) quy định trách nhiệm của tất cả c
quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên h chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến chịu sự kiểm soát của nhân dân; Điều 7 quy định những
hành vi bị nghiêm cấm bị Nhà nước trừng trị; Điều 8 về nhiệm vụ của lực
lượng trang nhân dân.
Chương II - Chế độ kinh tế hội quy định đường lối tiến dần từ chế độ
dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa hội bằng cách cải tạo nền kinh tế quốc
dân theo chủ nghĩa hội; Điều 10 xác định: “Nhà nước lãnh đạo kinh tế theo
một kế hoạch thống nhất, Điều 11 nói đến các thành phần sở hữu trong
trong thời quá độ Điều 12 - vai trò lãnh đạo của kinh tế quốc doanh
trong nền kinh tế quốc dân; Điều 13 - về vị trí của kinh tế hợp c chính
sách của Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn giúp đỡ phát triển;
Điều 14 - về chính sách của Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của nông dân
khuyến khích họ tổ chức các hợp tác xã... cũng như chính sách kinh tế đối
với người làm nghề thử công, khuyến khích họ t chức hợp tác (Điều 18)
bảo hộ quyền sở hữu về liệu sảg xuất của cái khác của nhà sản dân
tộc...
Chương II - Quyền lợi nghĩa vụ bản của công n gồm 23 điều
chương lớn nhất của Hiến pháp, thể hiện một bước phát triển dài của chế
định quyền ng dân trong hội ta những năm 60, 70 trên sở kế thừa
các quy định tính mở đầu của Hiến pháp năm 1946, chủ yếu theo hướng
vừa mở rộng số lượng các quyền Hiến pháp năm 1946, trong điều kiện
của những năm đầu chính quyền nhân dân non trẻ, chưa quy định như quyền
làm việc iều 30), quyền nghỉ ngơi (Điều 31), quyền t do nghiên cứu khoa
học... Đáng ghi nhận Hiến pháp quy định quyền khiếu nại tố o của
công dân về những hành vi phạm pháp của nhân viên trong quan nhà
nước quyền được bồi thường về những thiệt hại hành vi phạm pháp gây
ra
(Điều 29). Đồng thời, Hiến pháp cụ thể hoá các quyền đã được Hiến pháp
năm 1946 quy định nhưng đang dừng lại dạng tuyên ngôn, nguyên tắc như
Điều 32 về quyền được giúp đ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất
sức lao động được bảo đảm bằng việc Nhà nước m rộng dần các tổ chức
bảo hiểm hội, cứu tế y tế để người lao động được hưởng quyền đó,
hoặc về quyền học tập: công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà quyền
học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát
triển dần các trường học quan văn hoá, thuật, nghiệp vụ, tại các
quan, nghiệp các tổ chức khác thành thị nông thôn, đ bảo đảm
cho công dân được hưởng quyền đó (Điều 33). Đối với các quyền tự do, dân
chủ, bình đẳng, ngang quyền của Hiến pháp năm 1946 cũng đều được ghi
nhận lại phát triển theo hướng bổ sung các biện pháp bảo đảm thực hiện,
như Điều 25, 26, 27, 28: công dân nước Việt Nam dân ch cộng h c
quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội biểu tình, tự do tín
ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nhà ở, về thư tín... Nhà
nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng
các quyền đó.
Các chương từ Chương IV đến Chương VII| quy định về t chức bộ máy nhà
nước, chiếm một nửa số chương (5/10) gần 60% số điều (68/112), so với
các quy định của Hiến pháp năm 1946 những điểu chỉnh lớn theo hướng
dân chủ hoá, để cao, phát huy chế độ đại diện, phát triển quyền dân chủ
sinh hoạt chính trị của toàn dân, để tích cực phát huy tính tích cực sức
sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người dân Việt Nam thực sự tham gia
quản công việc nhà nước. Điều 43, 44 c định: Quốc hội quan quyền
lực nhà nước cao nhất quan duy nhất quyền lập pháp. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội là quan thường trực của Quốc hôi quyền ra pháp
lệnh, giải thích pháp luật, quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân; sửa đổi
hoặc bãi bỏ những nghị định, ngh quyết, chỉ th của Hội đồng Chính phủ trái
với Hiến pháp, luật, pháp lệnh; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên
cục bộ; quyết định việc giới nghiêm toàn quốc hoặc từng địa phương; quyết
định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước với nước ngoài. Trong
thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố nh trạng chiến tranh
trong trường hợp nước nhà bị xâm lược cũng như quyết định việc bổ nhiệm
hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng những thành viên khác của Hội đồng Chính
phủ.
Như vậy, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quan thẩm quyền rộng lớn,
một số quyền mà Hiến pháp năm 1946 giao cho Chủ tịch nước hoặc Chính
phủ t Hiến pháp này đã trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong điều
kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên, mỗi năm chỉ họp hai ngắn
ngày, các thẩm quyền trên đây đưa lại cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phản
ánh khuynh hướng tính phổ biến lúc bấy giờ các nước hội chủ nghĩa,
làm thay đổi tính chất của quan thường vụ của Quốc hội không còn
quan thường trực đơn thuần của quan lập pháp đồng thời thực hiện cả
một phần chức năng của nguyên thủ quốc gia hoặc quan hành pháp cao
nhất.
Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch nước do
Quốc hội bầu ra, không bắt buộc từ các vị đại biểu Quốc hội như Hiến pháp
năm 1946 công dân Việt Nam từ ba mươi lăm tuổi trở lên thì quyền
ứng cử Chủ tịch nước.
Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 4959, các quy định của Chương
"Chủ fịch nước” thể hiện bước chuyển hướng nét nhất sang hình quá
độ trong việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước cấp cao theo hình tổ
chức bộ máy n nước hội chủ nghĩa phổ biến đương thời. Chủ tịch nước
không thực hiện quyền lập quy ra sắc lệnh căn cứ vào nghị quyết của
Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội công bố pháp luật, pháp
lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng các thành viên khác
của Hội đồng Chính phủ, công bố lệnh đại lệnh đặc xá, tặng thưởng
huân chương danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến
tranh; công b lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới
nghiêm.
Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại cũng vậy, cùng với trách nhiệm tiếp nhận
đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài... Chủ tịch nước căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn hiệp ước với nước ngoài, cử
triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà nước ngoài (Điều 64).
Đồng thời, Hiến pháp vẫn tiếp tục trao cho Chủ tịch nước những quyền năng
tính thực quyền: thống lĩnh các lực lượng trang toàn quốc, giữ chức vụ
Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65); khi xét thấy cần thiết quyền tham
dự chủ toạ c phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66); khi xét thấy
cần thiết thì triệu tập chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt.
Chương VI, Hội đồng Chính phủ với tính cách một quan hợp nghị do
Thủ tướng đứng đầu, chủ toạ Hội đồng Chính phủ lãnh đạo công tác của
Hội đồng Chính ph (Điều 75). Hội đồng Chính phủ quan chấp hành của
quan quyền lực nhà nước cao nhất quan hành chính nhà nước
cao nhất.
Chương VII về Hội đồng nhân dân Uỷ ban hành chính quy định “Các đơn
vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân Uỷ ban hành
chính". Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, đây lần điều
chỉnh lớn tổ chức chính quyền
địa phương, mở ra thời tổ chức chính quyền địa phương 3 cấp hành chính,
địa bàn đô thị cũng n nông thôn được tiếp tục duy trì qua hai lần sửa
đổi bản Hiến pháp năm 1980 năm 1992.
Hội đồng nhân dân các cấp được xác định quan quyền lực nhà nước
địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương (Điều 80) với c nhiệm khác nhau: cấp tỉnh - 3 năm; các
cấp còn lại - 2 năm. Uỷ ban hành chính các cấp quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân cùng cấp, quan hành chính nhà nước địa phương.
Hội đồng nhân dân Uỷ ban hành chính ba cấp đều quyền lập quy. Hội
đồng nhân dân bầu bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân cấp mình (Điều
84).
Chương VIII quy định về Toà án nhân dân Viện kiểm sát nhân dân. Bằng
các quy định của chương này, lần đầu tiên, tầm hiến định, c Toà | án
nhân dân với tính cách quan xét xử các Viện kiểm sát nhân n với
tính cách là quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nước Viật Nam
dân chủ cộng h chính thức ra đời đầy đủ cả 3 cấp: trung ương, tỉnh,
huyện. Đây chính một bước phát triển lớn của các quan pháp nước
ta. Trước đó, do tình hình chiến tranh, các Toà án chỉ được thành lập các
cấp địa phương.
Các Toà án nhân n thực hiện chế độ thẩm phán bầu (Điều 98) việc xét
xử Hội thẩm nhân dân tham gia ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử
(Điều 99).
Các Viện kiểm sát nhân dân với tính cách quan kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, để bảo đảm pháp chế thống nhất trong cả nước, được thành lập
thành hệ thống thống nhất: Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự nh
đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên sự lãnh đạo thống nhất của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 107).
Chương X về sửa đổi Hiến pháp: ch Quốc hội mới quyền sửa đổi Hiến
pháp với hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Vấn đ
đưa ra nhân dân phủ quyết như Hiến pháp năm 1946 quy định, không còn đặt
ra.

Preview text:

Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của Hiến pháp Việt Nam năm 1946
ảnh hưởng của cách mạng Trung Hoa năm 1911 và chính sách duy tân mà
Minh Trị thiên hoàng đã áp dụng tại Nhật Bản, trong giới tri thức Việt Nam đã
xuất hiện tư tưởng lập hiến. Có hai khuynh hướng chính trị chủ yếu trong thời
gian này. Khuynh hướng thứ nhất, xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến
trong sự thừa nhận quyền bảo hộ của chính phủ Pháp. Khuynh hướng thứ
hai, chủ trương giành độc lập, tự do cho dân tộc, sau đó xây dựng hiến pháp
của nhà nước độc lập vì không có độc lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự.
Đầu năm 1919, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã gửi tám điểm yêu sách
của nhân dân An Nam cho Hội nghị Versail es của các nước đồng minh, trong
đó đã thể hiện rõ tư tưởng lập hiến của Người. Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc
đã dịch và diễn thành lời ca bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” để tuyên
truyền trong đồng bào Việt kiều sống trên đất Pháp. Trong tám điểm yêu sách,
đáng lưu ý là điểm thứ 7 - đó là yêu cầu lập hiến, lập pháp cho nhân dân Việt Nam:
“Bảy xỉn Hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần lỉnh pháp quyền”
Năm 1926, Nguyễn Ái Quốc lại cho công bố một bản yêu sách nữa mang đầu
đề: “Lời hô hoán cùng Vạn quốc hội”. Bản yêu sách đòi trả quyền tự quyết
cho nhân dân Việt Nam và đòi quyền độc lập hoàn toàn và tức khắc ngay cho
dân tộc Việt Nam. Bản yêu sách tuyên bố:
Nếu được độc lập ngay thì Việt Nam sẽ tình nguyện trả (dần
từng năm) một phần nợ mà nước Pháp đã vay Mỹ và Anh trong
hồi Ằu chiến, Việt Nam sẽ kí Hoà ước liên minh với nước Pháp
và sẽ xếp đặt một nền hiến pháp theo lý tưởng dân quyền ”.

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1946
Sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” lịch sử ngày 02/9/1945 khai sinh nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày
03/9/1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ; một
trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng hiến pháp, về vấn đề hiến
pháp, Người viết: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị,
rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có

hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta
phải có một hiển pháp dân chủ”'7
Ngày 20/9/1945, Chính phủ lâm thời ban hành sắc lệnh thành lập Ban dự
thảo Hiến pháp gồm 7 người, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Tháng
11/1945, Ban dự thảo đã hoàn thành công việc và Bản dự thảo được công bố
cho toàn dân thảo luận. Hàng triệu người Việt Nam hăng hái tham gia đóng
góp ý kiến cho Bản dự thảo Hiến pháp chứa đựng mơ ước bao đời của họ về độc lập và tự do.
Ngày 02/3/1946, trên cơ sở Bản dự thảo Hiến pháp của Chính phủ, Quốc hội
(khoá I, kì họp thứ nhất) đã thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 11 người
đại biểu của nhiều tổ chức, đảng phái khác nhau do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu. Ban dự thảo có nhiệm vụ tổng kết các ý kiến đóng góp của nhân
dân và xây dựng Bản dự thảo cuối cùng để đưa ra Quốc hội xem xét và thông qua.
Ngày 28/10/1946, tại Nhà hát lớn Hà Nội, kì họp thứ hai của Quốc hội khoá I
đã khai mạc. Ngày 09/11/1946, sau hơn 10 ngày làm việc khẩn trương, Quốc
hội đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta với 240 phiếu thuận, 2 phiếu chống.
Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Do hoàn cảnh chiến
tranh mà Hiến pháp năm 1946 không được chính thức công bố, việc tổ chức
tổng tuyển cử bầu Nghị viện nhân dân không có điều kiện thực hiện. Tuy
nhiên, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Ban
thường vụ Quốc hội luôn luôn dựa vào tinh thần và nội dung của Hiến pháp
năm 1946 để điều hành mọi hoạt động của Nhà nước.
2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp năm 1946 bao gồm lời nói đầu, 7 chương và 70 điều.
Lời nói đầu xác định nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.
Lời nói đầu còn xác định ba nguyên tắc cơ bản của hiến pháp. Đó là những nguyên tắc sau đây:
- Đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;
- Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;
- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Toàn bộ 7 chương của Hiến pháp đều được xây dựng dựa trên ba nguyên
tắc cơ bản trên. Chính ba nguyên tắc này đã thể hiện ba đặc điểm cơ bản của Hiến pháp năm 1946.
Xây dựng trên nguyên tắc đoàn kết toàn dân, Điều 1 Hiến pháp năm 1946
quy định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộnghoà. Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dần Việt Nam, không phân biệt nòi giong, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo
Đây là một bước tiến lớn trong lịch sử phát
triển của Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên ở nước ta cũng như ở Đông Nam
Á, một Nhà nước dân chủ nhân dân được thành lập. Lần đầu tiên trong lịch
sử Việt Nam, hình thức chính thể là hình thức cộng hoà. Đó là bước ngoặt
lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ. Quy định trên đây cũng đề cao
tính dân tộc của Nhà nước.
Tuân thủ nguyên tắc “đảm bảo các quyền tự do dân chủ”, Hiến pháp năm
1946 rất chú trọng đến chế định công dân. Điều đó thể hiện ở chỗ Hiến pháp
có 7 chương thì Chương II dành cho chế định công dân. Lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo các quyền tự do, dân
chủ. Điều 10 Hiến pháp quy định: “Cémg dãn Việt Nam có quyền tự do ngôn
luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú,
đi lại trong nước và ra nước ngoài”.
Phải nói rằng Hiến pháp năm 1946 là một
bản hiến pháp dân chủ rộng rãi. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền
bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được pháp luật ghi nhận (Điều 6
và Điều 7 Hiến pháp năm 1946). Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc,
phụ nữ được ngang quyền với nam giới trong mọi phương diện. Với bản hiến
pháp đầu tiên của nước ta, công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử,
nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình bầu ra khi họ không tỏ ra xứng đáng với danh hiệu đó.
Dựa trên nguyên tắc thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân, hình thức nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 có nhiều nét độc đáo
đáng chú ý. Theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước vừa là người đứng
đầu Nhà nước, vừa là người đứng đầu Chính phủ. Mặt khác, Chủ tịch nước
có quyền phủ quyết. Quyền đó thể hiện ở Điều 31 và Điều 54 Hiến pháp năm
1946. Điều 31 Hiến pháp năm 1946 quy định: “.Những luật đã được Nghị viện
biểu quyết, Chủ tịch nước Việt Nam phải ban bổ chậm nhất là 10 hôm sau khi
nhận được thông tri. Nhưng trong hạn ẩy, Chủ tịch cỏ quyền yêu cầu Nghị
viện thảo luận lại. Những luật đem ra thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện
ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban bố”.
Còn ở Điều 54 Hiến pháp năm
1946 quy định: “Trong hạn 24 giờ sau khỉ Nghị viện biểu quyết không tín
nhiệm Nội các thì Chủ tịch nước Việt Nam có quyền đưa vấn đề tín nhiệm ra
Nghị viện thảo luận lại”.
Như vậy, hình thức chính thể của Nhà nước ta theo
Hiến pháp năm 1946 phần nào giống hình thức cộng hoà tổng thong. Nhưng
Chủ tịch của nước ta theo Hiến pháp năm 1946 không phải do cử tri trực tiếp
bầu ra mà do Nghị viện nhân dân bàu ra. Mặt khác, Chủ tịch nước chọn Thủ
tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Thủ tướng chọn Bộ
trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Chính phủ chịu sự
kiểm soát của Nghị viện. Bộ trưởng nào không được Nghị viện tín nhiệm thì
phải từ chức. Những quy định trên cho thấy hình thức chính thể của Nhà
nước ta theo Hiến pháp năm 1946 là hình thức kết hợp giữa cộng hoà tổng
thống và cộng hoà nghị viện. Những nét độc đáo của nó còn thể hiện ở chỗ
nó không hề giống hoàn toàn hình thức chính thể của những nước cùng có
hình thức pha trộn như Pháp, Phần Lan, Bồ Đào Nha...
Qua những nét phân tích trên chúng ta thấy rằng Hiến pháp đầu tiên của
nước ta - Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không
kém bất kì một bản hiến pháp nào trên thế giới.
Về kĩ thuật lập pháp, Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp cô đọng,
khúc chiết, mạch lạc và dễ hiểu với tất cả mọi người. Nó là một bản Hiến
pháp mẫu mực trên nhiều phương diện. ===
Hiến pháp Việt Nam năm 1946 là đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà khoá I, kì họp thứ 2 thông qua ngày 09.11.1946, gồm 7 chương, 70 điều.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, ra đời khi nhân dân Việt
Nam đã đánh đổ được xiểng xích thực dân, làm chủ nước nhà, lập nên nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, trong khi các thế lực thù địch trong và ngoài
nước đang ra sức phá hoại, rắp tâm thủ tiêu chính quyền nhân dân.
Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, tại phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ xây dựng
một Hiến pháp dân chủ, nhiệm vụ có tính lịch sử đó đã được chỉ đạo thực
hiện bằng con đường dân chủ: tổ chức tổng tuyển cử tự do phổ thông đầu
phiếu để cử tri trong cả nước không có bất kì một sự phân biệt nào bầu ra
Quốc hội lập hiến làm ra Hiến pháp dân chủ hoà đại nghị hoặc cộn hai hình thức tổ chức này.
Để xây dựng dự thảo Hiến pháp trình Quốc hội lập hiến, cùng với công việc
chuẩn bị tiến hành tổng tuyển cử, một Uỷ ban dự thảo Hiến pháp do chính
Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã được thành lập. “Mặc dù đất nước đang
hết sức bộn bề với muôn vàn công việc khẩn cấp, Ban dự thảo Hiến pháp đã
họp nhiều phiên dưới sự chủ toạ trực tiếp của Bác. Với trí tuệ uyên bác, với
quan điểm lấy dân làm gốc, Bác đã đưa vào Hiến pháp đầu tiên của nước ta
những điều luật ngang tâm với nền chính trị tiên tiến của thế giới lúc bấy giồ
và nhiều điều còn có giá trị nóng hổi bởi tính thời sự cho đến hôm nay (Võ Nguyên Giáp).
Sau gần 2 tháng xây dựng, từ ngày thành lập Uỷ ban dự thảo (từ 20.9 đến
10.11.1945) một dự thảo Hiến pháp đã được công bố trên Báo cứu quốc để
lấy ý kiến nhân dân đóng góp. Tại kì họp thứ nhất ngày 02.3.1946 của Quốc
hội khoá Ï, Tiểu ban Hiến pháp của Quốc hội đã được thành lập để tiếp tục
nghiên cứu bản dự thảo và các kiến nghị của nhân dân tham gia ý kiến. Kì
họp thứ 2 của Quốc hội Khoá Ì khai mạc ngày 28.10.1946, đã quyết định các
thành phần trong Tiểu ban, Hiến pháp để sửa đổi, bổ sung Dự thảo và đến
ngày 09.11.1946 thì chính thức thông qua Hiến pháp - Đạo luật cơ bản đầu tiên của Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp ghỉ nhận thành quả đấu tranh gần 100
năm của dân tộc Việt Nam giành độc lập, tự do. Tiếp theo "Tuyên ngôn độc
lập" ngày 02.9.1945, Hiến pháp năm 1946 trang trọng xác nhận: "Cuộc cách
mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân
và lập ra nền dân chủ cộng hoà”. Là đạo luật cơ bản của chính quyển nhân dân, trước tình
hình phức tạp trong và ngoài nước, trước các âm mưu thâm độc của thù
trong giặc ngoài mong lật đổ chế độ cộng hoà dân chủ, thủ tiêu quyền độc lập,
tước đoạt một lần nữa chủ quyền lãnh thổ quốc gia, Hiến pháp năm 1946
kiên nghị xác định: “Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn
lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia 2% trên nền tảng dân chủ.
Nhận thức trách nhiệm trước nhân dân cả nước xây dựng bản Hiến pháp đầu
tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Quốc hội khẳng định: Hiến pháp
Việt Nam phải ghi nhận những thành quả vẻ vang của cách mạng và phải xây
dựng trên những nguyên tắc: đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi,
gái trai, giai cấp, tôn giáo; đảm bảo quyền tự do dân chủ; thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân (Lời nói đầu). Cùng với “Lời nói
đầu" thể hiện những tư tưởng chỉ đạo cơ bản, nội dung của Hiến pháp năm
1946 gồm có 7 chương, 70 điều quy định một cách cô đọng, bao quát những
thiết chế cơ bản của một Nhà nước, một xã hội dân chủ dù chỉ mới có những
bước đi đầu tiên trên con đường dân chủ.
Chương I - Chính thể: với ba điều (Điều 1, 2 và Điều 3) quy định: “Nước Việt
Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo,
tôn giáo” (Điều 1), “Đất nước Việt Nam là một khối thống nhất Trung Nam
Bắc không thể phân chia" (Điều 2), “Cờ của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh" (Điều 3) là ba thể chế cơ bản, chủ
yếu, quan trọng nhất và chính những lực lượng thù địch trong và ngoài nước,
không chỉ âm mưu mà đang thực thi những hành động vừa trắng trợn, vừa
nham hiểm nhất để nhằm xoá bỏ, thủ tiêu từng thể chế và cả ba thể chế.
Chương II - Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân: với 3 mục: Nghĩa vụ (mục
A); Quyền lợi (mục Bì); Bầu cử, bãi miễn và phủ quyết (mục C), quy định các
quyền lợi, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đáng chú ý, đây là lần đầu tiên
trong lịch sử lập hiến các nước, trong một bản Hiến pháp, chế định quyền và
nghĩa vụ công dân lại được đặt cao như vậy, ngay tại Chương II chỉ sau
Chương Ì về chính thể. Việc đặt nghĩa vụ công dân lên đầu chương này cũng
rất đáng chú ý. Các quyền lợi công dân quy định tại 16 điều, được tách thành
hai mục B và €. Mục B với tiêu đề: "quyền lợi công dân" với 11 điều, quy định
rất bao quát, từ vị trí ngang quyền của tất cả công dân Việt Nam về mọi
phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá (Điều 6); và đều bình đẳng trước
pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc, tất nhiên
không thể như nhau vì còn tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mỗi người
(Điều 7), thể hiện một cách tiếp cận cực kì tỉnh tế của các nhà lập hiến. Về
các quyền tự do dân chủ, Hiến pháp quy định công dân Việt Nam có quyền tự
do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự
do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài. Như vậy, hai loại quyền cơ bản
đối với mỗi cá nhân: quyển bình đẳng, ngang quyền về mọi phương diện và
các quyền tự do dân chủ của mỗi cá nhân đã được Hiến pháp quan tâm quy
định đầy đủ, không hề có một phân biệt đối xử nào. Đồng thời, tính đến hoàn
cảnh thực tế, địa vị xã hội của từng bộ phận, tầng lớp dân cư trong xã hội
như là hệ quả của sự phát triển lịch sử trong điều kiện xã hội phong kiến,
thực dân trước đây, Hiến pháp đã dành một số điều của mục B đưa ra những
quy định có tính đặc thù thể hiện sự quan tâm, chăm lo đến từng bộ phận dân
cư vốn chịu sự thiệt thòi và đối xử bất công trong các xã hội phong kiến, thực
dân vì lí do về giới, về thành phần dân tộc, về những hạn chế về tuổi tác, về
tật nguyền... Cụ thể, Điều 9 quy định “đàn bà ngang quyền với đàn ông về
mọi phương diện"; “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu
số được giúp đồ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều
8); "những công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp
đỡ. Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng" (Điều 14); “Học trò nghèo
được Chính phủ giúp đỡ (Điều 15).
Hiến pháp còn dành một số điều quy định những chế định giữ vị trí trung tâm
trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Điều 12 ghỉ: “Quyền tư hữu tài
sản của công dân Việt Nam được bảo đảm"; Điều 13: “Quyền lợi các giới cần
lao trí thức và chân tay được bảo đảm". Điều 11 cũng là điều được đặc biệt
chú ý: “Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người
công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam không ai được
xâm phạm một cách trái pháp luật" và cuối mục B này, trung thành với các lí
tưởng dân chủ, tự do, các nhà lập hiến Việt Nam đã dành Điều 16 để quy
định: “Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn
tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam". Mục C Chương ¡l đã được dành
riêng để quy định về bầu cử, bãi miễn và phủ quyết tại 5 điều. Về mặt này, có
thể nói Hiến pháp không tạo khung, vạch hành lang cho chế độ bầu cử mà là
ghi nhận, đưa vào Hiến pháp thực tế cuộc bầu cử đã được tiến hành trước
đó gần một năm. Nói một cách khác, đã diễn ra một tình huống rất đặc thù
của cuộc vận động cách mạng dân tộc, dân chủ của Việt Nam, khi Hiến pháp
đi sau thực tế tiến trình cách mạng đã diễn ra và Hiến pháp không còn phải
làm chức năng dọn đường, vạch hành lang, tạo khung pháp luật cho diễn tiến
của cuộc cách mạng mà là ghi nhận lại cái đã diễn ra, thể chế hoá các thành
quả đã đạt được thành quy tắc có tính hiến định về chế độ bầu cử: phổ thông
đầu phiếu; bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín; tất cả công dân từ 18 tuổi trở
lên không phân biệt trai gái, đều có quyền bầu cử; nhân dân có quyền bãi
miễn các đại biểu mình đã bầu ra; nhân dân có quyền phủ quyết về Hiến
pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia.
Chương III- Nghị viện nhân dân: gồm 23 điều (từ Điều 22 đến Điều 42), là
chương lớn nhất của Hiến pháp. Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao
nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Điều 22); giải quyết mọi vấn để
chung cho toàn quốc; đặt ra pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các
hiệp ước mà Chính phủ kí với nước ngoài (Điều 24), Nghị viện quyết nghị
theo quá nửa số nghị viên có mặt, nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai
phần ba số nghị viên có mặt bỏ phiếu thuận (Điều 29), Các luật đã được Nghị
viện biểu quyết phải được Chủ tịch nước ban bố chậm nhất 10 ngày sau khi
nhận được thông tin. Chủ tịch nước có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại
nhưng nếu luật vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì Chủ tịch nước bắt buộc
phải ban bố (Điều 31). Nghị viện lập Ban thường vụ gồm 1 nghị trưởng, 2 phó
nghị trưởng, 12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết và đều được bầu bởi
Nghị viện (Điều 27). Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền biểu
quyết những dự án sắc luật do Chính phủ trình và phải đem trình Nghị viện
vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ; triệu tập Nghị
viện nhân dân; kiểm soát và phê bình Chính phủ (Điều 36). Khi Nghị viện
không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ có quyển quyết định
tuyên chiến hay đình chiến (Điều 38).
Chương IV - Chính phủ: có 14 điều, từ Điều 43 đến Điều 56. Điều 43 xác định
Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc. Chính phủ gồm có
Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và Nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ
trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng (Điều 44). Chủ tịch nước được
chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba trong tổng sế nghị
viên bỏ phiếu thuận; nếu không đủ số phiếu ấy thì lần bổ phiếu thứ nhì sẽ
theo đa số tương đố: (Điều 45). Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định có
những quyền hạn rất rộng rãi: thay mặt cho nước; giữ quyền tổng chỉ huy
quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái...; kí sắc lệnh bổ
nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các...; chủ tọa Hội đồng Chính phủ; ban bố
các đạo luật đã được Nghị viện nhân dân quyết nghị; thưởng huy chương và
các bằng cấp danh dự, đặc xá; kí hiệp ước với các nước; phái đại biểu Việt
Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoật giao của các nước; trong
trường hợp Nghị viện nhân dân không họp được, cùng Ban thường vụ quyết
định tuyên chiến hay đình chiến.
Những quyền hạn mà Hiến pháp giao cho Chủ tịch nước là hết sức rộng rãi,
về đại thể có nhiều nét tương đồng với quyền hạn của Tổng thống các nước
theo chế độ tổng thống. Điều đó không ngẫu nhiên. Một trong ba nguyên tắc
lớn được đề ra ngay trong Lời nói đầu làm phương châm chỉ đạo thiết kế các
thể chế của Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam là: “thực hiện chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân”. Trong điều kiện của những năm
đầu cách mạng mới thành công, kẻ thù tàn bạo trong và ngoài nước đang ra
sức phá hoại, hòng lật đổ chính quyền nhân dân, khi bản thân chính quyền
non trẻ đang trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc” và khi công cuộc “bảo
toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tẳng
dân chủ" đã trở thành một nhiệm vụ trực tiếp và vô cùng bức thiết thì việc
thiết kế một chức danh Chủ tịch nước, nguyên thủ quốc gia với sự tập trung
nhiều quyền lực là vô cùng cần thiết. Trong lúc đó, tại Điều 50 Hiến pháp lại
xác định: “Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu một trách nhiệm nào, trừ
khi phạm tội phản quốc".
Đồng thời, Hiến pháp còn quy định: “Thủ tướng Chính phủ phải chịu trách
nhiệm về con đường chính trị của nội các” (Điều 54), còn các Bộ trưởng như
quy định tại Điều 53, tuỳ theo quyền hạn của các bộ, phải tiếp kí vào các sắc
lệnh mà Chủ tịch nước đã kí và Bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Nghị viện
về các sắc lệnh đã tiếp ký. Trong cả hai trường hợp: về con đường chính trị
của Nội các, về các sắc lệnh mà Chủ tịch nước đã ký, Hiến pháp đều không
quy định Chủ tịch nước phải chịu bất kì một trách nhiệm nào.
Bằng những quy định đó, Hiến pháp dành cho Chủ tịch nước, trong khi thực
hiện những quyền hạn rộng lớn trong lãnh đạo đất nước, quyền chủ động
trong việc đưa ra những quyết định hệ trọng, có khi sống còn của đất nước.
Đó thực sự là một thiết chế đặc biệt, vừa phản ánh tính quyết liệt, khẩn
trương của tình hình đất nước, vừa thể hiện sự tin cậy, sự uỷ thác rất cao mà
các đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân cả nước dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đối với Nội các và các Bộ trưởng, vấn đề tín nhiệm đã được đặt ra: Bộ
trưởng nào không được tín nhiệm thì phải từ chức (Điểu 54); Nghị viện có thể
biểu quyết về vấn đề tín nhiệm, khi Thủ tướng, Ban thưởng vụ hoặc một phần
tổng số nghị viên nêu vấn đề đó ra.
Chương V - Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính: Cả nước về phương
diện hành chính gồm có ba bộ: Bắc, Trung, Nam. Mỗi bộ chia thành tỉnh; tỉnh
chia thành thành huyện; huyện chia thành xã và ở tỉnh, thành phố, thị xã và
xã có Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố hay xã cử ra Uỷ
ban hành chính. Ở bộ và huyện chỉ có Uỷ ban hành chính do Hội đồng nhân
dân cấp dưới trực tiếp bầu ra.
Chương VI - Cơ quan tư pháp gồm: Toà án tối cao; các Toà án phúc thẩm;
các Toà án đệ nhị cấp và sơ cấp (Điều 63). Thẩm phán do Chính phủ bổ
nhiệm. Xử việc hình có Phụ thẩm nhân dân để: hoặc tham gia ý kiến, nếu là
việc tiểu hình, hoặc cùng quyết định với Thẩm phán nếu là việc đại hình (Điều
65). Dân tộc thiểu số có quyền dùng tiếng nói của mình trước toà (Điều 66).
Bị cáo được quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư (Điều 67). Cấm tra tấn,
đánh đập, ngược đãi bị cáo và tội nhân (Điều 68). Khi xét xử, Thẩm phán chỉ
tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp.
Chương VII - Sửa đối Hiến pháp: khi có hai phần ba tổng số Nghị viên yêu
cầu. Những điều sửa đổi được Nghị viện ưng chuẩn phải đưa ra toàn dân
phúc quyết. Cùng với việc thông qua Hiến pháp Sãš năm 1946, Quốc hội ra
Nghị quyết giao Ban thường trực Quốc hội cùng với Chính phủ ban bố và thi
hành Hiến pháp khi có điều kiện. Trong thời kì chưa thi hành được thì Chính
phủ phải dựa vào những nguyên tắc đã định trong Hiến pháp để ban hành
các sắc luật. Ngày 19.12.1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ nên
Hiến pháp năm 1946 chính thức chưa được công bố thi hành, nhưng tinh
thần, lời văn của các thể chế hiến định có tác dụng to lớn đối với công tác tổ
chức, lãnh đạo, điều hành công việc của Chính phủ. Hiến pháp năm 1946
cũng có tác dụng to lớn, khi đến được với nhân dân các nước, giúp cho họ
hiểu biết hơn nhân dân ta và chế độ mới mà dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang xây dựng.
Tìm hiểu về Hiến pháp Việt Nam năm 1959
Hiến pháp Việt Nam năm 1959 là Đạo luật gốc, cơ bản được Quốc hội nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa Khoá I, kì họp thứ 11 thông qua ngày 31.12.1959
và Chủ tịch Hồ Chí Minh kí lệnh công bố ngày 01.01.1960, gồm 10 chương
và 112 điều. Hiếp pháp năm 1959 là bản Hiến pháp thứ hai của nước Việt
Nam, thay thế Hiến pháp năm 1946, ra đời khi đất nước đang tạm thời bị chia
cắt thành hai miền. Tại kì họp thứ 6, Quốc hội Khoá l (cuối năm 1956 đầu
năm 1957) đã có quyết định sửa đổi Hiến pháp do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm
Trưởng ban. Kế thừa và phát triển các chế định thể hiện bản chất, chức năng,
sức mạnh, các nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
thông qua sự thử thách, kiểm nghiệm của thực tế đấu tranh của nhân dân,
Hiến pháp năm 1959, một mặt ghi lại theo tinh thần và lời văn của nhiều chế
định của Hiến pháp năm 1946, mặt khác, đã mở rộng phạm vi quy định, có
thêm những chương mới chưa được quy định ở Hiến pháp năm 1946. Đó là
Chương II, "Chế độ kinh tế và xã hội' là một chương lớn với 13 điều, hoặc
chế định “Chủ tịch nước” được tách ra khỏi chế định Chính phủ và quy định
thành một chương riêng, Chế định: “Quốc kì, Quốc huy và Thủ đô" ở Hiến
pháp năm 1946 đặt thành một điều ở Chương l “Chính thể" đã được tách
thành một chương, riêng “Quốc ki, Quốc huy, Thủ đô” với 3 điều đặt ở cuối
Hiến pháp, tương tự như ở Hiến pháp nhiều nước trên thế giới. “Lời nói đầu"
cũng như Điều 1 đều khẳng định: "Nước Việt Nam là một nước thống nhất từ
Lạng Sơn đến Cà Maư'" (Lời nói đầu) hoặc "Nước Việt Nam là một khối Bắc
Nam thống nhất không thể chia cắt' (Điều 1). Nội dung chính của “Lời nói
đầu" có tính chất của một bản tổng kết lịch sử đấu tranh trong suốt gần 100
năm bị thực dân Pháp đô hộ vì độc lập, tự do, nhất là từ khi có sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời đưa ra một tuyên ngôn,
phương hướng cho cuộc đấu tranh trong thời kì tới: "Cách mạng Việt Nam
chuyển sang một hình thể mới. Nhân dân ta cần ra sức củng cố miền Bắc
đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và tiếp tục đấu tranh, hoà bình thống
nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân trong cả
nước”, và chỉ rõ “Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến
pháp mới có sức mạnh động viên nhân dân cả nước phấn khỏi tiến lên giành những thắng lợi mới".
Chương I, “Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”, xác định tính nhân dân của
Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà... là một nước dân chủ
nhân dân; Điều 3 xác định: "Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một nước
thống nhất gồm nhiều dân tộc", đồng thời, thiết kế một quy định mang tính thể
chế chính quyền tự trị đối với các dân tộc thiểu số: "Những địa phương có
dân tộc thiểu số sống tập trung thì có thể thành lập khu vực tự trị. Khu tự trị là
khu vực không thể tách rời được của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Điều 4 ghi lại quy định của Điều 1 Hiến pháp năm 1946 với sự điều chỉnh
“quyền bính" thành “quyền lực" và cả cách thể hiện: từ “Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái
trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” thành: “Tất cả quyền lực thuộc về nhân
dân". Nhân dân là khái niệm có nội dung giai cấp. Cũng vì vậy, cách thể hiện:
“Toàn thể nhân dân không phân biệt.. ” có phạm vi rộng hơn khái niệm nhân
dân. Đây cũng là một trong những khuynh hướng xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở
Hiến pháp năm 1959. Điều 5 đề cập đến chế độ tuyển cử đại biểu Quốc hội
và Hội đồng nhân dân; Điều 6 (mới) quy định trách nhiệm của tất cả các cơ
quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân,
lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân; Điều 7 quy định những
hành vi bị nghiêm cấm và bị Nhà nước trừng trị; Điều 8 về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nhân dân.
Chương II - Chế độ kinh tế và xã hội quy định đường lối tiến dần từ chế độ
dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách cải tạo nền kinh tế quốc
dân theo chủ nghĩa xã hội; Điều 10 xác định: “Nhà nước lãnh đạo kinh tế theo
một kế hoạch thống nhất, Điều 11 nói đến các thành phần sở hữu trong
trong thời kì quá độ và Điều 12 - vai trò lãnh đạo của kinh tế quốc doanh
trong nền kinh tế quốc dân; Điều 13 - về vị trí của kinh tế hợp tác xã và chính
sách của Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ phát triển;
Điều 14 - về chính sách của Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của nông dân
và khuyến khích họ tổ chức các hợp tác xã... cũng như chính sách kinh tế đối
với người làm nghề thử công, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã (Điều 18)
bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sảg xuất và của cái khác của nhà tư sản dân tộc...
Chương II - Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân gồm 23 điều là
chương lớn nhất của Hiến pháp, thể hiện một bước phát triển dài của chế
định quyền công dân trong xã hội ta những năm 60, 70 trên cơ sở kế thừa
các quy định có tính mở đầu của Hiến pháp năm 1946, chủ yếu theo hướng
vừa mở rộng số lượng các quyền mà Hiến pháp năm 1946, trong điều kiện
của những năm đầu chính quyền nhân dân non trẻ, chưa quy định như quyền
làm việc (Điều 30), quyền nghỉ ngơi (Điều 31), quyền tự do nghiên cứu khoa
học... Đáng ghi nhận là Hiến pháp quy định quyền khiếu nại và tố cáo của
công dân về những hành vi phạm pháp của nhân viên trong cơ quan nhà
nước và quyền được bồi thường về những thiệt hại vì hành vi phạm pháp gây ra
(Điều 29). Đồng thời, Hiến pháp cụ thể hoá các quyền đã được Hiến pháp
năm 1946 quy định nhưng đang dừng lại ở dạng tuyên ngôn, nguyên tắc như
Điều 32 về quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất
sức lao động được bảo đảm bằng việc Nhà nước mở rộng dần các tổ chức
bảo hiểm xã hội, cứu tế và y tế để người lao động được hưởng quyền đó,
hoặc về quyền học tập: công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền
học tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát
triển dần các trường học và cơ quan văn hoá, kĩ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ
quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở thành thị và nông thôn, để bảo đảm
cho công dân được hưởng quyền đó (Điều 33). Đối với các quyền tự do, dân
chủ, bình đẳng, ngang quyền của Hiến pháp năm 1946 cũng đều được ghi
nhận lại và phát triển theo hướng bổ sung các biện pháp bảo đảm thực hiện,
như Điều 25, 26, 27, 28: công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các
quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội và biểu tình, tự do tín
ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về nhà ở, về thư tín... và Nhà
nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó.
Các chương từ Chương IV đến Chương VII| quy định về tổ chức bộ máy nhà
nước, chiếm một nửa số chương (5/10) và gần 60% số điều (68/112), so với
các quy định của Hiến pháp năm 1946 có những điểu chỉnh lớn theo hướng
dân chủ hoá, để cao, phát huy chế độ đại diện, phát triển quyền dân chủ và
sinh hoạt chính trị của toàn dân, để tích cực phát huy tính tích cực và sức
sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người dân Việt Nam thực sự tham gia
quản lÍ công việc nhà nước. Điều 43, 44 xác định: Quốc hội là cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hôi có quyền ra pháp
lệnh, giải thích pháp luật, quyết định việc trưng cầu ý kiến nhân dân; sửa đổi
hoặc bãi bỏ những nghị định, nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng Chính phủ trái
với Hiến pháp, luật, pháp lệnh; quyết định việc tổng động viên hoặc động viên
cục bộ; quyết định việc giới nghiêm toàn quốc hoặc ở từng địa phương; quyết
định việc phê chuẩn hoặc bãi bỏ những hiệp ước kí với nước ngoài. Trong
thời gian Quốc hội không họp, quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh
trong trường hợp nước nhà bị xâm lược cũng như quyết định việc bổ nhiệm
hoặc bãi miễn Phó Thủ tướng và những thành viên khác của Hội đồng Chính phủ.
Như vậy, Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền rộng lớn,
một số quyền mà ở Hiến pháp năm 1946 giao cho Chủ tịch nước hoặc Chính
phủ thì ở Hiến pháp này đã trao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trong điều
kiện Quốc hội không hoạt động thường xuyên, mỗi năm chỉ họp hai kì ngắn
ngày, các thẩm quyền trên đây đưa lại cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội, phản
ánh khuynh hướng có tính phổ biến lúc bấy giờ ở các nước xã hội chủ nghĩa,
làm thay đổi tính chất của cơ quan thường vụ của Quốc hội không còn là cơ
quan thường trực đơn thuần của cơ quan lập pháp mà đồng thời thực hiện cả
một phần chức năng của nguyên thủ quốc gia hoặc cơ quan hành pháp cao nhất.
Chương V - Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chủ tịch nước do
Quốc hội bầu ra, không bắt buộc là từ các vị đại biểu Quốc hội như Hiến pháp
năm 1946 mà công dân Việt Nam từ ba mươi lăm tuổi trở lên thì có quyền
ứng cử Chủ tịch nước.
Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 4959, các quy định của Chương
"Chủ fịch nước” thể hiện bước chuyển hướng rõ nét nhất sang mô hình quá
độ trong việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước cấp cao theo mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phổ biến đương thời. Chủ tịch nước
không thực hiện quyền lập quy ra sắc lệnh mà căn cứ vào nghị quyết của
Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà công bố pháp luật, pháp
lệnh; bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác
của Hội đồng Chính phủ, công bố lệnh đại xá và lệnh đặc xá, tặng thưởng
huân chương và danh hiệu vinh dự của Nhà nước; tuyên bố tình trạng chiến
tranh; công bố lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố lệnh giới nghiêm.
Trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại cũng vậy, cùng với trách nhiệm tiếp nhận
đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài... Chủ tịch nước căn cứ vào
nghị quyết của Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước kí với nước ngoài, cử và
triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà ở nước ngoài (Điều 64).
Đồng thời, Hiến pháp vẫn tiếp tục trao cho Chủ tịch nước những quyền năng
có tính thực quyền: thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ chức vụ
Chủ tịch Hội đồng quốc phòng (Điều 65); khi xét thấy cần thiết có quyền tham
dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66); khi xét thấy
cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt.
Chương VI, Hội đồng Chính phủ với tính cách là một cơ quan hợp nghị do
Thủ tướng đứng đầu, chủ toạ Hội đồng Chính phủ và lãnh đạo công tác của
Hội đồng Chính phủ (Điều 75). Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Chương VII về Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính quy định “Các đơn
vị hành chính nói trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành
chính". Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, đây là lần điều
chỉnh lớn tổ chức chính quyền
địa phương, mở ra thời kì tổ chức chính quyền địa phương 3 cấp hành chính,
ở địa bàn đô thị cũng như nông thôn và được tiếp tục duy trì qua hai lần sửa
đổi cơ bản Hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Hội đồng nhân dân các cấp được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương (Điều 80) với các nhiệm kì khác nhau: cấp tỉnh - 3 năm; các
cấp còn lại - 2 năm. Uỷ ban hành chính các cấp là cơ quan chấp hành của
Hội đồng nhân dân cùng cấp, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính ba cấp đều có quyền lập quy. Hội
đồng nhân dân bầu và bãi miễn Chánh án Toà án nhân dân cấp mình (Điều 84).
Chương VIII quy định về Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Bằng
các quy định của chương này, lần đầu tiên, ở tầm hiến định, các Toà | án
nhân dân với tính cách là cơ quan xét xử và các Viện kiểm sát nhân dân với
tính cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nước Viật Nam
dân chủ cộng hoà chính thức ra đời đầy đủ ở cả 3 cấp: trung ương, tỉnh,
huyện. Đây chính là một bước phát triển lớn của các cơ quan tư pháp nước
ta. Trước đó, do tình hình chiến tranh, các Toà án chỉ được thành lập ở các cấp địa phương.
Các Toà án nhân dân thực hiện chế độ thẩm phán bầu (Điều 98) và việc xét
xử có Hội thẩm nhân dân tham gia và ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử (Điều 99).
Các Viện kiểm sát nhân dân với tính cách là cơ quan kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, để bảo đảm pháp chế thống nhất trong cả nước, được thành lập
thành hệ thống thống nhất: Viện kiểm sát nhân dân các cấp chỉ chịu sự lãnh
đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh đạo thống nhất của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 107).
Chương X về sửa đổi Hiến pháp: chỉ có Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến
pháp với hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Vấn đề
đưa ra nhân dân phủ quyết như Hiến pháp năm 1946 quy định, không còn đặt ra.
Document Outline

  • Hoàn cảnh ra đời, nội dung cơ bản của Hiến pháp Vi
    • 1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp năm 1946
    • 2. Nội dung cơ bản của Hiến pháp năm 1946