Hướng dẫn chi tiết Văn bản Vợ chồng A Phủ

Hướng dẫn chi tiết Văn bản Vợ chồng A Phủ. Tài liệu gồm 17 trang giúp bạn tham khảo, củng cố kiến thức và ôn tập đạt kết quả cao trong kỳ thi sắp tới. Mời bạn đọc đón xem!

VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI)
ĐOẠN VĂN
ĐỀ 1:
Cảm nhận diễn biến tâm hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân (Sức
sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân)
Hoặc: Cảm nhận đoạn văn sau: Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa
xuân đã tới…. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
(TríchV chng A Ph- Tô Hoài, Ng văn 12,)
Cm nhn ca anh/ch v nhân vt M trong đon trích trên. T đó,
1. nhn xét s tinh tế khi din t s hi sinh trong tâm hn nhân vt ca nhà
văn Tô Hoài.
2. Nhn xét cái nhìn v con người của nhà văn Tô Hoài:
DÀN Ý
I. Mở bài
đrin đã từng khẳng định: Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ
mình không thừa nhận cái chếtVậy điều làm cho những tác phẩm nghệ thuật bất
tử, trường tồn với thời gian? tài năng hay tấm lòng của người cầm bút? Đến với văn
học Việt Nam hiện đại, ta làm sao quên được truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn
Hoài khi những trang viết của ông rưng rưng xúc động về cuc sng s phận đau
kh của ngưi nông dân nghèo min núi Tây Bắc dưới ách áp bc ca các thế lc thc
dân phong kiến. Đồng thi tác phm còn bài ca v sc sng mãnh lit khát vng
t do, hnh phúc của con người. Điều đó đưc th hin qua nhân vt Mị. đoạn văn
miêu t din biến tâm hành động ca M trong đêm tình a xuân tiêu biểu:
Ngày Tết, M cũng uống rượu. M lén lấy rượu, c ung c từng bát… tiếng sáo
gi bn yêu vn lửng lơ bay ngoài đưng.
Anh ném pao, em không bt
Em không yêu,qu pao rơi rồi...”
Qua đoạn trích, ta thấy được s tinh tế khi din t s hi sinh trong tâm hn nhân
vt của nhà văn Tô Hoài.
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung:
- Hoài nhà n xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông
viết ra để diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông, viết văn một quá trình để
nói ra sự thật, đã sự thật thì không tầm thường, cho phải đập vỡ những thần tượng
trong lòng người đọc”. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của
nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta, cùng lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của
người từng trải, Hoài đã sáng tác nhiều tác phẩm sức lôi cuốn người đọc. Vợ
chồng A Phủ” (1952) là tác phẩm xuất sắc in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
- Đoạn trích cho thấy sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện rõ trong đêm tình xuân.
2. Cảm nhận đoạn văn: Diễn biến tâm lí, hành động của Mị trong đêm tình mùa
xuân
a. Luận điểm 1: Khái quát về nhân vật
- Trước khi về làm dâu nhà Thống Lí, Mị một người con gái xinh đẹp, tài
thổi sáo, chăm chỉ, hiếu thảo, yêu cuộc sống tự do khát khao hạnh phúc. Rất nhiều
chàng trai say mê, đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị nằm”. Thế nhưng, vì món
nợ của cha mẹ nên Mị bị bắt về làm “con dâu gạt nợ” nhà Thống lí.
- Sau khi về làm dâu nhà Thống Tra, Mị bị vùi dập, bị chà đạp, bị tước đoạt
mọi quyền sống, trở thành lệ bị bóc lột sức lao động ghê gớm. Không chỉ vậy, Mị còn
bị áp chế về mặt tinh thần, khiến cô tưởng rằng mình đã bị con ma nhà Thống lí nhận mặt
rồi, chỉ còn chờ ngày rũ xương ở đây thôi.
=> Tất cả khiến Mị bị tê liệt lòng ham sống và ý niệm sống. Cô trở thành con trâu,
con ngựa nhà Thống lí, thành con rùa lùi lũi trong xó cửa. Từ đây, người đọc ngỡ rằng Mị
sẽ chết tàn, chết lụi trong căn phòng u tối chỉ vuông cửa sổ bằng bàn tay, trông ra
ngoài không biết sương hay nắng. Nhưng không, đêm tình mùa xuân Hồng Ngài đã
khiến sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong lòng người con gái Tây Bắc đã được đánh thức.
Nhà văn đã nhìn thấy một ngọn lửa hồng dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ chờ ngọn gió
mùa xuân thổi tới là bùng lên mãnh liệt.
a. Luận điểm 2: Những tác động của ngoại cảnh:
- Sự thức tỉnh của lòng ham sống và khát vọng tự do trong Mị trước hết có căn nguyên từ
ngoại cảnh. Đầu tiên phải kể đến khung cảnh mùa xuân Hồng Ngài một không gian
tươi vui, tràn đầy sức sống màu sắc: cỏ gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo đỏ,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”. Mùa xuân
về trên rẻo cao, đó là thời điểm mà người Mông cởi bỏ mọi nặng nhọc của công việc, mọi
tủi cực của số phận, mọi oan khiên của kiếp sống, để đắm chìm trong niềm vui giản dị
của lẽ tồn sinh. Đó thời điểm bao chàng trai thể cởi bỏ chiếc áo lam của ngày
thường để khoác lên mình chiếc áo đẹp vẫn để dành tìm bạn, vui chơi quên ngày
đêm. Đó thời điểm biết bao gái nghèo cũng quyền diện những chiếc váy hoa
sặc sỡ dâp dìu, tình tứ trong những đám chơi ngày Tết. Cái không khí ấy không thể
không ảnh hưởng tới Mị, lay thức các giác quan của cô.
- Nhưng tác động mạnh mẽ nhất phải tiếng sáo, không chỉ ngày trước Mị thổi sáo
giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị, còn đó tiếng sáo gọi
bạn tình, tiếng sáo rủ bạn đi chơi”. Tiếng sáo, đối với Mị, tiếng ca của hạnh phúc,
biểu tượng âm nhạc của tình yêu đôi lứa, tín hiệu âm thanh của cuộc sống tự do. Từng
lời hát giản dị mộc mạc nhưng lại có sức mời gọi lớn lao:
“Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con
Ta đi tìm người yêu
đã vang lên “thiết tha”, “bổi hổi” trong lòng Mị, đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên
ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo
lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này. đó cũng chính tiền đề dẫn
đến hàng loạt các phản ứng tâm và hành động ham sống trỗi dậy, diễn ra liên tiếp ở Mị.
b. Luận điểm 3: Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
- Phản ứng tâm hành động đầu tiên đánh dấu sự trở về của một tâm hồn yêu đời,
yêu sống ở Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Sau bao ngày lặng câm,
Mị đã cất tiếng, đó chỉ những lời “thì thầm mùa xuân”. Bản “tình ca Tây Bắc” của
những kẻ yêu nhau, của những người tự do, khao khát hạnh phúc đã cất lên trên đôi môi
của Mị. Ta chợt nhđến hình ảnh của Chí Phèo bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say
dài bởi tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài mái chèo đuổi
trên sông, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về”. Âm thanh vang vọng của cuộc sống đánh
thức con người vốn bị lãng quên trong tận cùng đau khổ. Mị cũng như Chí đã tỉnh dậy
sau những cơn mê dài.
- Tiếp đó, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, Mcũng uống rượu: “Mị lén lấy
rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống của Mị khiến người đọc ngạc nhiên nhưng
không cảm thấy vô lí. Bởi sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ lúc Mị được sống
lại với chính con người mình. Mị đã uống nhanh, uống nhiều như nuốt hận vào trong. Mị
uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, như để sống lại mạnh mẽ cái phần
đời tươi trẻ đã có. Men rượu đã tác động đến Mị ở cả hai chiều:
+ Mị hoàn toàn lãng quên thực tại. Người uống ợu, người ốp đồng nhảy run lên bần
bật nhưng Mị không hề biết. Người về, người đi chơi đã vãn cả nhưng Mị vẫn ngồi trơ
giữa nhà.
+ Mị nhớ về quá khứ. Mị nhớ lại những mùa xuân đầm ấm bên bếp lửa và nhớ ra mình
một gái trẻ trung, tài năng: Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi […]. biết bao người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. ức này ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
sự thức tỉnh của Mị. Mị nhận ra mình không phải con trâu, con ngựa nhà Thống lí,
cũng không phải con rùa câm lặng lầm i trong cửa. Mị càng khác xa đám đồ vật
vô tri, giác. Mị là một gái tài ng, xinh đẹp. đã con người thì phải quyền
sống như một con người.
=> Như vậy, men rượu tiếng sáo đã dìu hồn Mị từ cõi quên về cõi nhớ, từ chỗ cảm
về tâm hồn giờ lại rạo rực và khao khát yêu thương.
- Từ việc sống lại ức tươi đẹp của quá khứ, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng nnhững đêm Tết ngày trước”. Mị nhận thấy mình “Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Ngồi trong căn buồng, Mị nghĩ lại đời mình bị đối xử bất
công, chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết. Đây sự bất công bởi bao nhiêu
người chồng vẫn đi chơi ngày tết, huống chi A Sử với Mị không lòng với nhau
vẫn phải ở với nhau. Như vậy, Mị đã bị tước đoạt quyền sống của một con người.
- Như một lẽ tự nhiên, khi ý thức về quyền sống của con người trỗi dậy thì cũng là lúc Mị
cảm thấy hơn bao giờ hết cái nghĩa lí của thực tại. Và ý nghĩ đầu tiên đến với Mị
lại muốn chết: Nếu nắm ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ
không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy ớc mắt ứa ra”. Đây chính biểu hiện của
sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một n khát vọng sống
chân chính đã thức tỉnh với một bên thực tại đáng chán vẫn đang hiện hữu. Những giọt
nước mắt của Mị chỉ càng chứng tỏ rằng Mị đã thực sự hồi sinh Mị đang ý thức rất
hoàn cảnh đau xót của mình.
- Trong khi đó, tiếng sáo vẫn đang lửng lơ bay ngoài đường”, những giai điệu tình
yêu, cả những lỗi hẹn đáng tiếc:
Anh ném pao, em không bắt.
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Từ chỗ một thanh âm bên ngoài, tiếng sáo đã trở thành những “nốt nhạc” trong tâm
hồn Mị: Trong đầu Mđang rập rờn tiếng sáo”. tiếng sáo nội m ấy giống như một
chất “xúc tác” để “phản ứng” đi chơi của Mị diễn ra nhanh hơn:
+ Mị đã “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đây
hành động thức tỉnh, có ý nghĩa Mị đang thắp lên một ngọn đèn để soi rọi cuộc đời
của mình, để thoát khỏi những đêm dài triền miên của quá khứ.
+ Hành động này đã hối thúc các hành động tiếp theo: Mị quấn lại tóc”, “với tay lấy
cái váy hoa vắt phía trong váchđể đi chơi. Đọc những câu văn này, ta thấy Mị như
đang làm đẹp cho bản thân chỉ một giây lát nữa thôi, Mị sẽ bước ra khỏi địa ngục trần
gian để hòa nhập vào không khí rộn rã, tươi vui của mùa xuân Tây Bắc.
- Nhưng giữa lúc sức sống tiềm tàng trong Mị đang trào sôi thì cũng lúc bị vùi dập
một cách man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên cột khiến
Mị không cúi, không nghiêng được đầu”. Hình như A Sử cũng mơ hồ cảm thấy trong
hành động muốn đi chơi kia của Mị một cái gì thật mạnh mẽ, thật ghê gớm đang bùng
lên, nổi loạn chống lại cái luật lệ xưa nay của gia đình hắn. Tuy nhiên, hành động ấy của
A Sử chỉ thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động “đi chơicủa Mị, chứ không
thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người thiếu nữ Tây Bắc
này. đang bị trói đứng nhưng Mị như quên mình đang bị trói”, quên những đau đớn
về thể xác. Trong Mị hơi ợu vẫn “nồng nànnhất tiếng sáo gọi bạn tình vẫn đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Đặc biệt, sức sống tiềm tàng của Mị được
trào dâng mãnh liệt qua chi tiết “Mị vùng bước đi”. Chi tiết này diễn tả thật quyết liệt
lòng ham sống của Mị. muốn bước đi, muốn bay n để thoát khỏi địa ngục này. Chỉ
đến khi sợi dây trói của hiện thực đời thường thít lại đau nhức, Mị mới dần tỉnh khỏi giấc
mơ. Lúc này, Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách.
Mị thổn thức nghĩ nh không bằng con ngựa.
+ Suốt đêm hôm y M b trói đứng nhưng điều l sc sng tim tàng không h b
dp tắt trong người con gái này. Lúc thì sống trong "hơi rượu ta" cùng tiếng sáo
mênh mang gi bn tình. Lúc tnh thì "nng nàn tha thiết nh". mt chi tiết rất đắt khi
nhà văn kết thúc din biến tâm trng ca M trong đêm tình mùa xuân. Đó chi tiết: M
tnh dy nh li câu chuyện người đàn bị chng trói chết trong căn nhà y. M
đã sợ, s chết "M ca quy xem th mình còn sống hay đã chết". S chết là biu hin ca
lòng ham sng. Sc sống trong con người khn kh ấy đã không lụi tàn mà ngưc li vn
mãnh lit như những đợt sóng ngm gm gào trong lòng đại dương tưởng như không
có th dp tt ni.
c. Luận điểm 3: Cht
Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai(Lỗ Tấn). Cuộc trỗi dậy
của Mị lần thứ nhất không thành nhưng o hiệu rằng: Trong Mị sức sống vẫn cháy,
nó là ngọn lửa tiềm tàng, chỉ chờ cơn gió là bùng lên mãnh liệt. Mị không thoát khỏi cuộc
sống ngục nhưng ít nhất Mị đã được sống lại những thời khắc đẹp nhất của ức. Qua
đây, nhà văn thể hiện một chân lý: Sức sống của con người bị vùi dập thế nào vẫn
không thể nào dập tắt được, mà nó sẽ vẫn âm ỉ cháy, và rồi sẽ bùng lên mạnh mẽ.
3. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Mỗi tác phẩm văn học một
khám phá về nội dung và phát minh về hình thức” (Lê-ô-nốp).
- Phân tích tâm nhân vật: thể nói, trong các trang văn miêu tả đời sống tinh
thần của Mị thì đây một trong những trang văn đặc sắc nhất. Tâm phức tạp, đầy biến
động của Mị đã được Hoài khám phá, miêu tả qua tiếng o - một thứ âm thanh lạ,
len lỏi vào thẳm sâu tâm hồn, thức tỉnh khỏi cõi u mê. Đây là trình đphân tích tâm rất
biện chứng của Tô Hoài.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tính
cách.
- Giọng kể linh hoạt, lúc hòa vào dòng tâm của nhân vật để nói được các
cung bậc cảm xúc.
- Ngôn ngữ chọn lọc, tự nhiên. Bit tài miêu t thiên nhiên, phong tc, tp quán
ca ngưi dân min núi. Câu văn giàu tính tạo hình, đm chất thơ.
4. Ý nâng cao:
4.1.Nhn xét s tinh tế khi din t s hi sinh trong tâm hn nhân vt M ca
nhà văn Tô Hoài.
- S hi sinh ca tâm hn nhân vt M được c gi miêu t tinh tế, phù hp vi tính
cách ca . Nhà văn s dng khá nhiu nhng yếu t bên ngoài tác động vào nhân vt,
được miêu t rt t nhiên như: mùa xuân, tiếng sáo gi bạn tình, men rưu...
- S trưng phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác gi lách sâu vào nhng bí mt ca
đời sng ni tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng ca tính cách.
-Với trang văn trong đoạn trích đầy p chất thơ tấm lòng nhân hu, một tài năng
phân tích tâm nhân vt bc thy, Hoài đã khám phá, din t chiu sâu tâm hn cùng
nhng biến thái thăng trầm, gp khúc, tun t đột biến trong tâm trng M. Chính sc
sng tim tàng mãnh lit của người con gái Mèo xinh đẹp đã để li ấn tượng sâu đm
trong lòng ngưi đc và góp phn không nh vào s thành công ca tác phm.
4.2. Nhn xét cái nhìn v con ngưi ca nhà văn Tô Hoài:
- Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị, tác giả bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu, bênh
vực những con người với số phận bất hạnh; trân trọng yêu thương cảm phục sức sống
tiềm tàng, khát vọng tự do, hạnh phúc khnăng vươn tới tương lai. Đó cách nhìn
đầy tin yêu vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
- Cách nhìn xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu tình yêu thương với mảnh đất con
người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay. Truyện ngắn Vợ chồng A
Phủcủa Hoài sản phẩm của nền n học cách mạng, đứa con tinh thần của nhà
văn - chiến với cảm quan hiện thực, tinh thần lạc quan cách mạng: khẳng định, tin
tưởng khả năng, sức mạnh, tương lai con người.
- Cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn
học kháng chiến, khơi dậy sự đồng cảm, trân trọng người đọc, đồng thời thể hiện tài
năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài.
III. Kết luận
Nhà văn chân chính phải nhà nhân đạo từ trong cốt tủy(-Khốp). Nhà văn tồn
ti đời trước hết để làm công vic giống như kẻ nâng gic cho những con người b
cùng đưng, tuyt l (Nguyễn Minh Châu). Qua din biến tâm trạng hành đng ca
M trong đêm tình mùa xuân, Hoài đã làm hiện lên sc sng tim tàng mãnh lit ca
người lao động b áp bc, bóc lt, b đày đọa đến đau đn, ê ch. Sc sng tim tàng y
đã khẳng định đưc sc mnh ca tâm hồn con người Việt Nam chân muôn đời:
đâu áp bức bt công thì đó sự đấu tranh. Đó giá trị hin thực nhân văn ngi
sáng ca tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
ĐỀ 2:
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì M tr dy thi la. Ngn la bp bùng
sáng lên. M mt trông sang thy hai mt A Ph cũng vừa m, một dòng nước mt lp
lánh xuống hai hõm đã xám đen lại. Thy tình cảnh như thế, M cht nh lại đêm
năm trước, A S trói M, M cũng phải trói đứng thế kia. Nước mt chy xung ming,
xung c, không biết lau đi đưc. Tri ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bt mình
chết cũng thôi, đã bắt trói đến chết người đàn ngày trước cũng cái nhà này.
Chúng thật độc ác. chừng này ch đêm mai người kia chết, chết đau, chết đói,
chết rét, phi chết. Ta thân đàn bà, đã bt ta v trình ma nhà ri thì ch còn biết
đợi ngày xương đây thôi... Người kia vic mà phi chết thế. A Ph... M phng
phất nghĩ như vậy.
Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước li, A Ph vn nhm mắt. Nhưng Mị ởng như
A Ph đương biết có người bưc li... M rút con dao nh ct lúa, ct nút dây mây. A Ph
th phè từng hơi, không biết mê hay tnh. Ln lần, đến lúc g được hết dây trói người A
Ph thì M ng hốt hong. M ch thì thào được mt tiếng "Ði ngay...” rồi M nghn li.
A Ph khuu xung, không bước ni. Nhưng trước cái chết có th đến nơi ngay, A Phủ li
qut sc vùng lên, chy.
M đứng lng trong bóng ti.
Ri M cũng vụt chy ra. Tri ti lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đui kp A Phủ, đã lăn,
chy, chy xung tới lưng dốc…..”
Cm nhn ca anh/ ch v hình tượng nhân vt M trong đoạn trích trên để thy
biến đổi tâm trng ca nhân vt. T đó, hãy ch ra giá tr nhân đạo ca tác phm.
DÀN Ý
I. Mở bài
Điều thôi thúc ngưi ngh cầm bút? Điều buộc nhà văn phải lao o
quá trình sáng tạo để cho ra đời đứa con tinh thn ca mình? Với Nêkratxtop đó ni
đau khổ t lâu b kim chế, nay sôi sc ng lên trong lòng”. Với Lepmontop nhng
đêm không ngủ, mt rc cháy, lòng ngp tràn nh nhung”. Còn với Hoài thì đó
niềm rưng rung xúc động v s phn ca nhng lao động nghèo nơi min núi Tây Bc xa
xôi ca t quc. truyện ngắn Vợ chồng A Phủ tác phẩm tiêu biểu. Tác phẩm
không chcho người đọc thấy s phn đau khổ của người nông dân dưới ách áp bc ca
thế lc thc dân phong kiến, còn bài ca v sc sng mãnh lit khát vng t
do, hnh phúc của con người. Điều đó được th hin qua nhân vt Mị. đoạn văn
miêu t din biến tâm lí và hành đng ca M trong đêm đông cu A Ph là tiêu biu:
Lúc y đã khuya. Trong nhà ng yên, thì M tr dy thi la. M đuổi kp A
Phủ, đã lăn, chạy, chy xung tới lưng dốc…..
Qua đon trích, ta thấy được biến đổi tâm trng ca nhân vt và giá tr nhân đạo ca tác
phm.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
- Những người yêu văn chương hẳn không ai còn xa lạ với tác giHoài cây đại
thụ của nền văn học Việt Nam với số lượng c phẩm đạt kỉ lục: gần 200 đầu sách, thuộc
nhiều thể loại khác nhau. Văn ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sâu sắc, hóm hỉnh,
tự nhiên, cùng những hiểu biết hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của
nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta.
- Với m niệm viết văn một qtrình đnói ra sự thật, đã sthật thì không tầm
thường, cho phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”, năm 1952 ông đã
đến với Tây Bắc trong chuyến đi dài tám tháng, cùng sinh hoạt gắn với đồng bào nơi
đây. Tình cảm khăng khút, chân tình đến nỗi khi ra về, trái tim ông vẫn không ngừng
thổn thức thốt lên: Đất nước con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi
quá nhiều, không thể bao giờ quên”. Hoài đã dành cho người dân nơi đây một “kỉ
niệm của tấm lòng mình” bằng tập “Truyện Tây Bắc”. tác phẩm sức lôi cuốn người
đọc nhất chính Vợ chồng A Phủ. Nhà văn đã tập trung khai thác nỗi đau, sự tủi
nhục, bất công của người lao động khi bị đày đọa, dẫm đạp bởi cường quyền bạo lục
thần quyền hủ tục. Từ đó, Hoài muốn m sang lên những phẩm chất đáng quý của
người lao động, tiêu biểu nhất là sức sống tiềm tang của họ.
- Và đoạn trích đêm đông cứu A Phủ đã cho thấy sức sống tiềm tàng của Mị.
2. Cảm nhận đoạn văn: Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cắt dây trói cho
A Phủ:
a. Luận điểm 1: Khái quát về cuộc đời Mị trước đêm đông cứu A Phủ:
* Dẫn dắt: Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Hoài luôn khẳng định: Nhân vật
là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác”. Quả thực, cuộc đời của
Mị đã hội tụ toàn bộ tư tưởng và kết tinh nghệ thuật của tác phẩm.
- Mị vốn gái xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời tài thổi sáo, được bao người say mê,
yêu quý. Hơn nữa, Mị còn là một người con hiếu thảo, sẵn sang lao động để trả nợ cho b
mẹ. Người con gái ấy, đáng ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, yên bình. Thế
nhưng, hồng nhanthì thường bạc mệnh”. Vì món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại
phải làm dâu gạt nợ, chịu kiếp sống trâu ngựa trong nhà thống lý. Bị đày đọa vcả
thể xác tinh thần, Mị trở thành con người cảm, chai sạn, bị mất hết ý thức phản
kháng.
- Từ sau đêm tình mùa xuân nghiệt ngã bị A Sử trói đứng, Mị càng trở nên lầm lũi hơn.
Dường như mọi mối giao cảm của Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp qua lỗ
vuông cửa sổ bằng bàn tay trong căn phòng u tối. Ý thức làm người của Mị bị cha con
nhà Thống vùi dập tê liệt tới mức Mị chỉ còn cái bóng, lãng quên dĩ vãng, không gắn
với hiện tại, chẳng tha thiết tương lai. Cuộc đời Mị cứ thế tiếp diễn đễn chưa biết khi
nào nếu như không có sự xuất hiện của A Phủ.
- A Phcũng giống như Mị, đứa trừ nợ, hội tụ mọi khổ đau, cay cực của người nông
dân miền núi. Một lần đi chăn bò, A Phủ bị hổ bắt mất một con cha con nThống
đã trói anh vào cột, bỏ đói khát giữa những ngày Hồng Ngài rét mướt. Chính nỗi bất hạnh
của A Phủ cùng sự tàn nhẫn độc ác của cha con nhà Thống đã làm thức dậy tinh thần
phản kháng trong người đàn bà yếu đuối, tưởng như không còn sức sống như Mị.
b. Luận điểm 2: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
Dẫn dắt: Nhà văn Thạch Lam từng tâm niệm: “Công việc của nhà văn phát hiện cái
đẹp chỗ không ai ngtới, tìm ra vẻ đẹp che đậy, khuất lấp, đem lại cho người đọc bài
học trông nhìn, thưởng thức”. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi phát hiện ra những nét
chuyển biến trong tâm hồn người thiếu nữ Tây Bắc tưởng như đã mất hết niềm tin vào
cuộc sống.
* Từ vô cảm đến đồng cảm:
- Ban đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn thản nhiên lạnh lùng: “Mị
vẫn thản nhiên thổi lửa, tay. Nếu A Phủ cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”. Thái
độ này không phải Mị không tình thương với A Phủ, những cảnh bắt người,
trói người và hành hạ, đánh đập người là một cảnh tượng quen thuộc diễn ra nhà Thống
Tra. quá quen thuộc nên không thkhơi gợi cảm xúc nơi con người. Nói như
nhà văn Nam Cao: Một người đau chân, lúc nào quên được cái chân đau của mình để
nghĩ đến một cái khác”. Liệu một nạn nhân của tấn bi kịch, chịu sự dày đến sống
không bằng chết nMị còn thể nghĩ đến người khác hay không? Nét tâm này tuy
tàn nhẫn nhưng vô cùng hợp lí, logic. Ngày qua ngay, Mị vẫn sưởi lửa, bầu bạn với
ngọn lửa, không thiết tha với thế giới xung quanh. Không chỉ cảm với người khác,
Mị còn vô cảm với chính bản thân mình, bởi nhiều lần A Sử đi chơi về, thấy M ngồi sưởi
lửa, hắn đã đánh Mị nra cửa bếp. Nhưng Mị vẫn lặp lại, vẫn ởi lửa như cũ. Mị
cảm, hành động như một cái mãy lập trình sẵn. Thật đáng thương m sao cho một kiếp
người:
“Cơn gió đông buốt lạnh lùng
Tứ bề gom lại một cõi không
Lặng nghe Tôi nhé, nghe tôi khóc
Hiện hữu mà chi? Chỉ nghẹn lòng »
(Một cõi quên Hàn Mặc Tử)
- Nhưng khi Mị mắt trông sang thấy “một dòng nước mắt xuống hai hõm
xạm đen lạicủa A Phủ thì Mị đã sống lại những xúc cảm của lòng thương người. Dòng
nước mắt của A Phủ trong đêm đông đã làm thức tỉnh cõi lòng Mị, đánh thức cả kí ức đau
khổ trong đêm tình mùa xuân:
+ Bởi đó dòng nước mắt của kẻ đang hấp hối, ớc mắt của một thân phận nô lệ, bất
lực, tủi nhục, tuyệt vọng trước số phận. Dòng nước mắt ấy chảy trên gò má A Phủ nhưng
lại như chảy ngược vào trong tim Mị. Như một dòng nham thạch ng bỏng, làm tan
chảy khối băng dày trong tim Mị. Rồi nó đánh thức tình thương người trong Mị.
+ Trông người, lại nhđến cảnh ngộ của mình, Mị chợt nhđến đêm m trước A Sử
trói đứng Mị vào cột nhà, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không lau đi được.
Nỗi đau ấy Mị hiểu vì Mị đã từng trải qua.
=> Thương cho A Phủ cũng lúc Mị thương cho chính mình. Mị đang cảm nhận nỗi
đau của A Phủ bằng nỗi đau của chính mình. Như vậy, từ một người sống trong trạng thái
vô cảm, Mị đã có sự đồng cảm với những người đồng cảnh ngộ.
* Từ đồng cảm, Mị nhận thức rõ kẻ thù và sự độc ác của nhà thống lý Pá Tra:
- Ngẫm lại cảnh tượng mình bị trói đứng, nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, nhớ câu
chuyện về người đàn đời trước cũng bị trói đứng đến chết trong cái nhà này, Mị nhận
ra tội ác của cha con nhà Thống lí: Trời ơi, bắt người ta trói đứng đến chết, bắt
mình chết cũng thôi”. “Chúng thật độc ác”. Ấy lúc Mị nhận thức đầy đủ về nguyên
nhân của cái khổ mà mình đang gánh chịu.
* Từ nhận thức sâu sắc về tội ác của kẻ thù, Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy
nghĩ và hành động:
- Nhận thức sâu sắc về tội ác của kẻ thù, Mị đặt mình A Phủ lên cùng một bàn cân số
phận: chừng y thì đêm mai người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết! Ta thân đàn bà, đã bắt ta về trình ma nhà rồi thì chỉ còn biết đợi ngày
xương đây thôi… Người kia việc phải chết?” Đoạn văn sự điệp đi điệp lại một
từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị. Với Mị cái chết tất yếu, Mị đã cam chịu,
nhưng với A Phủ thì cái chết vô lý quá. Trong suy nghĩ của Mị phần sống đã nghiêng hẳn
về phía A Phủ. Đó là biểu hiện của tấm lòng nhân ái của Mị.
- Tình thương người ấy lớn hơn cả nỗi sợ: Sau đó, Mị đã ngồi nghĩ lại đời mình đến
mức đám than đã vạc hẳn lửa”. Đó là một cuộc đời dằng dặc những nỗi buồn đau. Mị
đã từng bị trói, bị đạp chân vào mặt, biết bao lần bị đánh ngã ra cửa bếp. Đời Mị như con
trâu, con ngựa. Đây một cuộc sống không đáng sống, sống mà không bằng chết. Vậy
thì cần chết một cách ý nghĩa n. thế Mị tưởng tượng đến một lúc nào đó A
Phủ chạy trốn được, bố con Tra sẽ bảo chính Mị thủ phạm trói Mị vào đấy, phải
chết trên cái cọc đấy. Nghĩ thế, nhưng trong tình cảnh này Mị cũng không thấy sợ. Mị sẵn
sàng chết thay để cho A Phủ được sống.
- Dũng kấy đã tiếp thêm động lực cho Mị, thúc đẩy có hành động cắt dây cởi
trói cho A Phủ: Mị rón rén bước lại, rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. Mị lần
lần gỡ được hết dây trói thì thào: Đi ngay…”. Được sự giải thoát của Mị, A Phủ đã
quật sức vùng lên chạy. Theo nhịp điệu, tiết tấu câu văn, từng vòng dây của A Phủ được
gỡ bỏ trong không khí khẩn trương đến nghẹt thở. Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ
hành động bản năng, bột phát nhưng cũng kết quả tất yếu phù hợp với tâm nhân
vật: Khi ý thức sống đã trở về, được tiếp thêm dũng khí, bùng lên bằng hành động
mãnh liệt.
* Mị tự đấu tranh tư tưởng, tự giải thoát cho chính mình:
- A Phủ chạy vụt trong bóng tối để lại Mị phía sau. Đến lúc này Mị chỉ n biết đứng
lặng trong bóng tốicái chết từ A Phủ giđây đã chuyển sang Mị. Đối mặt với cái
chết MỊ lại sợ. Bởi trong tâm hồn mình, Mị vẫn một cô gái yêu đời, khao khát được
sống mãnh liệt. Chỉ bị chà đạp, bị xúc phạm, bị đày đọa thể xác tinh thần nên Mị
mới nghĩ đến cái chết mà thôi. Mị đã đứng trước hai sự lựa chọn:
+ Hoặc lại để chết xương, làm con ma trong nhà Thống lí. Hoặc chạy theo A
Phủ để làm người tự do. Câu văn tách ra đứng riêng một mình thể hiện bao nhiêu đấu
tranh trong lòng Mị. Mị phải lựa chọn giữa đi hay ở, giữa sống hay chết, giữa tự do hay
nô lệ?
+ Cuối cùng, khát vọng sống, khát vọng tự do đã tiếp thêm sức mạnh cho Mị để Mị chiến
thắng thần quyền chủ động giành lấy quyền sống. Mị cũng chạy vụt theo A Phủ
nói: “A Phủ cho tôi đi!... đây thì chết mất”. quyết định tự giải thoát cho mình. Một
loạt những động từ mạnh như vụt chạy, băng đi, đuổi kịp, đã lăn, chạy xuống, nói, thở
đã diễn tả lòng ham sống cuộn trào. Sức phản kháng nội lực mạnh mẽ Mị được dịp
giải phóng.
+ Bước chân của Mị chạy trong bóng tối ớc chân đạp đổ cường quyền, thần quyền
của bọn nh chúa bao nhiêu năm qua. họ đã dìu nhau xuống núi chạy sang Phiềng
Sa. Tại đây họ đã gặp được A Châu, một n bộ cách mạng. Được A Châu giác ngộ, Mị
A Phủ đã trở thành du kích sau này trở về giải phóng đồng o Hồng Ngài, bảo
vệ quê hương. Thật đúng là:
“Những bàn chân từ than bụi lầy bùn
Đã bước dưới ánh mặt trời cách mạng
…………
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp”
(Ta đi tới Tố Hữu)
c. Luận điểm 3: Chốt
=> Như vậy, không như chị Dậu trong Tắt đèncủa Ngô Tất Tố kết thúc với cái tiền đồ
tối đen như mực không lối thoát, cũng không như Chí Phèo của Nam Cao rút dao giết
chết kẻ thù rồi kết liễu cuộc đời mình trong bế tắc, Mị đã biến ý thức về quyền sống
thành hành động phản kháng, vùng lên chống lại cường quyền, giành lại hạnh phúc, tự
do.
3. Đánh giá về nghệ thuật:
Mỗi c phẩm văn học một khám phá về nội dung phát minh về hình thức” (Lê-ô-
nốp).
- thể nói, trong các trang n miêu tả đời sống tinh thần của Mị thì đây một trong
những trang văn đặc sắc nhất. Tâm phức tạp, đầy biến động của Mị đã được Hoài
khám phá, miêu tả hợp lí, hợp tình. Đây là trình độ phân tích tâm lí rất biện chứng của
Hoài.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Giọng kể linh hoạt, lúc hòa vào dòng m của nhân vật để nói được các cung bậc
cảm xúc.
- Ngôn ngữ chọn lọc, tự nhiên. Bit tài miêu t thiên nhiên, phong tc, tp quán ca
người dân miền núi. Câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.
4. Ý nâng cao:
4.1. Nhn xét v tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
Qua đon trích trên, ta thấy được tư tưởng nhân đo sâu sc của nhà văn Tô Hoài:
- Trước tiên, đó niềm cm thông sâu sc vi s phận đau kh, ti nhc của người dân
lao đng vùng cao Tây Bc dưi ách thng tr ca thc dân phong kiến min núi.
- Nhà văn đã t cáo ti ác ca giai cp thng tr đã chà đạp lên quyn sng của con ngưi
- Bên cạnh đó, Hoài còn phát hin, khẳng định, ngi ca sc sng tim ng, v đp
tâm hn của người dân lao động miền núi: thương người, khao khát sng t do…
- Ch ra con đường tươi sáng cho nhân vt: trn thoát khi Hng Ngài, sang Phing Sa
theo cách mạng được đổi đời. Nguyên nhân ca s chuyn biến này do s soi
đường ca ánh sáng cách mng. Nh cách mng cuộc đời ca các nhân vt đi từ
thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
4.2. Nhận xét niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài:
Qua nhân vật Mị đoạn văn trên, Hoài đã cho bạn đọc thấy niềm tin của ông
về bản chất của con người:
- Vẻ đẹp tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn ởng chừng như chỉ còn lớp tro tàn
nguội lạnh của Mị khát khao được sống, được yêu sức phản kháng mãnh liệt. Từ
cuộc nổi loạn của Mị, Hoài đã khẳng định một chân muôn đời: đâu áp bức,
đó có đấu tranh, dù đó chỉ là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
+ Nếu trước năm 1945, các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn
Công Hoan chỉ thấy con người nạn nhân của hoàn cảnh. Các nhân vật của họ
trong cảnh ngộ nào cũng đều kết cục bi thảm: chị Dậu bị sưu thuế dồn đến đường
cùng; anh Pha bị lừa gạt, ức hiếp đến mất cả vợ con, bản thân tội; Chí Phèo bị hội
cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, phải tìm đến cái chết.
+ Thì Hoài, với cái nhìn của một nhà văn ch mạng đã đem ánh sáng cuộc đời
chiếu rọi vào những thân phận lệ tìm hướng giải thoát cho Mị. Đây chính nét
mới mẻ trong tinh thần nhân đạo của Tô Hoài so với các nhà văn hiện thực trước đó. Con
đường đến với ánh sáng của tự do xuất phát từ nhu cầu giải phóng chính mình. đó
chính con đường đấu tranh tự phát đến tự giác, ới sự soi đường của Đảng. Đó ng
là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của nhà văn vào sức sống tiềm tàng con người.
+ Hoài như muốn khẳng định: Bản năng sống trong con người luôn bất diệt,
thể tạm thời bị dập tắt nhưng không bao giờ lụi tàn. Mị đại diện cho hình ảnh người
lao động trong cuộc sống tăm tối nhưng đã vươn lên tìm ánh sáng tự do cho cuộc đời
mình.
III. Kết luận:
Nhà văn chân chính phải nhà nhân đạo từ trong cốt tủy(Sê-khốp). Nhà văn
tn ti đời trước hết để làm công vic giống như kẻ nâng gic cho những con người b
cùng đưng, tuyt l (Nguyễn Minh Châu). Qua din biến tâm trạng hành đng ca
M trong đêm đông cứu A Phủ, Tô Hoài đã làm hiện lên sc sng tim tàng mãnh lit ca
người lao động b áp bc, bóc lt, b đày đọa đến đau đn, ê ch. Sc sng tim tàng y
đã khẳng định đưc sc mnh ca tâm hồn con người Việt Nam chân muôn đời:
đâu áp bức bt công thì đó sự đấu tranh. Đó giá tr hin thc nhân văn ngi
sáng ca tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn.
ĐỀ 3:
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả nhân vật Mị:
Đoạn trích 1: Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
trong cái buồng Mị nằm, kín mít, một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết sương hay nắng. Mị nghĩ rằng,
mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi
Đoạn trích 2: Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng,
bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi.
Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”
Cảm nhận của a/c về hình tượng nhân vật Mị trong 2 đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét về sức sống mãnh liệt của người dân lao động miền núi qua tấm lòng nhân đạo
của nhà văn Tô Hoài.
DÀN Ý
I. Mở bài: Gián tiếp
- Tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về 2 đoạn văn
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung:
Tác giả, tác phẩm
2. Cảm nhận nhân vật Mị:
a. Khái quát về nhân vật:
- Xinh đẹp, tài năng
- Bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí
b. Đoạn trích 1: Sự xuất hiện đầy ám ảnh của Mị sau khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra
- Hoàn cảnh: Đoạn trích này khái quát về cuộc sống cực nhục của Mị trong những ngày
làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
- Nguyên nhân: Chấp nhận cuộc sống con dâu gạt nợ, Mị phải trải qua những đày đọa
cả thể xác lẫn tinh thần: + Mị bị bóc lột sức lao động vô cùng tàn nhẫn, bị đánh đập, hành
hạ.
+ Mị bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, giữa căn buồng lúc o cũng u
tối, cửa sổ là một lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra ngoài chỉ thấy trăng trắng không biết
sương hay là nắng. Mị bị mất hoàn toàn ý niệm về không gian thời gian. Từ đó, cứ
lùi lũi như con rùa nuôi trong cửa, chỉ còn biết đợi ngày xương đây thôi. lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị ngrằng, mình cứ chngồi trong cái lỗ vuông ấy
mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi
- Bình luận: + Đoạn trích cho thấy Mị đã hoàn toàn tuyệt vọng, buông xuôi sự sống,
liệt long ham sống, phó mặc cho cuộc đời định đoạt.
+ Đoạn trích cũng cho thấy khả năng quan sát tinh tế diễn biến m lí nhân vật. Tài năng
nhà văn thể hiện qua việc lựa chọn được những “góc quay đắt’ để đặc tả số hận cùng cực
của nhân vật.
c. Đoạn trích 2: Sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng và hành động của Mị trong đêm tình mùa
xuân:
- Hoàn cảnh dẫn đến đoạn văn: Khái quát những tác động của ngoại cảnh (bức tranh
xuân, men rượu, tiếng sáo… khiến Mị nhớ về quá khứ)
- Bình luận: Đoạn văn thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị qua hành động:
+ Mị thắp đèn như thắp cuộc đời tối tăm của mình
+ Mị thức tỉnh, nhận ra sức sống và sức trẻ của mình
+ Mị làm đẹp để chuẩn bị đi chơi
=> Sự trỗi dậy trong hành động của Mị chính sức sống tiềm tàng đã ẩn chứa rất lâu
trong Mị.
3. Nghệ thuật:
- Kể chuyện
- Miêu tả
- Các câu văn ngắn, nhịp điệu nhanh diễn tả sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
- Phân tích tâm lí nhân vật
4. Nhận xét sức sống mãnh liệt của người lao động và tấm lòng nhân đạo:
- Từ một gái âm thầm, câm lặng, chai sạn về cảm xúc, tâm hồn, Mị đã sự thay đổi,
hồi sinh trong đêm tình mùa xuân, để trở thành một gái khát vọng sống, khao khát
tình yêu hạnh phúc. trong hoàn cảnh nào, Mị vẫn luôn hướng về sự sống, luôn
kháo khát sống, chờ cơ hội để bùng cháy. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của cô.
- Bản năng sống trong con người luôn bất diệt, thể tạm thời bị dập tắt nhưng
không bao giờ lụi tàn. Sự đổi thay của Mị từ cảm xúc tâm hồn, nhận thức, cho đến hàn
động đã cho ta thấy sức sống tiềm tàng trong nhân vật. Mị đại diện cho hình ảnh người
lao động trong cuộc sống tăm tối nhưng đã vươn lên tìm ánh sáng tự do cho cuộc đời
mình.
- Qua 2 đoạn văn này thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn: + trân trọng, nâng niu vẻ
đẹp trong tâm hồn những con người lao động.
+ lên án, tố cáo bộn chúa đất phong kiến đã dùng cường quyền bạo lực thần quyền hủ
tục để áp bức, bóc lột con ngươi
+ Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức sống bền bỉ, cùng khả năng vươn dậy của họ.
III. Kết bài
ĐỀ 4:
Trong “Vợ chồng A Ph”, Tô Hoài đã 2 lần miêu tả sức sống tiềm tàng trỗi dậy trong Mị:
Trong đêm tình mùa xuân: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị
cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”
trong đêm đông cứu A Phủ: Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây cởi trói
cho A Phủ… rồi Mị vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ,
đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc”.
Phân tích diễn biến tâm hành động của Mị trong 2 lần miêu tả trên. Từ đó làm nổi
bật sự khác biệt cơ bản trong 2 lần sức sống tiềm tàng trỗi dậy ấy.
DÀN Ý
I. Mở bài:
- Giới thiệu tg, tp
- 2 đoạn trích/ chi tiết
II. Thân bài
1. Giới thiệu chung:
2. Cảm nhận về nhân vật Mị trong 2 đoạn trích/ chi tiết:
a. Khái quát về nhân vật
b. Đoạn trích/ chi tiết 1:
- Hoàn cảnh dẫn đến: Khung cảnh đất đất trời Hồng Ngài vào xuân, không khí ngày tết
đã phần nào tác động đến tâm hồn Mị. Đặc biệt sự xuất hiện của tiếng sao gọi bạn tình
đã dần dần làm hồi sinh sức sống tiềm tàng của nhân vật.
- Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
+ Tiếng sáo ban đầu tác nhân bên ngoài, nhưng giờ đây đã thâm nhập vào bên trong
tâm hồn Mị: trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo với những giai điệu thiết tha
của bản tình ca Tây Bắc đôi lứa yêu nhau đã đánh thức mạnh mẽ những khát khao của
tuổi thanh xuân trong Mị. Mị nhớ lại quá khứ, mình đã từng gái xinh đẹp, tài
năng… => Mị thấy trong lòng phơi phới trở lại => muốn đi chơi
+ Từ ý muốn đến hành động diễn ra nhanh chóng: Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy
hoa vắt phía trong vách.”. Với những vế câu ngắn, nhịp nhanh, dồn dập, nhà văn đã
khắc họa nội tâm đầy rạo rực cùng sự trỗi dậy mạnh mẽ của khát vọng tình yêu, khát
vọng hạnh phúc đang diễn ra trong Mị.
+ Tuy nhiên, khát vọng đi chơi của Mị nhanh chóng bị dập tắt bởi A Sử.
c. Đoạn văn/ chi tiết thứ 2:
- Hoàn cảnh dẫn đến: + Mỗi đêm đông, Mị đều trở dậy thổi lửa tay. Ban đầu khi nhìn
thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên, thờ ơ.
+ Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm đã sạm đen lại của A Phủ
thì Mị động lòng thương. Mị nhớ lại cảnh mình bị A Sử trói đứng trong đêm tình mùa
xuân năm trước. Mị nhận ra tội ác cha con nhà thống lí và thương xót cho A Phủ.
- Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
+ Từ việc thương mình rồi đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị đã chiến thắng nỗi sợ
hãi về thần quyền hủ tục để chủ động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, đồng thời cũng
giải thoát cho chính mình: “Mị rút con dao nhỏ…”. Hành động được miêu tả ngắn gọn,
nhanh chóng và dứt khoát.
+ Khi đứng lại một mình, nỗi sợ hãi cái chết mới thực sự bủa vây và cũng là lúc lòng ham
sống bùng lên mạnh mẽ nhất. Mị đã chạy theo A Phủ, giải thoát cho chính cuộc đời mình.
Hành động được miêu tả mạnh mẽ, quyết liệt.
3. Nhận xét về sự khác biệt của 2 lần sức sống tiềm tàng trong Mị:
- Lần thứ nhất: với hành động đi chơi xuân, bản thân Mị chỉ định giải thoát cho mình
trong chốc lát. Đó strỗi dậy mạnh mẽ của khát vọng tình u, hạnh phúc. Nhưng sự
trỗi dậy trong chốc lát đó không làm thay đổi được số phận của Mị.
- Lần thứ hai: Với nh động cắt dây cởi trói cho A Phủ chạy theo anh, Mị đã giải
thoát hoàn toàn cuộc đời của mình khỏi sự ng buộc của cả thần quyền ờng quyền.
Đó sự trỗi dậy một cách quyết liệt của khát vọng sống, khát vọng tự do, từ đó tạo nên
một bước ngoặt lớn lao cho cuộc đời Mị. Mị A Phủ sống một cuộc đời mới Phiềng
Sa.
- Đánh giá: Miêu tả diễn biến tâm hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân
đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng, kì diệu
trong mỗi con người lao động nghèo khổ miền núi. Đồng thời thể hiện sự tin tưởng vào
khả năng đổi đời của họ. Qua đó ng thể hiện tài năng miêu tả phân tích tâm
nhân vật của tác giả.
III. Kết bài
| 1/17

Preview text:

VỢ CHỒNG A PHỦ (TÔ HOÀI) ĐOẠN VĂN ĐỀ 1:
Cảm nhận diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân (Sức
sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân)

Hoặc: Cảm nhận đoạn văn sau: “Tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa
xuân đã tới…. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa
”.
(TríchVợ chồng A Phủ- Tô Hoài, Ngữ văn 12,)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Mị trong đoạn trích trên. Từ đó,
1. nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật của nhà văn Tô Hoài.
2. Nhận xét cái nhìn về con người của nhà văn Tô Hoài: DÀN Ý I. Mở bài
Sê đrin đã từng khẳng định: “Nghệ thuật nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết” Vậy điều gì làm cho những tác phẩm nghệ thuật bất
tử, trường tồn với thời gian? Ở tài năng hay tấm lòng của người cầm bút? Đến với văn
học Việt Nam hiện đại, ta làm sao quên được truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn
Tô Hoài khi những trang viết của ông rưng rưng xúc động về cuộc sống và số phận đau
khổ của người nông dân nghèo miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức của các thế lực thực
dân và phong kiến. Đồng thời tác phẩm còn là bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng
tự do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật Mị. Và đoạn văn
miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân là tiêu biểu:
Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát… Mà tiếng sáo
gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu,quả pao rơi rồi...”

Qua đoạn trích, ta thấy được sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân
vật của nhà văn Tô Hoài. II. Thân bài
1. Giới thiệu chung:
- Tô Hoài là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm của ông
viết ra để diễn tả những sự thật của đời thường. Theo ông, “viết văn là một quá trình để
nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng
trong lòng người đọc
”. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của
nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta, cùng lối trần thuật sinh động, hóm hỉnh của
người từng trải, Tô Hoài đã sáng tác nhiều tác phẩm có sức lôi cuốn người đọc. “Vợ
chồng A Phủ
” (1952) là tác phẩm xuất sắc in trong tập “Truyện Tây Bắc”.
- Đoạn trích cho thấy sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện rõ trong đêm tình xuân.
2. Cảm nhận đoạn văn: Diễn biến tâm lí, hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân
a. Luận điểm 1: Khái quát về nhân vật

- Trước khi về làm dâu nhà Thống Lí, Mị là một người con gái xinh đẹp, có tài
thổi sáo, chăm chỉ, hiếu thảo, yêu cuộc sống tự do và khát khao hạnh phúc. Rất nhiều
chàng trai say mê, đến “đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị nằm”. Thế nhưng, vì món
nợ của cha mẹ nên Mị bị bắt về làm “con dâu gạt nợ” nhà Thống lí.
- Sau khi về làm dâu nhà Thống lí Pá Tra, Mị bị vùi dập, bị chà đạp, bị tước đoạt
mọi quyền sống, trở thành nô lệ bị bóc lột sức lao động ghê gớm. Không chỉ vậy, Mị còn
bị áp chế về mặt tinh thần, khiến cô tưởng rằng mình đã bị con ma nhà Thống lí nhận mặt
rồi, chỉ còn chờ ngày rũ xương ở đây thôi.
=> Tất cả khiến Mị bị tê liệt lòng ham sống và ý niệm sống. Cô trở thành con trâu,
con ngựa nhà Thống lí, thành con rùa lùi lũi trong xó cửa. Từ đây, người đọc ngỡ rằng Mị
sẽ chết tàn, chết lụi trong căn phòng u tối chỉ có vuông cửa sổ bằng bàn tay, trông ra
ngoài không biết là sương hay nắng. Nhưng không, đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đã
khiến sức sống tiềm tàng, mãnh liệt trong lòng người con gái Tây Bắc đã được đánh thức.
Nhà văn đã nhìn thấy một ngọn lửa hồng dưới lớp tro tàn nguội lạnh, chỉ chờ ngọn gió
mùa xuân thổi tới là bùng lên mãnh liệt.
a. Luận điểm 2: Những tác động của ngoại cảnh:
- Sự thức tỉnh của lòng ham sống và khát vọng tự do trong Mị trước hết có căn nguyên từ
ngoại cảnh. Đầu tiên phải kể đến khung cảnh mùa xuân ở Hồng Ngài – một không gian
tươi vui, tràn đầy sức sống và màu sắc: “cỏ gianh vàng ửng”, “trong các làng Mèo đỏ,
những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ
”. Mùa xuân
về trên rẻo cao, đó là thời điểm mà người Mông cởi bỏ mọi nặng nhọc của công việc, mọi
tủi cực của số phận, mọi oan khiên của kiếp sống, để đắm chìm trong niềm vui giản dị
của lẽ tồn sinh. Đó là thời điểm mà bao chàng trai có thể cởi bỏ chiếc áo lam lũ của ngày
thường để khoác lên mình chiếc áo đẹp vẫn để dành mà tìm bạn, mà vui chơi quên ngày
đêm. Đó là thời điểm mà biết bao cô gái nghèo cũng có quyền diện những chiếc váy hoa
sặc sỡ mà dâp dìu, tình tứ trong những đám chơi ngày Tết. Cái không khí ấy không thể
không ảnh hưởng tới Mị, lay thức các giác quan của cô.
- Nhưng tác động mạnh mẽ nhất phải là tiếng sáo, không chỉ vì ngày trước Mị thổi sáo
giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị, mà còn vì đó là tiếng sáo gọi
bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi”. Tiếng sáo, đối với Mị, là tiếng ca của hạnh phúc, là
biểu tượng âm nhạc của tình yêu đôi lứa, là tín hiệu âm thanh của cuộc sống tự do. Từng
lời hát giản dị mộc mạc nhưng lại có sức mời gọi lớn lao:
“Mày có con trai, con gái rồi Mày đi làm nương
Ta không có con trai con
Ta đi tìm người yêu

đã vang lên “thiết tha”, “bổi hổi” trong lòng Mị, đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên
ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo
lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này. Và đó cũng chính là tiền đề dẫn
đến hàng loạt các phản ứng tâm lý và hành động ham sống trỗi dậy, diễn ra liên tiếp ở Mị.
b. Luận điểm 3: Diễn biến tâm trạng và hành động của Mị:
-
Phản ứng tâm lí và hành động đầu tiên đánh dấu sự trở về của một tâm hồn yêu đời,
yêu sống ở Mị là “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Sau bao ngày lặng câm,
Mị đã cất tiếng, dù đó chỉ là những lời “thì thầm mùa xuân”. Bản “tình ca Tây Bắc” của
những kẻ yêu nhau, của những người tự do, khao khát hạnh phúc đã cất lên trên đôi môi
của Mị. Ta chợt nhớ đến hình ảnh của Chí Phèo bâng khuâng tỉnh dậy sau một cơn say
dài bởi “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá
trên sông, tiếng mấy bà đi chợ bán vải về
”. Âm thanh vang vọng của cuộc sống đánh
thức con người vốn bị lãng quên trong tận cùng đau khổ. Mị cũng như Chí đã tỉnh dậy sau những cơn mê dài.
- Tiếp đó, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, Mị cũng uống rượu: “Mị lén lấy
hũ rượu, cứ uống ực từng bát
”. Cách uống của Mị khiến người đọc ngạc nhiên nhưng
không cảm thấy vô lí. Bởi sau bao tháng ngày đau đớn, tủi nhục, giờ là lúc Mị được sống
lại với chính con người mình. Mị đã uống nhanh, uống nhiều như nuốt hận vào trong. Mị
uống như để quên đi cái phần đời cay đắng vừa qua, như để sống lại mạnh mẽ cái phần
đời tươi trẻ đã có. Men rượu đã tác động đến Mị ở cả hai chiều:
+ Mị hoàn toàn lãng quên thực tại. Người uống rượu, người ốp đồng nhảy run lên bần
bật nhưng Mị không hề biết. Người về, người đi chơi đã vãn cả nhưng Mị vẫn ngồi trơ giữa nhà.
+ Mị nhớ về quá khứ. Mị nhớ lại những mùa xuân đầm ấm bên bếp lửa và nhớ ra mình
là một cô gái trẻ trung, tài năng: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi […]. Có biết bao người
mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị
”. Kí ức này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với
sự thức tỉnh của Mị. Mị nhận ra mình không phải là con trâu, con ngựa nhà Thống lí,
cũng không phải là con rùa câm lặng lầm lũi trong xó cửa. Mị càng khác xa đám đồ vật
vô tri, vô giác. Mị là một cô gái tài năng, xinh đẹp. Mà đã là con người thì phải có quyền
sống như một con người.
=> Như vậy, men rượu và tiếng sáo đã dìu hồn Mị từ cõi quên về cõi nhớ, từ chỗ vô cảm
về tâm hồn giờ lại rạo rực và khao khát yêu thương.
- Từ việc sống lại kí ức tươi đẹp của quá khứ, Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột
nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước
”. Và Mị nhận thấy mình “Mị trẻ lắm. Mị
vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
Ngồi trong căn buồng, Mị nghĩ lại đời mình bị đối xử bất
công, chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết. Đây là sự bất công vô lí bởi bao nhiêu
người có chồng vẫn đi chơi ngày tết, huống chi A Sử với Mị không có lòng với nhau mà
vẫn phải ở với nhau. Như vậy, Mị đã bị tước đoạt quyền sống của một con người.
- Như một lẽ tự nhiên, khi ý thức về quyền sống của con người trỗi dậy thì cũng là lúc Mị
cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lí của thực tại. Và ý nghĩ đầu tiên đến với Mị là
cô lại muốn chết: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ
không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra
”. Đây chính là biểu hiện của
sự phản kháng với hoàn cảnh, của sự xung đột gay gắt giữa một bên là khát vọng sống
chân chính đã thức tỉnh với một bên là thực tại đáng chán vẫn đang hiện hữu. Những giọt
nước mắt của Mị chỉ càng chứng tỏ rằng Mị đã thực sự hồi sinh và Mị đang ý thức rất rõ
hoàn cảnh đau xót của mình.
-
Trong khi đó, tiếng sáo vẫn đang “lửng lơ bay ngoài đường”, những giai điệu tình
yêu, cả những lỗi hẹn đáng tiếc:
Anh ném pao, em không bắt.
Em không yêu, quả pao rơi rồi
Từ chỗ là một thanh âm bên ngoài, tiếng sáo đã trở thành những “nốt nhạc” trong tâm
hồn Mị: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Và tiếng sáo nội tâm ấy giống như một
chất “xúc tác” để “phản ứng” đi chơi của Mị diễn ra nhanh hơn:
+ Mị đã “đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Đây
là hành động thức tỉnh, nó có ý nghĩa Mị đang thắp lên một ngọn đèn để soi rọi cuộc đời
của mình, để thoát khỏi những đêm dài triền miên của quá khứ.
+ Hành động này đã hối thúc các hành động tiếp theo: “Mị quấn lại tóc”, “với tay lấy
cái váy hoa vắt ở phía trong vách
” để đi chơi. Đọc những câu văn này, ta thấy Mị như
đang làm đẹp cho bản thân và chỉ một giây lát nữa thôi, Mị sẽ bước ra khỏi địa ngục trần
gian để hòa nhập vào không khí rộn rã, tươi vui của mùa xuân Tây Bắc.
- Nhưng giữa lúc sức sống tiềm tàng trong Mị đang trào sôi thì cũng là lúc nó bị vùi dập
một cách dã man bởi A Sử. Hắn đã trói đứng Mị vào cột nhà, quấn tóc Mị lên cột khiến
Mị “không cúi, không nghiêng được đầu”. Hình như A Sử cũng mơ hồ cảm thấy trong
hành động muốn đi chơi kia của Mị có một cái gì thật mạnh mẽ, thật ghê gớm đang bùng
lên, nổi loạn chống lại cái luật lệ xưa nay của gia đình hắn. Tuy nhiên, hành động ấy của
A Sử chỉ có thể trói buộc thân xác Mị, ngăn cản hành động “đi chơi” của Mị, chứ không
thể dìm xuống cái sức sống mãnh liệt vẫn đang dâng lên trong người thiếu nữ Tây Bắc
này. Dù đang bị trói đứng nhưng Mị như quên mình “đang bị trói”, quên những đau đớn
về thể xác. Trong Mị hơi rượu vẫn “nồng nàn” và nhất là tiếng sáo gọi bạn tình vẫn đưa
Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Đặc biệt, sức sống tiềm tàng của Mị được
trào dâng mãnh liệt qua chi tiết “Mị vùng bước đi”. Chi tiết này diễn tả thật quyết liệt
lòng ham sống của Mị. Cô muốn bước đi, muốn bay lên để thoát khỏi địa ngục này. Chỉ
đến khi sợi dây trói của hiện thực đời thường thít lại đau nhức, Mị mới dần tỉnh khỏi giấc
mơ. Lúc này, Mị không nghe tiếng sáo nữa, chỉ nghe thấy tiếng chân ngựa đạp vào vách.
Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.
+ Suốt đêm hôm ấy Mị bị trói đứng nhưng điều kì lạ là sức sống tiềm tàng không hề bị
dập tắt trong người con gái này. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo
mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Có một chi tiết rất đắt khi
nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị
tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị
đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của
lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn
mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi.
c. Luận điểm 3: Chốt
Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn). Cuộc trỗi dậy
của Mị lần thứ nhất không thành nhưng nó báo hiệu rằng: Trong Mị sức sống vẫn cháy,
nó là ngọn lửa tiềm tàng, chỉ chờ cơn gió là bùng lên mãnh liệt. Mị không thoát khỏi cuộc
sống ngục tù nhưng ít nhất Mị đã được sống lại những thời khắc đẹp nhất của kí ức. Qua
đây, nhà văn thể hiện một chân lý: Sức sống của con người dù có bị vùi dập thế nào vẫn
không thể nào dập tắt được, mà nó sẽ vẫn âm ỉ cháy, và rồi sẽ bùng lên mạnh mẽ.
3. Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. “Mỗi tác phẩm văn học là một
khám phá về nội dung và phát minh về hình thức” (Lê-ô-nốp).
- Phân tích tâm lí nhân vật: Có thể nói, trong các trang văn miêu tả đời sống tinh
thần của Mị thì đây là một trong những trang văn đặc sắc nhất. Tâm lí phức tạp, đầy biến
động của Mị đã được Tô Hoài khám phá, miêu tả qua tiếng sáo - một thứ âm thanh kì lạ,
len lỏi vào thẳm sâu tâm hồn, thức tỉnh khỏi cõi u mê. Đây là trình độ phân tích tâm lí rất
biện chứng của Tô Hoài.
- Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Giọng kể linh hoạt, có lúc hòa vào dòng tâm tư của nhân vật để nói được các cung bậc cảm xúc.
- Ngôn ngữ chọn lọc, tự nhiên. Biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục, tập quán
của người dân miền núi. Câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ. 4. Ý nâng cao:
4.1.Nhận xét sự tinh tế khi diễn tả sự hồi sinh trong tâm hồn nhân vật Mị của nhà văn Tô Hoài.
- Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật Mị được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính
cách của cô. Nhà văn sử dụng khá nhiều những yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật,
được miêu tả rất tự nhiên như: mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, men rượu...
- Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào những bí mật của
đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách.
-Với trang văn trong đoạn trích đầy ắp chất thơ và tấm lòng nhân hậu, một tài năng
phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã khám phá, diễn tả chiều sâu tâm hồn cùng
những biến thái thăng trầm, gấp khúc, tuần tự và đột biến trong tâm trạng Mị. Chính sức
sống tiềm tàng và mãnh liệt của người con gái Mèo xinh đẹp đã để lại ấn tượng sâu đậm
trong lòng người đọc và góp phần không nhỏ vào sự thành công của tác phẩm.
4.2. Nhận xét cái nhìn về con người của nhà văn Tô Hoài:
- Qua diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị, tác giả bày tỏ sự cảm thông thấu hiểu, bênh
vực những con người với số phận bất hạnh; trân trọng yêu thương và cảm phục sức sống
tiềm tàng, khát vọng tự do, hạnh phúc và khả năng vươn tới tương lai. Đó là cách nhìn
đầy tin yêu vào phẩm chất tốt đẹp của con người.
- Cách nhìn xuất phát từ sự gắn bó, am hiểu và tình yêu thương với mảnh đất và con
người miền núi, từ hiện thực cách mạng với nhiều đổi thay. Truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ
” của Tô Hoài là sản phẩm của nền văn học cách mạng, đứa con tinh thần của nhà
văn - chiến sĩ với cảm quan hiện thực, tinh thần lạc quan cách mạng: khẳng định, tin
tưởng khả năng, sức mạnh, tương lai con người.
- Cách nhìn mới mẻ, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, mang lại chất lượng mới cho văn
học kháng chiến, khơi dậy sự đồng cảm, trân trọng người đọc, đồng thời thể hiện tài
năng, tấm lòng nhà văn Tô Hoài. III. Kết luận
Nhà văn chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-Khốp). “Nhà văn tồn
tại ở đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị
cùng đường, tuyệt lộ
” (Nguyễn Minh Châu). Qua diễn biến tâm trạng và hành động của
Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của
người lao động bị áp bức, bóc lột, bị đày đọa đến đau đớn, ê chề. Sức sống tiềm tàng ấy
đã khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở
đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh. Đó là giá trị hiện thực và nhân văn ngời
sáng của tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. ĐỀ 2:
“Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng
sáng lên. Mị lé mắt trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp

lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm
năm trước, A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống miệng,
xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình
chết cũng thôi, nó đã bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này.
Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói,
chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết
đợi ngày rũ xương ở đây thôi... Người kia việc gì mà phải chết thế. A Phủ... Mị phảng phất nghĩ như vậy.
… Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mị tưởng như
A Phủ đương biết có người bước lại... Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ
thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A
Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng "Ði ngay...” rồi Mị nghẹn lại.
A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại
quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn,
chạy, chạy xuống tới lưng dốc…..”
Cảm nhận của anh/ chị về hình tượng nhân vật Mị trong đoạn trích trên để thấy
biến đổi tâm trạng của nhân vật. Từ đó, hãy chỉ ra giá trị nhân đạo của tác phẩm. DÀN Ý I. Mở bài
Điều gì thôi thúc người nghệ sĩ cầm bút? Điều gì buộc nhà văn phải lao vào
quá trình sáng tạo để cho ra đời đứa con tinh thần của mình? Với Nêkratxtop đó là “nỗi
đau khổ từ lâu bị kiềm chế, nay sôi sục dâng lên trong lòng
”. Với Lepmontop là “những
đêm không ngủ, mắt rực cháy, lòng ngập tràn nhớ nhung
”. Còn với Tô Hoài thì đó là
niềm rưng rung xúc động về số phận của những lao động nghèo nơi miền núi Tây Bắc xa
xôi của tổ quốc. Và truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm tiêu biểu. Tác phẩm
không chỉ cho người đọc thấy số phận đau khổ của người nông dân dưới ách áp bức của
thế lực thực dân và phong kiến, mà còn là bài ca về sức sống mãnh liệt và khát vọng tự
do, hạnh phúc của con người. Điều đó được thể hiện rõ qua nhân vật Mị. Và đoạn văn
miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm đông cứu A Phủ là tiêu biểu:
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên, thì Mị trở dậy thổi lửa. … Mị đuổi kịp A
Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc…..
Qua đoạn trích, ta thấy được biến đổi tâm trạng của nhân vật và giá trị nhân đạo của tác phẩm. II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung:
- Những người yêu văn chương hẳn không ai còn xa lạ với tác giả Tô Hoài – cây đại
thụ của nền văn học Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỉ lục: gần 200 đầu sách, thuộc
nhiều thể loại khác nhau. Văn ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật sâu sắc, hóm hỉnh,
tự nhiên, cùng những hiểu biết hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của
nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta.
- Với tâm niệm “viết văn là một quá trình để nói ra sự thật, đã là sự thật thì không tầm
thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc
”, năm 1952 ông đã
đến với Tây Bắc trong chuyến đi dài tám tháng, cùng sinh hoạt gắn bó với đồng bào nơi
đây. Tình cảm khăng khút, chân tình đến nỗi khi ra về, trái tim ông vẫn không ngừng
thổn thức mà thốt lên: “Đất nước và con người miền Tây đã để thương, để nhớ cho tôi
quá nhiều, không thể bao giờ quên
”. Và Tô Hoài đã dành cho người dân nơi đây một “kỉ
niệm của tấm lòng mình” bằng tập “Truyện Tây Bắc”. Và tác phẩm có sức lôi cuốn người
đọc nhất chính là “Vợ chồng A Phủ” . Nhà văn đã tập trung khai thác nỗi đau, sự tủi
nhục, bất công của người lao động khi bị đày đọa, dẫm đạp bởi cường quyền bạo lục và
thần quyền hủ tục. Từ đó, Tô Hoài muốn làm sang lên những phẩm chất đáng quý của
người lao động, tiêu biểu nhất là sức sống tiềm tang của họ.
- Và đoạn trích đêm đông cứu A Phủ đã cho thấy sức sống tiềm tàng của Mị.
2. Cảm nhận đoạn văn: Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm đông cắt dây trói cho A Phủ:
a. Luận điểm 1: Khái quát về cuộc đời Mị trước đêm đông cứu A Phủ:
* Dẫn dắt
: Trong suốt cuộc đời cầm bút của mình, Tô Hoài luôn khẳng định: “Nhân vật
là nơi tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác
”. Quả thực, cuộc đời của
Mị đã hội tụ toàn bộ tư tưởng và kết tinh nghệ thuật của tác phẩm.
- Mị vốn là cô gái xinh đẹp, trẻ trung, yêu đời và có tài thổi sáo, được bao người say mê,
yêu quý. Hơn nữa, Mị còn là một người con hiếu thảo, sẵn sang lao động để trả nợ cho bố
mẹ. Người con gái ấy, đáng ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc, yên bình. Thế
nhưng, “hồng nhan” thì thường “bạc mệnh”. Vì món nợ truyền kiếp từ đời cha mẹ để lại
mà phải làm dâu gạt nợ, chịu kiếp sống trâu ngựa trong nhà thống lý. Bị đày đọa về cả
thể xác và tinh thần, Mị trở thành con người vô cảm, chai sạn, bị mất hết ý thức phản kháng.
- Từ sau đêm tình mùa xuân nghiệt ngã bị A Sử trói đứng, Mị càng trở nên lầm lũi hơn.
Dường như mọi mối giao cảm của Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp qua lỗ
vuông cửa sổ bằng bàn tay trong căn phòng u tối. Ý thức làm người của Mị bị cha con
nhà Thống lí vùi dập tê liệt tới mức Mị chỉ còn là cái bóng, lãng quên dĩ vãng, không gắn
bó với hiện tại, chẳng tha thiết tương lai. Cuộc đời Mị cứ thế tiếp diễn đễn chưa biết khi
nào nếu như không có sự xuất hiện của A Phủ.
- A Phủ cũng giống như Mị, là đứa ở trừ nợ, hội tụ mọi khổ đau, cay cực của người nông
dân miền núi. Một lần đi chăn bò, A Phủ bị hổ bắt mất một con và cha con nhà Thống lí
đã trói anh vào cột, bỏ đói khát giữa những ngày Hồng Ngài rét mướt. Chính nỗi bất hạnh
của A Phủ cùng sự tàn nhẫn độc ác của cha con nhà Thống lí đã làm thức dậy tinh thần
phản kháng trong người đàn bà yếu đuối, tưởng như không còn sức sống như Mị.
b. Luận điểm 2: Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
Dẫn dắt:
Nhà văn Thạch Lam từng tâm niệm: “Công việc của nhà văn là phát hiện cái
đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm ra vẻ đẹp che đậy, khuất lấp, đem lại cho người đọc bài
học trông nhìn, thưởng thức
”. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi phát hiện ra những nét
chuyển biến trong tâm hồn người thiếu nữ Tây Bắc tưởng như đã mất hết niềm tin vào cuộc sống.
* Từ vô cảm đến đồng cảm:
- Ban đầu, khi nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn thản nhiên và lạnh lùng: “Mị
vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi
”. Thái
độ này không phải là Mị không có tình thương với A Phủ, mà vì những cảnh bắt người,
trói người và hành hạ, đánh đập người là một cảnh tượng quen thuộc diễn ra ở nhà Thống
lí Pá Tra. Vì quá quen thuộc nên nó không thể khơi gợi cảm xúc nơi con người. Nói như
nhà văn Nam Cao: “Một người đau chân, có lúc nào quên được cái chân đau của mình để
nghĩ đến một cái gì khác”. Liệu một nạn nhân của tấn bi kịch, chịu sự dày vò đến sống
không bằng chết như Mị còn có thể nghĩ đến người khác hay không? Nét tâm lí này tuy
tàn nhẫn nhưng nó vô cùng hợp lí, logic. Ngày qua ngay, Mị vẫn sưởi lửa, bầu bạn với
ngọn lửa, không thiết tha gì với thế giới xung quanh. Không chỉ vô cảm với người khác,
Mị còn vô cảm với chính bản thân mình, bởi nhiều lần A Sử đi chơi về, thấy Mị ngồi sưởi
lửa, hắn đã đánh Mị ngã ra cửa bếp. Nhưng Mị vẫn lặp lại, vẫn sưởi lửa như cũ. Mị vô
cảm, hành động như một cái mãy lập trình sẵn. Thật đáng thương làm sao cho một kiếp người:
“Cơn gió đông buốt lạnh lùng
Tứ bề gom lại một cõi không
Lặng nghe – Tôi nhé, nghe tôi khóc
Hiện hữu mà chi? Chỉ nghẹn lòng »

(Một cõi quên – Hàn Mặc Tử)
- Nhưng khi Mị lé mắt trông sang và thấy “một dòng nước mắt bò xuống hai hõm má
xạm đen lại
” của A Phủ thì Mị đã sống lại những xúc cảm của lòng thương người. Dòng
nước mắt của A Phủ trong đêm đông đã làm thức tỉnh cõi lòng Mị, đánh thức cả kí ức đau
khổ trong đêm tình mùa xuân:
+ Bởi đó là dòng nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ, bất
lực, tủi nhục, tuyệt vọng trước số phận. Dòng nước mắt ấy chảy trên gò má A Phủ nhưng
lại như chảy ngược vào trong tim Mị. Như một dòng nham thạch nóng bỏng, nó làm tan
chảy khối băng dày trong tim Mị. Rồi nó đánh thức tình thương người trong Mị.
+ Trông người, lại nhớ đến cảnh ngộ của mình, Mị chợt nhớ đến đêm năm trước A Sử
trói đứng Mị vào cột nhà, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ mà không lau đi được.
Nỗi đau ấy Mị hiểu vì Mị đã từng trải qua.
=> Thương cho A Phủ cũng là lúc Mị thương cho chính mình. Mị đang cảm nhận nỗi
đau của A Phủ bằng nỗi đau của chính mình. Như vậy, từ một người sống trong trạng thái
vô cảm, Mị đã có sự đồng cảm với những người đồng cảnh ngộ.
* Từ đồng cảm, Mị nhận thức rõ kẻ thù và sự độc ác của nhà thống lý Pá Tra:
- Ngẫm lại cảnh tượng mình bị trói đứng, nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói đứng, nhớ câu
chuyện về người đàn bà đời trước cũng bị trói đứng đến chết trong cái nhà này, Mị nhận
ra tội ác của cha con nhà Thống lí: “Trời ơi, nó bắt người ta trói đứng đến chết, nó bắt
mình chết cũng thôi”. “Chúng nó thật độc ác
”. Ấy là lúc Mị nhận thức đầy đủ về nguyên
nhân của cái khổ mà mình đang gánh chịu.
* Từ nhận thức sâu sắc về tội ác của kẻ thù, Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động:
-
Nhận thức sâu sắc về tội ác của kẻ thù, Mị đặt mình và A Phủ lên cùng một bàn cân số
phận: Cơ chừng này thì đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết! Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ
xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết
?” Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một
từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị. Với Mị cái chết là tất yếu, Mị đã cam chịu,
nhưng với A Phủ thì cái chết vô lý quá. Trong suy nghĩ của Mị phần sống đã nghiêng hẳn
về phía A Phủ. Đó là biểu hiện của tấm lòng nhân ái của Mị.
- Tình thương người ấy lớn hơn cả nỗi sợ:
Sau đó, Mị đã ngồi nghĩ lại đời mình đến
mức “đám than đã vạc hẳn lửa”. Đó là một cuộc đời dằng dặc những nỗi buồn đau. Mị
đã từng bị trói, bị đạp chân vào mặt, biết bao lần bị đánh ngã ra cửa bếp. Đời Mị như con
trâu, con ngựa. Đây là một cuộc sống không đáng sống, sống mà không bằng chết. Vậy
thì cần chết một cách có ý nghĩa hơn. Và thế là Mị tưởng tượng đến một lúc nào đó A
Phủ chạy trốn được, bố con Pá Tra sẽ bảo chính Mị là thủ phạm và trói Mị vào đấy, phải
chết trên cái cọc đấy. Nghĩ thế, nhưng trong tình cảnh này Mị cũng không thấy sợ. Mị sẵn
sàng chết thay để cho A Phủ được sống.
- Dũng khí ấy đã tiếp thêm động lực cho Mị, thúc đẩy cô có hành động cắt dây cởi
trói cho A Phủ:
Mị rón rén bước lại, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”. Mị lần
lần gỡ được hết dây trói và thì thào: “Đi ngay…”. Được sự giải thoát của Mị, A Phủ đã
quật sức vùng lên chạy. Theo nhịp điệu, tiết tấu câu văn, từng vòng dây của A Phủ được
gỡ bỏ trong không khí khẩn trương đến nghẹt thở. Hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ
là hành động bản năng, bột phát nhưng cũng là kết quả tất yếu phù hợp với tâm lý nhân
vật: Khi ý thức sống đã trở về, được tiếp thêm dũng khí, nó bùng lên bằng hành động mãnh liệt.
* Mị tự đấu tranh tư tưởng, tự giải thoát cho chính mình:
- A Phủ chạy vụt trong bóng tối để lại Mị phía sau. Đến lúc này Mị chỉ còn biết “đứng
lặng trong bóng tối
” vì cái chết từ A Phủ giờ đây đã chuyển sang Mị. Đối mặt với cái
chết MỊ lại sợ. Bởi trong tâm hồn mình, Mị vẫn là một cô gái yêu đời, khao khát được
sống mãnh liệt. Chỉ vì bị chà đạp, bị xúc phạm, bị đày đọa thể xác và tinh thần nên Mị
mới nghĩ đến cái chết mà thôi. Mị đã đứng trước hai sự lựa chọn:
+ Hoặc là ở lại để chết rũ xương, làm con ma trong nhà Thống lí. Hoặc là chạy theo A
Phủ để làm người tự do. Câu văn tách ra đứng riêng một mình thể hiện bao nhiêu đấu
tranh trong lòng Mị. Mị phải lựa chọn giữa đi hay ở, giữa sống hay chết, giữa tự do hay nô lệ?
+ Cuối cùng, khát vọng sống, khát vọng tự do đã tiếp thêm sức mạnh cho Mị để Mị chiến
thắng thần quyền và chủ động giành lấy quyền sống. Mị cũng chạy vụt theo A Phủ và
nói: “A Phủ cho tôi đi!... Ở đây thì chết mất”. Cô quyết định tự giải thoát cho mình. Một
loạt những động từ mạnh như “vụt chạy, băng đi, đuổi kịp, đã lăn, chạy xuống, nói, thở
đã diễn tả lòng ham sống cuộn trào. Sức phản kháng và nội lực mạnh mẽ ở Mị được dịp giải phóng.
+ Bước chân của Mị chạy trong bóng tối là bước chân đạp đổ cường quyền, thần quyền
của bọn lãnh chúa bao nhiêu năm qua. Và họ đã dìu nhau xuống núi và chạy sang Phiềng
Sa. Tại đây họ đã gặp được A Châu, một cán bộ cách mạng. Được A Châu giác ngộ, Mị
và A Phủ đã trở thành du kích và sau này trở về giải phóng đồng bào ở Hồng Ngài, bảo
vệ quê hương. Thật đúng là:
“Những bàn chân từ than bụi lầy bùn
Đã bước dưới ánh mặt trời cách mạng …………
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp”

(Ta đi tới – Tố Hữu)
c. Luận điểm 3: Chốt
=> Như vậy, không như chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố kết thúc với cái tiền đồ
tối đen như mực không lối thoát, cũng không như Chí Phèo của Nam Cao rút dao giết
chết kẻ thù rồi kết liễu cuộc đời mình trong bế tắc, Mị đã biến ý thức về quyền sống
thành hành động phản kháng, vùng lên chống lại cường quyền, giành lại hạnh phúc, tự do.
3. Đánh giá về nghệ thuật:
Mỗi tác phẩm văn học là một khám phá về nội dung và phát minh về hình thức” (Lê-ô- nốp).
- Có thể nói, trong các trang văn miêu tả đời sống tinh thần của Mị thì đây là một trong
những trang văn đặc sắc nhất. Tâm lí phức tạp, đầy biến động của Mị đã được Tô Hoài
khám phá, miêu tả hợp lí, hợp tình. Đây là trình độ phân tích tâm lí rất biện chứng của Tô Hoài.
-
Nhà văn đã đặt nhân vật vào những tình huống thử thách để nhân vật bộc lộ tính cách.
- Giọng kể linh hoạt, có lúc hòa vào dòng tâm tư của nhân vật để nói được các cung bậc cảm xúc.
- Ngôn ngữ chọn lọc, tự nhiên. Biệt tài miêu tả thiên nhiên, phong tục, tập quán của
người dân miền núi. Câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ. 4. Ý nâng cao:
4.1. Nhận xét về tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài
.
Qua đoạn trích trên, ta thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài:
- Trước tiên, đó là niềm cảm thông sâu sắc với số phận đau khổ, tủi nhục của người dân
lao động vùng cao Tây Bắc dưới ách thống trị của thực dân phong kiến miền núi.
- Nhà văn đã tố cáo tội ác của giai cấp thống trị đã chà đạp lên quyền sống của con người
- Bên cạnh đó, Tô Hoài còn phát hiện, khẳng định, ngợi ca sức sống tiềm tàng, vẻ đẹp
tâm hồn của người dân lao động miền núi: thương người, khao khát sống tự do…
- Chỉ ra con đường tươi sáng cho nhân vật: trốn thoát khỏi Hồng Ngài, sang Phiềng Sa và
theo cách mạng và được đổi đời. Nguyên nhân của sự chuyển biến này là do có sự soi
đường của ánh sáng cách mạng. Nhờ cách mạng mà cuộc đời của các nhân vật đi từ
thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”.
4.2. Nhận xét niềm tin vào con người của nhà văn Tô Hoài:
Qua nhân vật Mị ở đoạn văn trên, Tô Hoài đã cho bạn đọc thấy niềm tin của ông
về bản chất của con người:
- Vẻ đẹp tiềm tàng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như chỉ còn là lớp tro tàn
nguội lạnh của Mị là khát khao được sống, được yêu và sức phản kháng mãnh liệt. Từ
cuộc nổi loạn của Mị, Tô Hoài đã khẳng định một chân lí muôn đời: Ở đâu có áp bức, ở
đó có đấu tranh
, dù đó chỉ là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
+ Nếu trước năm 1945, các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn
Công Hoan chỉ thấy con người là nạn nhân của hoàn cảnh. Các nhân vật của họ dù ở
trong cảnh ngộ nào cũng đều có kết cục bi thảm: chị Dậu bị sưu thuế dồn đến đường
cùng; anh Pha bị lừa gạt, ức hiếp đến mất cả vợ con, bản thân tù tội; Chí Phèo bị xã hội
cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính, phải tìm đến cái chết.
+ Thì Tô Hoài, với cái nhìn của một nhà văn cách mạng đã đem ánh sáng cuộc đời
chiếu rọi vào những thân phận nô lệ và tìm hướng giải thoát cho Mị. Đây chính là nét
mới mẻ trong tinh thần nhân đạo của Tô Hoài so với các nhà văn hiện thực trước đó. Con
đường đến với ánh sáng của tự do xuất phát từ nhu cầu giải phóng chính mình. Và đó
chính là con đường đấu tranh tự phát đến tự giác, dưới sự soi đường của Đảng. Đó cũng
là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của nhà văn vào sức sống tiềm tàng con người.
+ Tô Hoài như muốn khẳng định: Bản năng sống trong con người luôn là bất diệt, nó
có thể tạm thời bị dập tắt nhưng không bao giờ lụi tàn. Mị đại diện cho hình ảnh người
lao động trong cuộc sống tăm tối nhưng đã vươn lên tìm ánh sáng tự do cho cuộc đời mình.
III. Kết luận:
Nhà văn chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp). “Nhà văn
tồn tại ở đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị
cùng đường, tuyệt lộ
” (Nguyễn Minh Châu). Qua diễn biến tâm trạng và hành động của
Mị trong đêm đông cứu A Phủ, Tô Hoài đã làm hiện lên sức sống tiềm tàng mãnh liệt của
người lao động bị áp bức, bóc lột, bị đày đọa đến đau đớn, ê chề. Sức sống tiềm tàng ấy
đã khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở
đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh. Đó là giá trị hiện thực và nhân văn ngời
sáng của tác phẩm. Và cũng là tấm lòng nhân đạo của nhà văn. ĐỀ 3:
Trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã miêu tả nhân vật Mị:
Đoạn trích 1: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở
trong cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng,
mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi

Đoạn trích 2:Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng,
bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi.
Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”
Cảm nhận của a/c về hình tượng nhân vật Mị trong 2 đoạn trích trên. Từ đó, nhận
xét về sức sống mãnh liệt của người dân lao động miền núi qua tấm lòng nhân đạo
của nhà văn Tô Hoài. DÀN Ý I. Mở bài: Gián tiếp - Tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về 2 đoạn văn II. Thân bài
1. Giới thiệu chung: Tác giả, tác phẩm
2. Cảm nhận nhân vật Mị:
a. Khái quát về nhân vật: - Xinh đẹp, tài năng
- Bị bắt làm dâu gạt nợ nhà thống lí
b. Đoạn trích 1: Sự xuất hiện đầy ám ảnh của Mị sau khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra
- Hoàn cảnh: Đoạn trích này khái quát về cuộc sống cực nhục của Mị trong những ngày
làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
- Nguyên nhân: Chấp nhận cuộc sống con dâu gạt nợ, Mị phải trải qua những đày đọa
cả thể xác lẫn tinh thần: + Mị bị bóc lột sức lao động vô cùng tàn nhẫn, bị đánh đập, hành hạ.
+ Mị bị giam hãm trong không gian chật hẹp và tù đọng, giữa căn buồng lúc nào cũng u
tối, cửa sổ là một lỗ vuông bằng bàn tay, trông ra ngoài chỉ thấy trăng trắng không biết là
sương hay là nắng. Mị bị mất hoàn toàn ý niệm về không gian và thời gian. Từ đó, cô cứ
lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. “Ở lâu
trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị nghĩ rằng, mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy
mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi

- Bình luận: + Đoạn trích cho thấy Mị đã hoàn toàn tuyệt vọng, buông xuôi sự sống, tê
liệt long ham sống, phó mặc cho cuộc đời định đoạt.
+ Đoạn trích cũng cho thấy khả năng quan sát tinh tế diễn biến tâm lí nhân vật. Tài năng
nhà văn thể hiện qua việc lựa chọn được những “góc quay đắt’ để đặc tả số hận cùng cực của nhân vật.
c. Đoạn trích 2: Sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân:
- Hoàn cảnh dẫn đến đoạn văn: Khái quát những tác động của ngoại cảnh (bức tranh
xuân, men rượu, tiếng sáo… khiến Mị nhớ về quá khứ)
- Bình luận: Đoạn văn thể hiện tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị qua hành động:
+ Mị thắp đèn như thắp cuộc đời tối tăm của mình
+ Mị thức tỉnh, nhận ra sức sống và sức trẻ của mình
+ Mị làm đẹp để chuẩn bị đi chơi
=> Sự trỗi dậy trong hành động của Mị chính là sức sống tiềm tàng đã ẩn chứa rất lâu trong Mị. 3. Nghệ thuật: - Kể chuyện - Miêu tả
- Các câu văn ngắn, nhịp điệu nhanh diễn tả sức sống tiềm tàng, mãnh liệt
- Phân tích tâm lí nhân vật
4. Nhận xét sức sống mãnh liệt của người lao động và tấm lòng nhân đạo:
- Từ một cô gái âm thầm, câm lặng, chai sạn về cảm xúc, tâm hồn, Mị đã có sự thay đổi,
hồi sinh trong đêm tình mùa xuân, để trở thành một cô gái có khát vọng sống, khao khát
tình yêu và hạnh phúc. Dù trong hoàn cảnh nào, Mị vẫn luôn hướng về sự sống, luôn
kháo khát sống, chờ cơ hội để bùng cháy. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của cô.
- Bản năng sống trong con người luôn là bất diệt, nó có thể tạm thời bị dập tắt nhưng
không bao giờ lụi tàn. Sự đổi thay của Mị từ cảm xúc tâm hồn, nhận thức, cho đến hàn
động đã cho ta thấy sức sống tiềm tàng trong nhân vật. Mị đại diện cho hình ảnh người
lao động trong cuộc sống tăm tối nhưng đã vươn lên tìm ánh sáng tự do cho cuộc đời mình.
- Qua 2 đoạn văn này thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn: + trân trọng, nâng niu vẻ
đẹp trong tâm hồn những con người lao động.
+ lên án, tố cáo bộn chúa đất phong kiến đã dùng cường quyền bạo lực và thần quyền hủ
tục để áp bức, bóc lột con ngươi
+ Thể hiện niềm tin mãnh liệt vào sức sống bền bỉ, cùng khả năng vươn dậy của họ. III. Kết bài ĐỀ 4:
T
rong “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã 2 lần miêu tả sức sống tiềm tàng trỗi dậy trong Mị:
Trong đêm tình mùa xuân: “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị
cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách.”
Và trong đêm đông cứu A Phủ: “Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây cởi trói
cho A Phủ… rồi Mị vụt chạy ra. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ,
đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc”.

Phân tích diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong 2 lần miêu tả trên. Từ đó làm nổi
bật sự khác biệt cơ bản trong 2 lần sức sống tiềm tàng trỗi dậy ấy
. DÀN Ý I. Mở bài: - Giới thiệu tg, tp
- 2 đoạn trích/ chi tiết II. Thân bài 1. Giới thiệu chung:
2. Cảm nhận về nhân vật Mị trong 2 đoạn trích/ chi tiết:
a. Khái quát về nhân vật
b. Đoạn trích/ chi tiết 1:
- Hoàn cảnh dẫn đến: Khung cảnh đất đất trời Hồng Ngài vào xuân, không khí ngày tết
đã phần nào tác động đến tâm hồn Mị. Đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sao gọi bạn tình
đã dần dần làm hồi sinh sức sống tiềm tàng của nhân vật.
- Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
+ Tiếng sáo ban đầu là tác nhân bên ngoài, nhưng giờ đây đã thâm nhập vào bên trong
tâm hồn Mị: “trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo với những giai điệu thiết tha
của bản tình ca Tây Bắc đôi lứa yêu nhau đã đánh thức mạnh mẽ những khát khao của
tuổi thanh xuân trong Mị. Mị nhớ lại quá khứ, mình đã từng là cô gái xinh đẹp, tài
năng… => Mị thấy trong lòng phơi phới trở lại => muốn đi chơi
+ Từ ý muốn đến hành động diễn ra nhanh chóng: Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy
hoa vắt ở phía trong vách.”
. Với những vế câu ngắn, nhịp nhanh, dồn dập, nhà văn đã
khắc họa nội tâm đầy rạo rực cùng sự trỗi dậy mạnh mẽ của khát vọng tình yêu, khát
vọng hạnh phúc đang diễn ra trong Mị.
+ Tuy nhiên, khát vọng đi chơi của Mị nhanh chóng bị dập tắt bởi A Sử.
c. Đoạn văn/ chi tiết thứ 2:
- Hoàn cảnh dẫn đến: + Mỗi đêm đông, Mị đều trở dậy thổi lửa hơ tay. Ban đầu khi nhìn
thấy A Phủ bị trói đứng, Mị vẫn thản nhiên, thờ ơ.
+ Nhưng khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy xuống hai hõm má đã sạm đen lại của A Phủ
thì Mị động lòng thương. Mị nhớ lại cảnh mình bị A Sử trói đứng trong đêm tình mùa
xuân năm trước. Mị nhận ra tội ác cha con nhà thống lí và thương xót cho A Phủ.
- Diễn biến tâm lí và hành động của Mị:
+ Từ việc thương mình rồi đến thương người cùng cảnh ngộ, Mị đã chiến thắng nỗi sợ
hãi về thần quyền hủ tục để chủ động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ, đồng thời cũng là
giải thoát cho chính mình: “Mị rút con dao nhỏ…”. Hành động được miêu tả ngắn gọn,
nhanh chóng và dứt khoát.
+ Khi đứng lại một mình, nỗi sợ hãi cái chết mới thực sự bủa vây và cũng là lúc lòng ham
sống bùng lên mạnh mẽ nhất. Mị đã chạy theo A Phủ, giải thoát cho chính cuộc đời mình.
Hành động được miêu tả mạnh mẽ, quyết liệt.
3. Nhận xét về sự khác biệt của 2 lần sức sống tiềm tàng trong Mị:
- Lần thứ nhất:
với hành động đi chơi xuân, bản thân Mị chỉ định giải thoát cho mình
trong chốc lát. Đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ của khát vọng tình yêu, hạnh phúc. Nhưng sự
trỗi dậy trong chốc lát đó không làm thay đổi được số phận của Mị.
- Lần thứ hai: Với hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ và chạy theo anh, Mị đã giải
thoát hoàn toàn cuộc đời của mình khỏi sự ràng buộc của cả thần quyền và cường quyền.
Đó là sự trỗi dậy một cách quyết liệt của khát vọng sống, khát vọng tự do, từ đó tạo nên
một bước ngoặt lớn lao cho cuộc đời Mị. Mị và A Phủ sống một cuộc đời mới ở Phiềng Sa.
- Đánh giá: Miêu tả diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân và
đêm đông cởi trói cho A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng, kì diệu
trong mỗi con người lao động nghèo khổ miền núi. Đồng thời thể hiện sự tin tưởng vào
khả năng đổi đời của họ. Qua đó cũng thể hiện tài năng miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật của tác giả. III. Kết bài