





Preview text:
Hoạt động thương mại là gì? Thương mại bao gồm những ngành nào?
1. Khái niệm hoạt động thương mại 1.1 Theo nghĩa rộng
Đó là mọi hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, đồng nghĩa với hoạt động kinh
doanh. “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi“ (K2 Đ4 Luật Doanh
nghiệp 2005). Hoạt động kinh doanh thực hiện trong nhiều lĩnh vực sản xuất,
lưu thông hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, hoạt động thương mại bao gồm không chỉ các hoạt động mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà còn là các hoạt động đầu tư cho sản xuất
dưới các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được điều chỉnh bằng
Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp 2005 Luật Kinh doanh bất động sản , Luật
Chứng khoán và các Luật chuyên ngành khác.
Thương mại tiếng Anh là Trade hoặc Commerce.
Kinh doanh thương mại (tiếng Anh là Commercial Business) là ngành đào tạo
chuyên sâu các kiến thức, kỹ năng liên quan đến thương mại trong nước
và thương mại quốc tế bao gồm: Marketing, thị trường, phân tich tài chính,
quản lý bán hàng..., các kiến thức về hoạt động bán hàng, xuất – nhập kho, quản trị bán lẻ… 1.2 Theo nghĩa hẹp
Theo Luật thương mại, “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác“ (K1 Đ3 Luật thương mại).
Hoạt động thương mại được định nghĩa theo Luật thương mại chỉ tập trung
vào các hoạt động kinh doanh trong 2 khâu lưu thông và dịch vụ, không bao
hàm khâu đầu tư cho sản xuất.
Hai lĩnh vực chủ yếu của hoạt động thương mại là thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ:
Mua bán hàng hoá (Thương mại hàng hóa) là hoạt động thương mại, theo
đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên
mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán,
nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận (K8 Đ3 Luật thương mại)
Cung ứng dịch vụ (Thương mại dịch vụ) là hoạt động thương mại, theo đó
một bên (gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho
một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng)
có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo
thỏa thuận (K9 Đ3 Luật thương mại)
Đối với hoạt động mua bán hàng hóa, có những thương nhân chuyên kinh
doanh mua bán hàng hóa và có những thương nhân đồng thời là nhà sản
xuất, cung ứng dịch vụ. Vì vậy, pháp luật thương mại cũng có một số nội
dung liên quan đến quá trình đầu tư sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ
như tiêu chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ.
Hoạt động thương mại là hoạt động do thương nhân thực hiện nhằm mục đích sinh lợi.
Hoạt động thương mại theo nghĩa rộng được hiểu là hoạt động kinh doanh
bao gồm các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, hoạt động đầu
tư cho sản xuất dưới các hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, được
điều chỉnh bằng nhiều luật khác nhau như Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp,
Luật kinh doanh bất động sản, Luật chứng khoán…
Theo nghĩa hẹp: Khoản 1 điều 3 Luật thương mại quy định “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác.” Theo đó, có hai lĩnh vực chủ yếu là mua bán hàng
hóa và cung ứng dịch vụ.
+ Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận
+ Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên có nghĩa vụ
thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ
có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận.
Theo quy định của Luật thương mại năm 1997, hoạt động thương nhân được
thực hiện là thông qua các hành vi thương mại và chỉ gói gọn trong 14 hành
vi thương mại (Xem thêm: Hành vi thương mại là gì?). Đến khi Pháp lệnh
trọng tài thương mại năm 2003 được ban hành thì hoạt động thương mại
được hiểu theo nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm những hành vi mua bán
hàng hoá và dịch vụ liên quan đến mua bán hàng hoá (14 hành vi) mà còn
bao gồm nhiều hành vi khác như đầu tư, xây dựng, tài chính, ngân hàng, bảo
hiểm, khai thác, vận chuyển... Tuy nhiên, ngày 14.6.2005, tại kì họp thứ 7
Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật thương mại mới, thay thế Luật thương
mại năm 1997. Theo đó, hoạt động thương mại không chỉ đơn thuần việc
thực hiện 14 hành vi thương mại của thương nhân như quy định của Luật
thương mại năm 1997 mà hoạt động thương mại bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hướng dẫn khác nhằm mục đích sinh lợi.
2. Đặc điểm của hoạt động thương mại
- Chủ thể: Các thương nhân, trong hoạt động thương mại sẽ có ít nhất một
bên là thương nhân, người thực hiện các hoạt động kinh doanh thương mại
có tính chất nghề nghiệp.
Theo quy định tại điều 6 Luật thương mại năm 2005 thì thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
- Mục đích của hoạt động thương mại là lợi nhuận.
- Nội dung của hoạt động thương mại: gồm 2 nhóm hoạt động cơ bản là
mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ (thương mại hàng hoá và thương
mại dịch vụ). Bên cạnh đó, có các hình thức đầu tư nhằm tìm kiếm lợi nhuận
cũng là những hoạt động thương mại.
Căn cứ theo khái niệm về “hoạt động thương mại” được quy định tại
khoản 1 Điêù 3 Luật Thương mại năm 2005, có thể xác định “hoạt động
thương mại” có những đặc điểm chính sau đây:
Một là, trong các chủ thể tham gia trong hoạt động thương mại thì có ít nhất
một trong các bên được xác định là thương nhân.
Thương nhân, là khái niệm dùng để chỉ những chủ thể thực hiện hoạt động
thương mại gồm tổ chức kinh tế được thành lập một cách hợp pháp, cá nhân
họat động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có thực hiện việc
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật. Trong đó, tổ chức kinh tế
được hiểu là những tổ chức mà được thành lập hợp pháp theo quy định của
pháp luật, thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh thu lợi nhuận, thường được
thể hiện thông các hình thái như doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã…
Việc khẳng định một trong các bên thực hiện hoạt động thương mại là
thương nhân là bởi, thương nhân là chủ thể được quyền hoạt động thương
mại dưới tất cả những hình thức, phương thức mà pháp luật không cấm, trên
các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của pháp luật. Đồng thời, trong quy
định tại Điều 1, và Điều 2 Luật thương mại năm 2005 có quy định cụ thể về
phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng thì có xác định là áp dụng đối với
thương nhân hoạt động thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và ngoài lãnh thổ
Việt Nam cũng như các tổ chức, cá nhân hoạt động thương mại khác mà
không được xác định là thương nhân. Ngoài ra, trong quy định của Luật
thương mại năm 2005 quy đinh về một trong các nguyên tắc cơ bản trong
hoạt động thương mại cũng xác định về nguyên tắc bình đẳng trước pháp
luật của thương nhân trong hoạt động thương mại. Do vậy, có thể khẳng định
một bên trong hoạt động thương mại được xác định là thương nhân.
Bên còn lại trong hoạt động thương mại có thể được xác định là thương nhân,
nhưng cũng có thể được xác định không phải là thương nhân như cá nhân
hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh
được điều chỉnh bởi Nghị định 39/2007/NĐ-CP, ví dụ như người buôn bán vặt,
buôn bán quà vặt, buôn chuyến…
Hai là, mục đích của các bên khi thực hiện hoạt động thương mại đều là
nhằm mục đích lợi nhuận.
Cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, các chủ thể thực hiện hoạt
động thương mại dù dưới hình thức nào, là mua bán hàng hoá hay cung cấp
dịch vụ, thậm chí thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại như tổ chức
hoạt động khuyến mại, quảng cáo thì đều nhằm mục đích tạo ra điều kiện
cũng như khả năng trao đổi hàng hoá, giao lưu thương mại, đảm bảo việc tạo
ra một nguồn thu nhập, một khoản tiền lợi nhuận từ những hoạt động này.
Ba là, hoạt động thương mại được thể hiện dưới nhiều hình thức hoạt động
khác nhau, nhưng được xác định chủ yếu thông qua hai nhóm hoạt động:
Mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ.
Bốn là, Chủ thể thực hiện hoạt động thương mại được phép thực hiện kinh
doanh tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ được phép kinh doanh theo quy định
của pháp luật, trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề theo quy định của pháp luật.
Năm là, phạm vi thực hiện hoạt động thương mại không chỉ giới hạn trong
phạm vi lãnh thổ Việt Nam mà còn được thực hiện ngoài phạm vi lãnh thổ
Việt Nam, trong phạm vi khu vực và thế giới, phù hợp với sự phát triển của
nền kinh tế thế giới và phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, mở cửa nền kinh tế.
Thông qua đó khẳng định vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.
Như vậy, hoạt động thương mại là một trong những phạm trù đặc thù của
quan hệ kinh doanh thương mại, là cơ sở để phát triển nền kinh tế nội tại cũ
của quốc gia cũng như sự giao thương, củng cố vị thế quốc gia trên thương
trường quốc tế. Đồng thời, qua việc thực hiện các hoạt động thương mại còn
cho thấy vai trò của thương nhân, nhà đầu tư, cũng như các cá nhân, tổ chức
khác có trong việc đóng góp xây dựng và phát triển nền kinh tế.
3. Điều kiện của hoạt động thương mại là gì?
Một hoạt động được gọi là hoạt động thương mại khi thoả mãn những điều kiện sau:
Hoạt động do thương nhân thực hiện; hoạt động phải trong khuôn khổ hướng
dẫn của thương nhân, hoạt động được thực hiện phải có mục đích là nhằm sinh lời.
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005 hoạt động thương mại gồm:
hoạt động mua tên hàng hoá; hoạt động cung ứng dịch vụ; hoạt động xúc tiến
thương mại (hoạt động khuyến mại; quảng cáo thương mại; trưng bày, giới
thiệu hàng hoá, dịch vụ và hoạt động hội chợ, triển lãm thương mại); các
hướng dẫn trung gian thương mại (đại diện cho thương nhân, môi giới
thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá, đại lí thương mại), một số hướng
dẫn thương mại cụ thể khác (gia công thương mại; đấu giá hàng hoá; đấu
thầu hàng hoá, dịch vụ; dịch vụ logistics - nhận hàng, vận chuyển, lưu kho,
lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng,
đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan
đến hàng hoá; quá cảnh hàng hoá qua lãnh thổ Việt Nam và dịch vụ quá cảnh
hàng hoá; dịch vụ giám định hàng hoá và kết quả cung ứng dịch vụ: cho thuê
hàng hoá; nhượng quyền thương mại).
4. So sánh hoạt động thương mại trong nước và quốc tế?
Thương mại trong nước thúc đẩy lưu thông hàng hóa phát triển kinh tế, còn
thương mại quốc tế là sự phát triển về toàn cầu và lưu thông tiền tệ quốc tế.
Thương mại quốc tế trong nước cùng góp phần thúc đẩy phát triển. Thương
mại quốc tế giúp các quốc gia có thể tận dụng thế mạnh của mình để thu về
ngoại tệ từ bên ngoài, Ví dụ như quốc gia này mạnh về khoáng sản có thể
khai thác và bán cho quốc gia khác để đổi lấy lương thực với thực phẩm
Thương mại trong nước là để phát triển hơn nữa các thế mạnh sẵn có tạo sự
chuyên môn hóa, Thương mại quốc tế giúp các quốc gia học tập trao đổi
công nghệ từ đó mang về trong nước đầu tư phát triển kinh tế trong nước.
Document Outline
- Hoạt động thương mại là gì? Thương mại bao gồm nhữ
- 1. Khái niệm hoạt động thương mại
- 1.1 Theo nghĩa rộng
- 1.2 Theo nghĩa hẹp
- 2. Đặc điểm của hoạt động thương mại
- 3. Điều kiện của hoạt động thương mại là gì?
- 4. So sánh hoạt động thương mại trong nước và quốc
- 1. Khái niệm hoạt động thương mại