









Preview text:
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì? Đặc
điểm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
1. Cơ sở pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế:
- Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế;
- Luật thương mại năm 2005; (văn bản cũ trước đây: Luật thương mại năm 1997)
- Bộ luật dân sự năm 2015; (văn bản cũ trước đây: Bộ luật dân sự năm 2005)
- Nghị định số 69/2018/NĐ-CP hướng dẫn luật quản lý ngoại thương.
2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì ?
Hoạt động thương mại quốc tế được thực hiện trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như thương mại hàng hóa, thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí
tuệ, thương mại trong lĩnh vực đầu tư…Trong đó các giao dịch trong lĩnh vực
thương mại hàng hóa luôn diễn ra sôi động nhất, giữ vị trí trung tâm trong các
giao dịch thương mại quốc tế.
Các giao dịch trong lĩnh vực thương mại hàng hóa quốc tế được thực hiện
chủ yếu thông qua các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tuy nhiên, trong
khoa học pháp lý hiên nay chưa có một khái niệm thống nhất về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế hay nói chính xác hơn là chưa có một cách xác
định thống nhất tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, mà chỉ
nêu lên một số khái niệm hay một số cách xác định yếu tố quốc tế của loại hợp đồng này.
Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam và pháp luật của nhiều nước cũng
như các văn bản pháp lí quốc tế điều chỉnh các loại hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
dựa trên cơ sở dấu hiệu lãnh thổ hay nói chính xác hơn là địa điểm hoạt động
thương mại của thương nhân.
Công ước NewYork 1974 về thời hiệu tố tụng trong hợp đồng mua bán hàng
quốc tế, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Công
ước LaHaye 1986 về luật áp dụng cho hợp đồng mua bán quốc tế được xây
dựng trong phạm vi UNCITRAL, Công ước Genevơ 1983 về đại diện trong
mua bán quốc tế, các công ước Ottawa năm 1988 về thuê tài chính quốc tế
và về bao thanh toán quốc tế chỉ sử dụng một tiêu chí duy nhất là địa điểm trụ
sở thương mại của các bên để xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế. Tất cả các công ước nói trên, quy định rằng hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương
mại nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau, nếu như các quốc gia này
tham gia công ước hay luật của quốc gia tham gia công ước được áp dụng
phù hợp với những quy phạm của luật tư pháp quốc tế.
Rõ ràng, việc xây dựng khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa
trên yếu tố lãnh thổ cho phép xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng trở nên
đơn giản hơn và thiết thực hơn. Vì vậy, thiết nghĩ định nghĩa cô đọng nhất về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là:
“hợp đồng được kí kết giữa các bên có trụ sở thương mại nằm
trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.”
Tuy nhiên, có một vấn đề đặt ra là việc xác định tính quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế dựa trên dấu hiệu lãnh thổ sẽ gặp khó khăn trong
trường hợp khi các bên có nhiều trụ sở thương mại. Trong trường hợp này
này, giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là hoàn toàn hợp lý. Điều 10
của Công ước quy định:
Nếu một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh thì sẽ chọn
điểm kinh doanh nào có liên hệ gần nhất với hợp đồng và với
việc thực hiện hợp đồng, có quan tâm đến những tình huống mà
hai bên đã biết hoặc đã nghĩ đến tại thời điểm trước hay ngay
khi kí hợp đồng. Nếu một đương sự không có địa điểm kinh
doanh thì chọn nơi thường trú của người này làm chuẩn.
Hiện nay, đã có nhiều quốc gia tham gia Công ước Viên 1980 về mua bán
hàng hóa quốc tế, vì vậy có thể nói rằng pháp luật của hầu hết các quốc gia
trên thế giới xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
dựa trên dấu hiệu lãnh thổ của các bên kí kết hợp đồng. Việt Nam chúng ta
đã tham gia công ước Viên từ năm 2017, và bởi vậy những quy định của
công ước Viên 1980 về xác định hợp đồng thương mại quốc tế sẽ được áp dụng tại Việt Nam.
Như vậy, để làm rõ hợp đồng mua bán hàng quốc tế là gì ? Cần hiểu về các vấn dề sau:
Khi sử dụng thuật ngữ yếu tố “nước ngoài” (foreign) hoặc nhân tố “nước
ngoài” thì hàm ý quan hệ được đặt trong hệ quy chiếu với 1 quốc gia cụ thể,
quốc gia sở tại. Còn khi sử dụng thuật ngữ yếu tố “quốc
tế” (international) hoặc nhân tố “quốc tế”, thì lúc này quan hệ được đề cập với
một bối cảnh là sự liên quan tới hơn một quốc gia. Như vậy, mặc dù việc sử
dụng các thuật ngữ có đôi chút khác nhau nhưng việc dùng thuật ngữ nào
cũng thể hiện bản chất của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế. Theo đó,
vấn đề xung đột pháp luật hoặc áp dụng pháp luật nước ngoài được coi là
những điểm đặc trưng của quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế.
Việc xác định yếu tố nước ngoài trong hợp đồng có thể không hoàn toàn
giống nhau theo các nguồn pháp luật áp dụng. Ví dụ các nguồn như điều ước
quốc tế và pháp luật của mỗi quốc gia.
Theo Công ước La Haye 1964 về thống nhất việc mua bán hàng hoá quốc
tế (Convention Relating to the Uniform Law on International Sale of
Goods) thì, hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ mang yếu tố nước ngoài nếu các
bên tham gia hợp đồng có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, khi:
“Hàng hóa trong hợp đồng được chuyên chở từ lãnh thố quốc
gia này sang lãnh thổ quốc gia khác, hành vi chào hàng và chấp
nhận chào hàng được thực hiện trên lãnh thổ của các quốc gia
khác nhau và việc giao hàng được thực hiện trên lãnh thổ của
một quốc gia khác với quốc gia nơi tiến hành chào hàng hoặc
hành vi chấp nhận chào hàng” .
Từ nội dung quy định tại Điều 1 của Công ước La Haye 1964 có thể thấy dấu
hiệu các bên chủ thể của hợp đồng có trụ sở thương mại ở các quốc gia khác
nhau sẽ là dấu hiệu quốc tế nếu các điều kiện về vận chuyển hàng hoá, xác
lập chào quốc tế của hợp đồng. Nội dung quy định này khá phù hợp với quy
định của Công ước Vienna 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế đã quy định (Điều 1 Công ước Vienna 1980 và Điều 80 Luật thương mại 1997).
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, yếu tố “quốc tế” trong một hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, một loại hợp đồng điển hình trong tư pháp quốc
tế, đã được xác định và ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau với
những nội dung khác nhau trong từng giai đoạn nhất định.
Theo Quy chế tạm thời số 4794/TN-XNK ngày 31/7/1991 của Bộ Thương
nghiệp (nay là Bộ Công Thương) về việc hướng dẫn việc ký kết hợp đồng
mua bán ngoại thương có ghi nhận hợp đồng mua bán ngoại thương là hợp
đồng mua bán có tính chất quốc tế với các dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng là những pháp nhân có quốc tịch khác nhau;
Thứ hai, hàng hoá là đối tượng của hợp đồng được dịch chuyển qua các
nước khác nhau; thứ ba, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ đối với một bên
hoặc cả hai bên chủ thể của hợp đồng.
Trong Luật thương mại Việt Nam 1997 không có quy định về khái niệm hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc hợp đồng có yếu tố nước ngoài mà
Luật thương mại quy định về một loại hợp đồng có tên gọi là “hợp đồng mua
bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài”.
Theo đó, “hợp đồng mua bán hàng hoá với thương nhân nước
ngoài là hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa một bên
là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài”?
Từ quy định này có thể hiểu rằng Luật thương mại năm 1997 chỉ điều chỉnh
hợp đồng mua bán hàng hoá được ký kết giữa một bên là thương nhân Việt
Nam và một bên là thương nhân nước ngoài. Với quy định này, Luật thương
mại 1997 đã loại trừ việc điều chỉnh của Luật này đối với nhiều loại hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, lý, việc điều chỉnh vấn đề này có thể áp dụng các
quy định của Bộ luật dân sự. Thứ nhất, về mặt lý luận thì việc áp dụng Bộ luật
dân sự, với tư cách là đạo luật gốc, là phù hợp vì trong trường họp luật
chụyên ngành là Luật thương mại không điều chỉnh. Thứ hai, về mặt pháp lý,
Luật thương mại 2005 quy định:
"Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương
mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân
sự” (Khoản 3 Điều 4 Luật thương mại 2005; Điều 758 Bộ luật dân sự 2005).
Để đánh giá quá trình phát triển các quy định của pháp luật Việt Nam trong đó
có các quy định về dấu hiệu nước ngoài trong quan hệ tư pháp quốc tế làm
cơ sở để xác định quan hệ hợp đồng trong tư pháp quốc tế nói chung và
trong quan hệ hợp đồng nói riêng, cần xem xét một số quy định trong Bộ luật
dân sự năm 2005 và Bộ luật dân sự năm 2015.
Trong Bộ luật dân sự 2005 của Việt Nam, vấn đề xác định dấu hiệu nước
ngoài trong một quan hệ dân sự được ghi nhận tại Điều 758. Theo đó:
"Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít
nhất một bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cả nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc là các quan hệ dân
sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt Nam nhưng
căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật
nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến
quan hệ đó ở nước ngoài ”
Bộ luật dân sự 2015 được thay thế cho Bộ luật dân sự 2005 kể từ ngày
01/01/2017. Trong Bộ luật dân sự 2015, quy định quan hệ dân sự có yếu tố
nước ngoài được ghi nhận tại khoản 2 Điều 663. Theo đó, quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự thuộc một trong các trường hợp sau: (1)
Có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài; (2) Các bên tham gia đều là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân Việt Nam nhưng việc xác lập, -
Căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hợp đồng theo pháp luật nước ngoài; -
Đối tượng của hợp đồng là tài sản đang tồn tại ở nước ngoài.
Tóm lại, hợp đồng trong tư pháp quốc tế là hợp đồng dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài.
3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trước hết đó là một hợp đồng, vì vậy nó
mang đầy đủ bản chất và đặc trưng của tất cả các loại hợp đồng nói chung.
Ngoài ra, do hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được kí kết
giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác nhau, tức là có yếu
tố nước ngoài tham gia, vì vậy nó sẽ có những điểm khác biệt nhất định so
với hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường (trong nước).
Xuất phát từ những đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa thông
thường, cùng với sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có những đặc điểm như sau:
3.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Về phương diện pháp lí, các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, kể cả
các đạo luật mẫu điều chỉnh về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế ít khi
bàn đến vấn đề chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điều này
được lí giải rằng thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ
do pháp luật của quốc gia được áp dụng đối với bên kí kết quy định. Từ đó,
dẫn đến một hệ quả là pháp luật của các quốc gia khác nhau sẽ có những
quy định không giống nhau về thẩm quyền được kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế chủ yếu là các thương
nhân. Thương nhân theo nghĩa thông thường được hiểu là những người trực
tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại. Trong luật thương mại,
thương nhân bao gồm các cá nhân, pháp nhân có đủ các điều kiện do pháp
luật quốc gia quy định để tham gia vào các hoạt động thương mại và trong
một số trường hợp cả chính phủ (khi từ bỏ quyền miễn trừ quốc gia). Mỗi
quốc gia có những quy định khác nhau về điều kiện trở thành thương nhân
cho từng đối tượng cụ thể. Chẳng hạn, đối với cá nhân những điều kiện
hưởng tư cách thương nhân trong pháp luật thương mại quốc gia thường bao
gồm điều kiện nhân thân (độ tuổi, năng lực hành vi, điều kiện tư pháp) và nghề nghiệp.
Một vấn đề khác được đặt ra, chủ thể kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế chủ yếu là các thương nhân nhưng có phải các thương nhân được tự
do kí kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà không phụ thuộc
ngành nghề đăng ký kinh doanh của mình, hay là chỉ được kí kết các hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế phù hợp với ngành nghề đăng ký kinh doanh
của mình. Về vấn đề này cả Luật doanh nghiệp 2020 và pháp luật về thương
mại đều thống nhất doanh nghiệp được tự do kinh doanh những ngành nghề
mà pháp luật không cấm. Theo quy định tại khoản 1 điều 3 Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định:
"Thương nhân Việt Nam không là tổ chức kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu và thực hiện
các hoạt động khác có liên quan không phụ thuộc vào ngành,
nghề đăng ký kinh doanh, trừ hàng hóa thuộc Danh mục cấm
xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo quy định tại Nghị định này; hàng
hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu khác theo quy định của
pháp luật; hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu".
Như vậy, không bắt buộc thương nhân chỉ được phép mua bán hàng hóa
quốc tế trong phạm vi ngành nghề mình đăng ký kinh doanh mà cho phép tự
do mua bán hàng háo quốc tế trừ những hàng hóa cấm xuất khẩu, nhập khẩu theo quy định pháp luật.
3.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải thỏa
mãn các quy định về quy chế hàng hóa được phép mua bán, trao đổi theo
pháp luật của nước bên mua và bên bán.
Pháp luật của các quốc gia khác nhau có những quy định không giống nhau
về những hàng hóa được phép trao đổi mua bán, từ đó sẽ dẫn đến việc có
những hàng hóa theo quy định của nước này thì được phép trao đổi mua bán
nhưng theo quy định của pháp luật nước khác thì lại cấm trao đổi mua bán.
Như vậy chỉ những hàng hóa nào đều được pháp luật quốc gia của các bên
kí kết hợp đồng quy định là được phép trao đổi mua bán thì mới có thể trở
thành đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Khái niệm hàng hóa được ghi nhận trong pháp luật các quốc gia trên thế giới
hiện nay, mặc dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở
rộng các đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông thương mại.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc
tế chẳng hạn như Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, hàng hóa là đối tượng của mua bán thương mại được hiểu bao gồm
những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản:
+ Có thể đưa vào lưu thông;
+ Có tính chất thương mại.
Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa (tại điều 2) chỉ loại trừ
(không áp dụng) đối với một số loại hàng hóa như chứng khoán, giấy bảo
đảm chứng từ và tiền lưu thông, điện năng, phương tiện vận tải đường thủy,
đường không, phương tiện vận tải bằng khinh khí cầu…
Theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật Thương Mại Việt Nam năm 2005 thì hàng hóa bao gồm:
+ Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
+ Những vật gắn liền với đất đai.
Như vậy, với khái niệm này thì hàng hóa là đối tượng của mua bán có thể là
hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai, hàng hóa có
thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
3.3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Xuất phát từ nguyên tắc tự do ý chí, các bên tham gia giao kết hợp đồng có
quyền tự do lựa chọn hình thức thể hiện ý chí thích hợp. Điều này cũng có
nghĩa là về nguyên tắc, ý chí không nhất thiết phải được bày tỏ dưới một hình
thức nhất định, nó có thể biểu lộ bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi, cử
chỉ cụ thể hoặc thậm chí là sự im lặng. Tuy nhiên, để thiết lập sự an toàn
pháp lí trong quan hệ hợp đồng cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo vệ
trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những trường hợp hợp đồng giao kết phải
tuân theo những hình thức pháp luật quy định, nếu không các bên tham gia
giao kết sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi.
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được quy định rất
khác nhau trong pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế. Có pháp
luật của một số nước yêu cầu bắt buộc hình thức của hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, nhưng pháp luật của một số
nước khác lại không có bất kì một yêu cầu nào về hình thức hợp đồng. Mặt
khác, ngay cả khái niệm “văn bản” giữa các quốc gia cũng có các quan niệm
rộng hẹp khác nhau về những dạng vật chất nhất định chứa đựng thông tin
nào được coi là văn bản.
Trong các văn bản pháp lí quốc tế, rất ít khi quy định về điều kiện hình thức
của hợp đồng. Theo quy định của Công ước Viên 1980 thì hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế có thể được thể hiện dưới bất kì hình thức nào cũng được coi là hợp pháp.
Điều 11 Công ước quy định: hợp đồng mua bán không cần phải được kí kết
hoặc xác lập bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình
thức hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả
những lời khai của nhân chứng.
Vấn đề này cũng được quy định tương tự trong Bộ nguyên tắc của
UNIDROIT 2004 về hợp đồng thương mại quốc tế. Theo quy định tại điều 1.2
của Bộ nguyên tắc thì: không một chi tiết nào của Bộ nguyên tắc yêu cầu một
hợp đồng phải được kí kết bằng văn bản hoặc phải được chứng minh có sự
thỏa thuận bằng văn bản. Sự tồn tại của một hợp đồng có thể được chứng
minh bằng bất kì hình thức nào kể cả bằng nhân chứng.
Tuy nhiên để giảm bớt sự “tùy nghi” của điều 11 Công ước Viên 1980 và có
tính đến quy định trong pháp luật quốc gia của một số nước thành viên yêu
cầu hình thức của hợp đồng phải là văn bản, tại điều 12 Công ước quy định:
nước thành viên của công ước có pháp luật quốc gia yêu cầu hợp đồng phải
có hình thức bằng văn bản có thể tuyên bố bảo lưu vấn đề này bất cứ lúc nào.
Và điều 96 của Công ước cũng quy định nếu luật của một quốc gia thành viên
nào đó quy định hợp đồng phải được kí kết dưới hình thức văn bản mới có
giá trị thì quy định này phải được tôn trọng, kể cả trong trường hợp chỉ cần
một trong các bên có trụ sở thương mại tại quốc gia có luật quy định hợp
đồng phải được thể hiện dưới hình thức văn bản. Theo quy định tại điều 27
Luật thương mại Việt Nam 2005 thì:
"mua bán hàng hóa quốc tế phải được thể hiện trên cơ sở hợp
đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương".
Như vậy, mặc dù trong các văn bản pháp lí quốc tế cũng như trong quy định
pháp luật của một số quốc gia không yêu cầu hình thức của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản, tuy nhiên, xuất phát từ
sự tham gia của yếu tố nước ngoài trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế, từ sự quy định khác nhau trong hệ thống pháp luật của các quốc gia, từ sự
bất đồng ngôn ngữ giữa các bên tham gia kí kết hợp đồng và hàng loạt các
vấn đề khác, cho nên tốt hơn hết các bên khi tham gia kí kết hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế thì nên thiết lập bằng văn bản hoặc hình thức khác có
giá trị pháp lí tương đương, vì như vậy các bên sẽ tránh được tối đa các hậu
quả pháp lí bất lợi, những rủi ro và tranh chấp không đáng có cũng như các
thiệt hại có thể xảy ra.
3.4. Luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Việc trụ sở thương mại của các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế nằm
trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau không chỉ có nghĩa các bên nằm
trên lãnh thổ của các nước khác nhau mà còn có nghĩa là các bên liên quan
đến các hệ thống pháp luật khác nhau. Xuất phát từ chủ quyền quốc gia trong
công pháp quốc tế, khi một quan hệ (dân sự có yếu tố nước ngoài) liên quan
đến bao nhiêu quốc gia thì về nguyên tắc có bấy nhiêu hệ thống pháp luật
đều có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó. Trong khi đó mỗi một
quốc gia trên thế giới có một hệ thống pháp luật riêng của mình và các hệ
thống pháp luật đó khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau. Từ đó dẫn đến
hiện tượng xung đột pháp luật. Xung đột pháp luật xảy ra khi hai hay nhiều hệ
thống pháp luật đồng thời đều có thể áp dụng để điều chỉnh một quan hệ
pháp luật này hay quan hệ pháp luật khác. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi pháp luật của các quốc gia khác nhau.
Bên cạnh đó hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể được điều chỉnh bởi
điều ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế, hoặc/và các đạo luật
mẫu về hợp đồng thương mại quốc tế. Tuy nhiên điều cần nhấn mạnh ở đây
là mỗi quan hệ thì chỉ có thể áp dụng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh
mà thôi. Vấn đề cần phải giải quyết là chọn một trong các hệ thống pháp luật
để áp dụng điều chỉnh quan hệ đó.
Xuất phát từ quyền tự do ý chí trong quan hệ hợp đồng, các bên kí kết hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể chọn hệ thống pháp luật để điều
chỉnh hợp đồng của mình. Tất nhiên việc chọn luật phải thỏa mãn các điều
kiện chọn luật, và trong một số trường hợp quyền chọn luật bị hạn chế bởi
quy định của pháp luật quốc gia khi nó liên quan đến các vấn đề chẳng hạn
như bảo lưu trật tự công cộng…Trong trường hợp các bên không chọn luật
áp dụng cho hợp đồng thì các quy tắc của tư pháp quốc tế được áp dụng để
chọn ra hệ thống pháp luật điều chỉnh hợp đồng khi cần thiết.
4. Câu hỏi thường gặp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hỏi: Vì sao phải phân chia thành Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước (Hợp đồng mua bán hàng hóa theo
luật thương mại Việt Nam 2005)?
- Có nhiều điểm khác biệt nhau về bản chất, được thể hiện ngay từ tên hợp đồng.
- Ngoài ra, Giúp làm rõ đối tượng, chủ thể cũng như nguồn luật sẽ được áp
dụng khi xảy ra tranh chấp
Hỏi: Tạm xuất, tái nhập là gì?
Tạm xuất, tái nhập hàng hóa là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc
đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi là khu
vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, có làm thủ tục xuất khẩu ra
khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam.
Hỏ: Thời hạn giao hàng được quy định như thế nào trong pháp luật thương mại Việt Nam?
Thời hạn giao hàng được quy định tại Điều 37 Luật thương mại năm 2005 như sau:
- Bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Trường hợp chỉ có thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thời
điểm giao hàng cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm
nào trong thời hạn đó và phải thông báo trước cho bên mua.
- Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải
giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng.
Document Outline
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì? Đặc điểm
- 1. Cơ sở pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
- 2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là
- 3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- 3.1. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- 3.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
- 3.3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
- 3.4. Luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quố
- 4. Câu hỏi thường gặp về hợp đồng mua bán hàng hoá