



















Preview text:
lOMoARcPSD| 59629529
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
KHOA LUẬT QUỐC TẾ LỚP QT47.2 BÀI TẬP NHÓM
TÌM HIỂU BẢN ÁN, PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI CISG
Vụ án Xiamen ITG Group Corp. Ltd. V. Peace Bird Trading Corp. Et al.
Bộ môn : Luật kinh doanh quốc tế
Giảng viên hướng dẫn : TS. Nguyễn Thị Hoa
Nhóm sinh viên thực hiện : Nhóm 2
Tp Hồ Chí Minh, năm 2024 lOMoARcPSD| 59629529
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 2 STT Họ và tên MSSV Nội dung Đánh giá 1 Trương Trúc Kỳ 2253801015145 Vấn đề 1 95% 2 Hán Dương Gia Linh 2253801015150 Vấn đề 3 95% 3
Võ Nguyễn Trúc Linh 2253801015157 Vấn đề 2 95% 4 Nguyễn Thanh Minh 2253801015174
Vấn đề 3, thuyết trình 100% 5
Hoàng Nguyễn Trà My 2253801015179
Vấn đề 1, thuyết trình 100% 6
Nguyễn Hà Tuyết My 2253801015180 Vấn đề 1 95% 7
Nguyễn Trương Ái My 2253801015182 Phân chia, chỉnh sửa, 100% (nhóm trưởng) tổng hợp nội dung và làm word, ppt 8
Bùi Hồng Thanh Ngân 2253801015185
Vấn đề 2, thuyết trình 100% 9
Phạm Ngọc Kim Ngân 2253801015195 Vấn đề 2 95% 10
Phạm Thị Thảo Nhi 2253801015227 Vấn đề 3 95% 11 Phạm Châu Kim Yến 2153801015295 Phân chia, chỉnh sửa, 100% (Lớp QT46B2) tổng hợp nội dung và làm word, ppt MỤC LỤC
TÓM TẮT BẢN ÁN ................................................................................................................. 1
PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHÍNH TRONG VỤ KIỆN ................................. 1
I. VẤN ĐỀ 1. TÍNH HỢP PHÁP CỦA HỢP ĐỒNG ............................................................ 1
1. Đặt vấn đề ........................................................................................................................... 1
2. Quan điểm của Tòa án ........................................................................................................ 3
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả .................................................................................... 4
4. So sánh với pháp luật Việt Nam ......................................................................................... 6
5. Quan điểm của nhóm tác giả .............................................................................................. 7
II. VẤN ĐỀ 2: VI PHẠM HỢP ĐỒNG .................................................................................. 8
1. Đặt vấn đề ........................................................................................................................... 8
2. Quan điểm của Tòa án ........................................................................................................ 9
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả .................................................................................. 10
4. So sánh với pháp luật Việt Nam ....................................................................................... 11
5. Quan điểm của nhóm tác giả ............................................................................................ 13
III. VẤN ĐỀ 3. CHUYỂN RỦI RO ...................................................................................... 13 lOMoARcPSD| 59629529
1. Đặt vấn đề ......................................................................................................................... 13
2. Quan điểm của Toà án ...................................................................................................... 14
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả .................................................................................. 15
4. So sánh với pháp luật Việt Nam ....................................................................................... 15
5. Quan điểm của nhóm tác giả ............................................................................................ 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT STT TỪ VIẾT TẮT NGUYÊN NGHĨA 1 BLDS Bộ luật Dân sự 2 LTM Luật Thương mại 3 CISG
Công ước của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế 4 ITG
Xiamen ITG Group Corporation Corp., Ltd 5 Peace Bird Peace Bird Trading Corp 6 LDP Landed Duty Paid 7 CIF Cost, Insurance and Freight 8 FOB Free on Board lOMoARcPSD| 59629529
BẢN ÁN XIAMEN ITG GROUP CORP., LTD. V. PEACE BIRD TRADING CORP. ET AL TÓM TẮT BẢN ÁN
Nguyên đơn: Xiamen ITG Group Corporation Corp., Ltd.
Bị đơn: Peace Bird Trading Corp và các đồng bị đơn Xing Lin và Crystal Vogue
Vấn đề tranh chấp: Không thanh toán số tiền nợ mua hàng dệt may
Tòa án Hoa Kỳ thụ lý và giải quyết đối với tranh chấp giữa Xiamen ITG Group
Corporation Corp., Ltd. v. Peace Bird Trading Corp về vấn đề không thanh toán số tiền
nợ mua hàng dệt may. Nguyên đơn cáo buộc bị đơn vi phạm hợp đồng do không thanh
toán khoản tiền đã thoả thuận khi mua hàng, các khoản chi phí mà nguyên đơn xác định
là tiền hàng, cùng với chi phí thuế nhập khẩu mà nguyên đơn đã ứng trước, lãi suất theo
nguyên đơn là các bên đã thỏa thuận. Mặc dù CISG không yêu cầu hợp đồng phải có
văn bản, nhưng ITG vẫn không cung cấp đủ bằng chứng cho thấy các bị đơn đã đồng ý
với các điều khoản của hợp đồng. Một số hợp đồng không có chữ ký của bị đơn hoặc
chứa nội dung không nhất quán, gây khó khăn cho việc xác minh sự đồng ý của các bên.
Song, đáp lại, bị đơn đưa ra năm yêu cầu phản tố, gồm vi phạm cam kết thiện chí, và
lừa dối khi ký hợp đồng. ITG yêu cầu phán quyết mặc định theo Quy tắc 55(b)(2) của
Luật Tố tụng Dân sự Liên bang, cùng với yêu cầu loại bỏ các yêu cầu phản tố của bị
đơn do không có người đại diện theo quy định của Quy tắc 41(b). Tòa án đã xem xét
và cho phép loại bỏ các yêu cầu phản tố của bị đơn vì không đáp ứng đủ điều kiện tiếp
tục vụ kiện khi thiếu đại diện pháp lý. Phía Tòa án nhận định, ITG cho rằng mình đã
tuân thủ đầy đủ nghĩa vụ theo hợp đồng, bao gồm giao hàng đúng hạn và thanh toán
thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, tòa án phát hiện nhiều điểm mâu thuẫn trong lời khai và
chứng cứ của ITG, ví dụ như việc giao hàng trễ hạn hoặc không đủ số lượng như quy
định. Ngoài ra, các bản hợp đồng và chứng từ không thể hiện rõ các chi tiết về chi phí
thuế và khoản lãi suất 4% như ITG cáo buộc. ITG cho rằng bị đơn đã đồng ý hoàn trả
chi phí thuế nhập khẩu kèm lãi suất 4%. Tuy nhiên, văn bản thỏa thuận LDP lại không
đề cập đến từ “lãi suất” hay thời gian áp dụng lãi suất. Thay vào đó, nó chỉ quy định
mức phí cố định 4%, tạo ra sự mâu thuẫn với cáo buộc của ITG về mức lãi suất này. Tòa
án đưa ra phán quyết do các mâu thuẫn trong tài liệu và chứng cứ của nguyên đơn, tòa
án không thể khẳng định bị đơn vi phạm hợp đồng như cáo buộc của ITG, nên đã từ
chối yêu cầu phán quyết mặc định của ITG. Tòa án chấp thuận yêu cầu của ITG về việc
loại bỏ các yêu cầu phản tố của bị đơn do không có đại diện pháp lý, vì các công ty
không thể tự đại diện trong các vụ kiện liên bang theo quy định pháp luật.
PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHÍNH TRONG VỤ KIỆN
I. VẤN ĐỀ 1. TÍNH HỢP PHÁP CỦA HỢP ĐỒNG
1. Đặt vấn đề
Về chủ thể:
Xiamen ITG Group Corporation, Limited với tư cách là nguyên đơn giữ vai trò là
bên bán, là một tập đoàn Trung Quốc, và cả ba bị đơn Peace Bird Trading Corp, Xing lOMoAR cPSD| 59629529
Lin và Crystal Vogue, với tư cách là người mua, đều là các tập đoàn của Mỹ. Như vậy,
theo điểm a khoản 1 Điều 1 CISG “Công ước này áp dụng đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa khi các quốc gia là thành viên của Công ước này”. Theo quy định của Công
ước, phạm vi mà Công ước điều chỉnh là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tức có
nghĩa trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện, bình đẳng giao kết hợp đồng được xác lập, thêm
vào đó hàng hóa quốc tế phải có đặc tính sự dịch chuyển từ quốc gia này sang quốc gia
khác. Hàng hóa được xác định là hàng hóa hữu hình và động sản, đồng thời hàng hóa
phải không thuộc đối tượng bị cấm trao đổi, mua bán. Trong tranh chấp trên, về phía
Mỹ là quốc gia phê chuẩn CISG vào ngày 11 tháng 12 năm 1986 và CISG chính thức
có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm 1988. Còn Trung Quốc phê chuẩn Công ước vào
ngày 11 tháng 12 năm 1986 và CISG chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 01 năm
1988, do đó có thể hiểu cả Trung Quốc và Hoa Kỳ đều là thành viên của công ước nên
công ước sẽ mặc nhiên được áp dụng khi các bên phát sinh tranh chấp (trừ trường hợp
các bên có thỏa thuận khác).
Về hình thức hợp đồng:
Theo Điều 11 CISG quy định về hình thức hợp đồng như sau: “Hợp đồng mua bán
không bắt buộc phải được giao kết hoặc chứng minh bằng văn bản cũng như không bắt
buộc phải tuân thủ quy định nào về hình thức. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng
mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng”. Với quy định này, chúng ta có thể
thấy CISG đã mở rộng quyền tự do trong việc giao kết hợp đồng của các bên vì vậy, xét
về hình thức hợp đồng, nếu các bên thỏa thuận hợp đồng được xác lập bằng cách thức
khác không bằng văn bản thì vẫn được chấp nhận kể cả có thể chứng minh bằng những
lời khai của nhân chứng.
Theo như những hợp đồng trước đó mà các bên giao kết, hợp đồng mua bán phải
được cả hai bên “ký” bằng cách đóng dấu của công ty vào tài liệu. Nhưng có một số
trường hợp không có con dấu bên phía bị đơn. Theo khoản 1 Điều 18 CISG: “Tuyên bố
hoặc hành vi khác của bên được chào hàng thể hiện sự chấp nhận đối với chào hàng
được xem là chấp nhận chào hàng đó. Bản thân sự im lặng hoặc không hành động không
cấu thành sự chấp nhận”. Như vậy, dựa theo quy định của CISG thì việc không “ký”
một số hợp đồng của bị đơn được xem là bị đơn không chấp nhận giao kết hợp đồng với
nguyên đơn, nhưng theo khoản 2 Điều 393 BLDS 2015, sự im lặng cũng được xem là
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu đó là thói quen đã được xác lập giữa các bên.
Do đó, nếu trong trường hợp các bên ngầm cho rằng việc im lặng đối với đề nghị giao
kết là sự chấp nhận thì trường hợp này việc bị đơn không ký kết giao kết nhưng không
phản đối đối với hành vi giao hàng của nguyên đơn thì xem như bị đơn đã chấp nhận
giao kết hợp đồng, không quan tâm bị đơn có ký kết hợp đồng hay không.
Về sự tự nguyện của hai bên:
Hầu hết các quy định pháp luật trong lĩnh vực dân sự, thương mại đều đề cao tính tự
nguyện khi giao kết hợp đồng. Vì khi tham gia vào giao dịch sự tự nguyện về nghĩa vụ
sẽ giúp tối thiểu hóa thiệt hại, trên cơ sở nền tảng là sự tự nguyện các bên phải hợp tác
và trao đổi các thông tin hữu ích với nhau để thực hiện nghĩa vụ riêng của mỗi bên.
Chính vì những lý do này mà dần dần sự tự nguyện trở thành nguyên tắc cơ bản trong
giao kết hợp đồng. Từ vụ án trên có thể thấy, giữa nguyên đơn và bị đơn đã thực hiện lOMoARcPSD| 59629529
giao kết hợp đồng từ năm 2016-2017 và các bên có thỏa thuận về việc vận chuyển hàng hóa.
Về nội dung hợp đồng:
Một trong những vướng mắc thường gặp phải đối với hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế là việc giải thích và dịch thuật các điều khoản trong hợp đồng. Như chúng ta đã
biết, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc ký kết giữa hai chủ thể có quốc tịch
khác nhau nên ngôn ngữ sử dụng vô cùng đa dạng do đó cần đặt ra quy định về việc giải
thích pháp luật để giải quyết vấn đề này. Theo khoản 1 Điều 8 CISG “Nhằm phục vụ
Công ước này, tuyên bố và cách xử sự khác của một bên được giải thích theo đúng ý
định của họ nếu bên kia đã biết hoặc không thể không biết ý định ấy”, như vậy điều
khoản hợp đồng sẽ được giải thích theo đúng ý định của họ nếu bên kia cũng có cách
hiểu tương tự. Giả sử bên ký kết kia không có cách hiểu tương tự thì điều khoản sẽ được
giải thích theo cách hiểu phổ biến nhất với bên ký kết kia nhưng cũng cần lưu ý đối với
trường hợp này phải xem xét đến hoàn cảnh liên quan như trong quá trình đàm phán,
thói quen do các bên xác lập, tập quán và hành vi sau đó của các bên căn cứ khoản 2, 3
Điều 8 CISG. Trong bản án trên, đã có sự mâu thuẫn trong việc giải thích điều khoản
hợp đồng, nguyên đơn cho rằng 4% là lãi suất, bị đơn cho rằng 4% là chi phí tặng thêm
khi thông quan. Nguyên đơn cáo buộc rằng các bên đã đồng ý bằng văn bản về lãi suất
4% được cung cấp cho “theo Thỏa thuận LDP của họ”. Tuy nhiên, trong hợp đồng không
hề nhắc đến thuật ngữ lãi suất, bản dịch nêu rõ rằng bị đơn đã đồng ý trả “thêm 4% cho ...
chi phí LDP” và “thêm 4% phí thông quan như một phần thưởng”, các điều khoản dường
như đều quy định mức cố định 4%.
Về đối tượng hàng hóa:
Theo Điều 2 CISG, Công ước này sẽ điều chỉnh đối với tất cả các hàng hóa quốc tế
trừ các hàng hóa được liệt kê tại Điều 2 Công ước này. Do đó, hàng hóa trong hợp đồng
trên là vải và hàng dệt không thuộc trường hợp tại Điều 2 CISG nên Công ước được áp
dụng để giải quyết tranh chấp. Tóm lại, hàng hóa theo cách hiểu của CISG là động sản và vật thể hữu hình.
2. Quan điểm của Tòa án
Thứ nhất, về chủ thể, theo Tòa án nhận định, nguyên đơn, bên bán, là một tập đoàn
Trung Quốc, và cả ba bị đơn, với tư cách là người mua, đều là các tập đoàn của Mỹ. Cả
Trung Quốc và Hoa Kỳ đều là các bên ký kết CISG. Hơn nữa, không có tài liệu liên
quan nào được trao đổi giữa các bên trong các giao dịch liên quan có bất kỳ điều khoản
nào đề cập đến việc lựa chọn pháp luật. Do đó, CISG về hợp đồng mua bán hàng hóa được áp dụng.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng, Tòa án cho rằng, theo CISG, điều này không
nhất thiết loại trừ sự tồn tại của một hợp đồng hợp lệ và có thể thi hành, vì CISG không
có quy định bắt buộc hợp đồng phải được lập thành văn bản hoặc quy tắc về bằng chứng
ngoài hợp đồng. Thực tế, Điều 11 của CISG quy định rằng “một hợp đồng không cần
phải được ký kết hoặc thể hiện bằng văn bản và không phải tuân theo bất kỳ yêu cầu
nào về hình thức. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng bất kỳ phương tiện nào, bao
gồm cả lời khai của nhân chứng” (Điều 11 CISG). Nguyên đơn kháng cáo rằng các bên
đã ký kết một hợp đồng bằng lời nói. Thay vào đó, cho mỗi khoản mục, nguyên đơn lOMoARcPSD| 59629529
khẳng định rằng các bên đã “ký kết một Hợp đồng mua bán bằng văn bản.” Khẳng định
của nguyên đơn rằng các bị đơn đã tham gia vào một quan hệ hợp đồng chỉ là một kết
luận pháp lý, thay vì một cáo buộc thực tế rằng các bị đơn đã đồng ý với thỏa thuận bằng
cách chấp thuận mua các sản phẩm cụ thể, hoặc mô tả hoàn cảnh hoặc phương thức mà
họ có thể đã đồng ý (ví dụ: qua điện thoại, email, v.v.), và do đó, không được xem là cơ
sở hợp lệ trong một đơn yêu cầu phán quyết vắng mặt. Hơn nữa, cả điều này lẫn các
Hợp đồng mua bán chưa ký đều không thể chứng minh rằng các bị đơn đã đồng ý với
các điều khoản (dù với tư cách là bên đề nghị hay bên chấp nhận), và do đó không tạo
thành một hợp đồng hợp lệ và có thể thi hành.
Thứ ba, về nội dung hợp đồng, theo Thỏa thuận LDP, các bên đã đồng ý rằng nguyên
đơn sẽ được hoàn trả “toàn bộ số tiền phí hải quan, thuế và các khoản thuế đã tạm ứng
trước, cùng với lãi suất ở mức 4% kể từ ngày mỗi khoản thanh toán như vậy được nguyên
đơn tạm ứng” và đã đồng ý rằng “các khoản phí, thuế và thuế này... sẽ được bao gồm
trong giá bán của các mặt hàng đã bán.” Tuy nhiên, thỏa thuận LDP mà nguyên đơn đệ
trình để hỗ trợ cho yêu cầu phán quyết vắng mặt lại được viết bằng cả tiếng Anh và tiếng
Trung, và cả phần tiếng Anh lẫn phần tiếng Trung đều không có các điều khoản này.
Thay vào đó, điều khoản liên quan bằng tiếng Anh trong thỏa thuận chỉ nêu rằng bị đơn
“đồng ý trả thêm 4% cho chi phí mà XIAMEN ITG GROUP CO., LTD đã chuẩn bị
trước cho chúng tôi đối với chi phí LDP,” và phần tiếng Trung liên quan nêu rằng bị
đơn “đồng ý trả ITG thêm 4% chi phí hải quan như là một phần thưởng cho ITG tạm
ứng trước chi phí LDP cho bị đơn”. Không điều khoản nào đề cập đến từ “lãi suất”,
không đưa ra thời điểm bắt đầu tính lãi suất hoặc cách tính lãi suất, và cũng không nêu
rằng các khoản phí sẽ được bao gồm trong giá bán của các mặt hàng. Thực tế, thỏa thuận
này dường như quy định một khoản 4% cố định, không phải là lãi suất tích lũy. Trong
khi bằng chứng bên ngoài, bao gồm các cuộc trò chuyện bằng lời trong quá trình đàm
phán, có thể được xem xét để xác định ý định thỏa thuận theo CISG, ngay cả khi bằng
chứng ngoài hợp đồng này mâu thuẫn với tài liệu bằng văn bản, thì nguyên đơn vẫn
không giải quyết sự mâu thuẫn này và dường như cho rằng các bên đã đồng ý bằng văn
bản, không phải qua thảo luận bằng lời, về lãi suất 4%. Cụ thể, nguyên đơn khẳng định
rằng lãi suất 4% được quy định “theo Thỏa thuận LDP của họ.” Tuy nhiên, thỏa thuận
này không có quy định về vấn đề này và nguyên đơn chưa đưa ra lập luận nào để giải
thích các bằng chứng mình đưa ra (cụ thể là các điều khoản trong Thỏa thuận LDP mà
nguyên đơn đệ trình) phù hợp với các yêu cầu trong đơn khởi kiện.
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả khác
Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại quốc tế, các vấn đề pháp lý liên quan đến việc
chứng minh hợp đồng, cam kết thiện chí trong quá trình đàm phán và thực hiện hợp
đồng, cũng như yêu cầu đại diện pháp lý, luôn là những yếu tố quan trọng giúp duy trì
sự công bằng, minh bạch và ổn định trong các giao dịch xuyên quốc gia. Các học giả đã
dành sự chú ý đặc biệt đối với những nguyên tắc này, bởi chúng không chỉ ảnh hưởng
đến từng vụ tranh chấp cụ thể mà còn quyết định sự phát triển bền vững của thương mại quốc tế. lOMoAR cPSD| 59629529
Một trong những vấn đề pháp lý nổi bật trong hợp đồng thương mại quốc tế là yêu
cầu chứng minh sự tồn tại và các điều khoản của hợp đồng, đặc biệt khi hợp đồng không
yêu cầu văn bản chính thức. Theo CISG, hợp đồng có thể được hình thành mà không
cần có văn bản hay chữ ký, miễn là có sự đồng ý của các bên đối với các điều khoản cơ
bản. Mặc dù CISG cho phép điều này nhưng nhiều học giả cho rằng, chính việc thiếu
yêu cầu về văn bản lại tiềm ẩn nhiều rủi ro pháp lý. Việc thiếu chứng cứ bằng văn bản
có thể khiến một trong hai bên không thể chứng minh được các điều khoản đã thỏa thuận,
đặc biệt là khi có tranh chấp phát sinh. Điều này có thể dẫn đến sự khó khăn trong việc
khẳng định các yêu cầu của bên nguyên đơn và sự bảo vệ quyền lợi của bên bị đơn. Như
vậy, học giả cho rằng việc tạo lập các chứng từ rõ ràng trong quá trình đàm phán và thực
hiện hợp đồng là điều vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên, đồng
thời duy trì tính ổn định của hệ thống thương mại quốc tế.
Vấn đề pháp lý thứ hai không kém phần quan trọng giúp duy trì lòng tin giữa các
đối tác và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên đó chính là cam kết thiện chí. Học giả
Bonell khẳng định rằng: “cam kết thiện chí không chỉ là yêu cầu đạo đức mà còn là một
phần của nghĩa vụ pháp lý trong quan hệ hợp đồng”. Việc không tôn trọng nguyên tắc
này có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, không chỉ đối với các bên trong hợp
đồng mà còn làm suy yếu tính ổn định của các giao dịch thương mại quốc tế. Các học
giả đã chỉ ra rằng, trong nhiều trường hợp, khi một bên vi phạm cam kết thiện chí, tòa
án có thể ra quyết định hủy bỏ hợp đồng hoặc giảm bớt nghĩa vụ của bên vi phạm, nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng của bên còn lại.
Richard Brady - Tổng giám đốc trung tâm pháp lý Anh đã nói về hình thức của hợp
đồng trong một buổi giáo dục trực tuyến như sau: “Quyền hợp đồng là một thỏa thuận
được hai bên tự nguyện ký kết với mục đích tạo ra hợp đồng nghĩa vụ pháp lý có thể
theo luật thông thường bằng văn bản hoặc bằng miệng hoặc cả hai bên bằng miệng và
một phần văn bản, hợp đồng cũng có thể hoàn toàn được hình thành từ hành vi của mọi
người khi xem xét hành vi của bạn nếu bạn cư xử như việc bạn đã tham gia vào một hợp
đồng” theo như ý kiến trên của ông thì ông Richard Brady cũng đồng tình với quan
điểm về hình thức hợp đồng theo CISG về việc hợp đồng không nhất thiết phải thành
lập thành văn bản mà nó còn được thực hiện bằng lời nói của hai bên, hoặc vừa bằng lời nói vừa bằng văn bản.
Bên cạnh vấn đề về hình thức hợp đồng thì một bài viết của Tạp chí Duke (một bài
nghiên cứu của nhóm học giả tại trường Columbia Law School, Duke University School
of Law, New York University School of Law đã nhận được học bổng) “Vấn đề lỗ đen
trong văn bản mẫu thương mại” cho rằng yêu cầu giải thích một hợp đồng thương mại
là làm thế nào để các bên có thể xác định điều khoản đó có nghĩa là gì khi họ kí kết hợp
đồng là một câu hỏi mà tòa án luôn phải đối mặt và một nguyên tắc chuẩn mà tòa án
được hướng dẫn sử dụng để xác định ý nghĩa của một điều khoản trong hợp đồng là hai
bên đều thể hiện sự đồng ý là tìm kiếm ý định chung của các bên ký hợp đồng, một bên
được xem là đối tác hợp đồng có thể tin rằng điều khoản đó có nghĩa khi ký kết hợp
đồng, bên cạnh đó tòa án còn sử dụng phương pháp giải thích theo ngữ cảnh.1 Chính vì
1 Choi, S. J., Gulati, M., & Scott, R. E. (2017). The black hole problem in commercial boilerplate. Duke LJ, 67,1. lOMoARcPSD| 59629529
thế, để giải quyết vấn đề điều khoản trong hợp đồng gây hiểu lầm đối với các bên trong
quan hệ hợp đồng vẫn đang được xem là một “lỗ đen” tòa án phải dựa vào nhiều cách
để xác minh nghĩa của điều khoản đó một cách khách quan nhất.
4. So sánh với pháp luật Việt Nam
Một là, về hình thức
Theo pháp luật Việt Nam, tại Điều 24 Luật Thương mại năm 2005 quy định hình
thức hợp đồng mua bán hàng hóa phải được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
được xác lập bằng hành vi cụ thể. Cụ thể đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
được quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Thương mại mua bán hàng hóa quốc tế phải
được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị
pháp lý tương đương. Khác với quy định tại Điều 11 CISG quy định hình thức của hợp
đồng mua bán hàng hóa không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay
tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng có thể chứng minh
bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng. Điều này cho thấy rằng CISG đã
công nhận nguyên tắc tự do về hình thức của hợp đồng. Sự khác biệt về hình thức trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa pháp luật Việt Nam với CISG. Do đó khi tham
gia Công ước, Việt Nam đã thực hiện bảo lưu điều khoản về hình thức của hợp đồng
theo quy định tại Điều 13 và Điều 96 CISG. Vì vậy, khi thương nhân Việt Nam giao kết
mua bán hàng hóa quốc tế vẫn phải thực hiện theo hình thức hợp đồng của Luật Thương
mại Việt Nam thể hiện sự minh bạch, rõ ràng tránh những rủi ro và tranh chấp phát sinh.
Giả sử khi áp dụng pháp luật Việt Nam vào vụ kiện trên thì các bên nguyên đơn và bị
đơn đã lập hợp đồng mua bán hàng hóa được xem là một hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế hợp lệ về mặt hình thức theo Luật Thương Mại Việt Nam.
Hai là, về nội dung
Trong vụ kiện trên, một vấn đề buộc tòa án phải xác nhận tính hợp lệ, khả năng thực
thi và áp dụng của thỏa thuận LDP. Đây là một văn bản thỏa thuận riêng không phải là
hợp đồng mua bán hàng hóa nhưng nguyên đơn cũng không đưa ra rằng vi phạm hợp
đồng do vi phạm thỏa thuận LDP. Tuy nhiên lại có sự mâu thuẫn trong việc hiểu và thực
hiện thỏa thuận cụ thể là con số “4%” là lãi suất hay là chi phí tặng thêm. Theo khoản 2
Điều 8 của CISG thì phải được giải thích theo nghĩa mà một người có lý trí, nếu người
đó được đặt về phía bên kia theo hoàn cảnh tương tự sẽ hiểu thế nào. Theo quy định của
tại Điều 404 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015 (BLDS 2015) về giải thích hợp đồng thì
phải căn cứ vào nhiều yếu tố để giải thích ngôn từ không rõ ràng của hợp đồng như ý
chí của các bên xác lập trong toàn bộ quá trình, tại thời điểm xác lập thực hiện; hoặc khi
ngôn từ có thể hiểu được theo nhiều nghĩa thì phải hiểu theo nghĩa phù hợp nhất với
mục đích, tính chất của hợp đồng; giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp
đồng; ý chí chung của các bên,… khác với CISG khi chỉ sử dụng yếu tố một người có
lý trí được đặt vào trong hoàn cảnh tương tự thì pháp luật Việt Nam đã đưa ra rất nhiều
cách để giải thích hợp đồng. lOMoARcPSD| 59629529
5. Quan điểm của nhóm tác giả
Thứ nhất, về tính hợp lệ của hợp đồng
Theo nhóm cho rằng Công ước CISG (Công ước Liên Hợp Quốc về Hợp đồng Mua
bán Hàng hóa Quốc tế) có thể áp dụng cho các hợp đồng mua bán trong vụ án này vì
các bên đến từ các quốc gia thành viên của CISG. Mặc dù CISG không yêu cầu hợp
đồng phải có văn bản hoặc chữ ký để được coi là hợp lệ, nhóm tác giả nhận thấy một
điểm yếu ở ITG, đó là việc thiếu bằng chứng cụ thể về sự đồng ý của các bị đơn đối với
các điều khoản hợp đồng. Xét rằng, mặc dù CISG linh hoạt trong yêu cầu về hình thức
hợp đồng, vẫn cần các chứng cứ đủ mạnh để xác nhận rằng các bên đã thực sự đạt được
thỏa thuận. Thiếu chữ ký hoặc các tài liệu xác nhận rõ ràng từ phía bị đơn khiến cho
việc khẳng định hợp đồng đã hình thành trở nên khó khăn. Đây là cơ sở quan trọng cho
phán quyết cuối cùng của tòa án về tính hợp pháp của yêu cầu bồi thường của ITG.
Thứ hai, tính mâu thuẫn về nội dung thỏa thuận LDP và lãi suất 4%
Một điểm quan trọng mà nhóm tập trung vào là ITG yêu cầu bị đơn thanh toán thêm
khoản lãi suất 4% trên số tiền ứng trước cho các khoản thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, nhóm
nhận thấy trong văn bản thỏa thuận LDP mà ITG cung cấp, không có điều khoản nào
liên quan đến “lãi suất” hoặc khung thời gian để tính khoản lãi này. Thay vào đó, văn
bản chỉ nói đến mức phí cố định 4%, gây ra sự không thống nhất giữa yêu cầu của ITG
và thỏa thuận thực tế. Quan điểm này nhấn mạnh rằng ITG đã không chứng minh được
cơ sở pháp lý của yêu cầu lãi suất vì nội dung thỏa thuận LDP không đề cập đến khoản
lãi. Điều này khiến Tòa án không thể công nhận yêu cầu này của ITG, cho thấy sự mâu
thuẫn giữa yêu cầu và chứng cứ mà ITG cung cấp. Theo nhóm, để CISG có thể áp dụng
thành công và bảo vệ lợi ích của bên bán, các điều khoản phải rõ ràng và không gây
tranh cãi, nhất là về tài chính.
Thứ ba, về vấn đề thực hiện hợp đồng và việc giao hàng đúng hạn, đúng số lượng
Nhóm đánh giá cao tầm quan trọng của việc bên bán phải thực hiện hợp đồng đúng
theo thỏa thuận, bao gồm cả thời gian và số lượng hàng. Trong vụ án này, cần lưu ý rằng
ITG đã không hoàn thành nghĩa vụ của mình trong nhiều giao dịch, với các lô hàng giao
trễ hạn và không đủ số lượng so với hợp đồng. Nhóm nhận thấy việc giao hàng chậm
trễ hoặc không đúng số lượng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính hợp pháp của yêu
cầu bồi thường của ITG. Theo CISG, việc giao hàng đúng hạn là một nghĩa vụ quan
trọng, và nếu vi phạm, bên bán có thể mất quyền yêu cầu bồi thường. Phán quyết này
của Tòa án cho thấy rằng các vi phạm của ITG là yếu tố quan trọng trong việc bác bỏ
phán quyết mặc định, nhấn mạnh quan điểm của nhóm tác giả rằng việc tuân thủ chính
xác là điều kiện tiên quyết cho một hợp đồng hợp lệ.
Tóm lại, về quan điểm tổng thể, có thể rút ra kết luận rằng các mâu thuẫn trong bằng
chứng của ITG, từ tính hợp lệ của hợp đồng đến việc không có điều khoản lãi suất rõ
ràng và vi phạm về thời gian giao hàng, đều làm suy yếu tính hợp pháp của yêu cầu bồi
thường của nguyên đơn. Đây là một quan điểm then chốt, cho thấy rằng để đảm bảo một
hợp đồng có hiệu lực, cần các bằng chứng đầy đủ và rõ ràng về sự đồng thuận của các
bên, cũng như việc tuân thủ chính xác các điều khoản. CISG là công cụ hữu hiệu để bảo
vệ các quyền này trong giao dịch quốc tế, nhưng các bên cũng phải thực hiện tốt trách lOMoARcPSD| 59629529
nhiệm của mình. Nhóm nhận thấy chính những thiếu sót của ITG đã dẫn đến quyết định
bác bỏ yêu cầu của họ, đồng thời thể hiện một thông điệp quan trọng về yêu cầu chặt
chẽ trong các giao dịch quốc tế.
II. VẤN ĐỀ 2: VI PHẠM HỢP ĐỒNG 1. Đặt vấn đề
Thứ nhất, về trách nhiệm thực hiện hợp đồng
Đối với bên bán, theo Điều 30 CISG: “Bên bán có nghĩa vụ giao hàng bàn giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua theo
yêu cầu của hợp đồng và Công ước này”. Như vậy, khi chuyển giao hàng hóa cho bên
mua thì lúc này quyền sở hữu đối với hàng hóa trên sẽ được chuyển từ người bán sang
người mua tức là rủi ro về hàng hóa cũng đồng thời được chuyển từ bên bán sang bên
mua (trừ trường hợp có thỏa thuận khác). Bên bán có nghĩa vụ chuyển các chứng từ liên
quan đến hàng hóa cho bên mua để bên mua kiểm tra và xác minh, quản lý số hàng hóa đó.
Đối với bên mua, Điều 53 CISG quy định: “Bên mua phải thanh toán tiền hàng và
nhận hàng theo quy định trong hợp đồng và các quy định trong Công ước này”. Do đó,
bên mua có trách nhiệm thanh toán tiền hàng và nhận hàng, thời điểm thanh toán và
nhận hàng sẽ do các bên cùng nhau thỏa thuận.
Thứ hai, căn cứ vi phạm về việc hoàn trả chi phí thuế nhập khẩu
Trong Bản án tranh chấp trên, các bên có sự thay đổi điều khoản giao hàng từ CIF
sang LDP, trong hợp đồng ban đầu, hàng hóa được quy định giao theo điều khoản CIF.
Theo điều khoản CIF, trách nhiệm của Xiamen ITG sẽ kết thúc khi hàng được giao lên
tàu tại cảng đi, và họ chịu trách nhiệm về chi phí vận chuyển và bảo hiểm đến cảng đích.
Tuy nhiên, việc thay đổi từ CIF sang LDP nghĩa là nguyên đơn chịu thêm trách nhiệm
về thuế, thông quan và giao hàng tận nơi cho bị đơn. Và chi phí thuế nhập khẩu sẽ tính
vào giá trị tiền hàng. Căn cứ theo Điều 54 CISG “Nghĩa vụ thanh toán tiền hàng của
người mua bao gồm việc áp dụng các biện pháp tuân thủ các thủ tục mà hợp đồng hoặc
luật lệ đòi hỏi để có thể thực hiện được thanh toán tiền hàng”. Chi phí thuế nhập khẩu
là một khoản nghĩa vụ bắt buộc đối với hàng hóa nhập khẩu, tuy nhiên các bên có quyền
lựa chọn hình thức thanh toán khoản này. Giả sử các bên lựa chọn CIF thì nghĩa vụ trả
thuế nhập khẩu sẽ thuộc về bên mua, nhưng đối với LDP chi phí thuế nhập khẩu sẽ do
bên bán thanh toán. Như đã thỏa thuận thì bên bán trả phí nhập khẩu thì bên mua sẽ
hoàn trả lại chi phí này cho bên bán bằng cách tính vào giá trị tiền hàng, quy định này
gắn nghĩa vụ cho bên mua là bị đơn. Thứ ba, chế tài đối với hành vi chậm thanh toán tiền hàng
Trong vụ việc giữa Xiamen ITG Group Corporation Corp., Ltd. v. Peace Bird
Trading Corp., nguyên đơn cáo buộc bị đơn có hành vi chậm thanh toán tiền hàng của
Peace Bird Trading Corp nên được xem là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán
vì theo điểm a khoản 1 Điều 61 và Điều 54 CISG do bên mua không thực hiện nghĩa vụ
của mình nên bên bán có quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền mua hàng, nhận hàng
hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác theo Điều 62 CISG. Vì vậy, việc nguyên đơn khởi
kiện yêu cầu bị đơn thanh toán tiền hàng và các chi phí nhập khẩu sẽ được tòa án xem
xét giải quyết vì quyền lợi của nguyên đơn có dấu hiệu bị xâm phạm. lOMoARcPSD| 59629529
2. Quan điểm của Tòa án2
Về trách nhiệm thực hiện hợp đồng, Tòa án cho rằng có mâu thuẫn khi nguyên đơn
đưa ra cáo buộc cũng như các tài liệu liên quan. Đối với mười một yêu cầu, các cáo buộc
của nguyên đơn cho thấy các mặt hàng đã được giao muộn. Thật vậy, trong một số
trường hợp, các mặt hàng đã được giao muộn vài tháng so với thời hạn đã thỏa thuận
trong hợp đồng. Ví dụ, các lô hàng trong một số hợp đồng có điều khoản về số lượng,
nhưng cho phép có sự sai lệch lên xuống từ 3%, 5% hoặc 10%. Tuy nhiên, đối với những
hợp đồng không có điều khoản cho phép sai lệch, các lô hàng hầu như không bao giờ
phù hợp với trọng lượng chính xác đã đặt, có lẽ vì điều này rất khó để đạt được. Do đó,
một cách hiểu hợp lý theo CISG có thể miễn trừ các vi phạm nhỏ, kỹ thuật về trọng
lượng. Xem CISG, Điều 9(1) “Các bên phải tuân thủ bất kỳ thỏa thuận nào về tập quán
mà họ đã đồng ý và bất kỳ thực tế nào mà họ đã thiết lập giữa họ với nhau.” Thực tế,
một cuộc kiểm tra hồ sơ cho thấy, khi các bên có quy định cho phép sai lệch, họ thường
xuyên đồng ý với mức sai lệch cho phép là 5%. Tuy nhiên, ngay cả đối với những hợp
đồng có vẻ không cho phép sai lệch, đối với ít nhất năm hợp đồng trong số này, nguyên
đơn đã gửi số lượng sai lệch 5% hoặc hơn. Vì vậy, đối với mười lăm yêu cầu, nguyên
đơn rõ ràng đã vi phạm khi gửi số lượng không đúng, và do đó các tài liệu liên quan đến
đơn kiện đã mâu thuẫn với cáo buộc kết luận của nguyên đơn rằng nguyên đơn luôn
luôn thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Về việc hoàn trả chi phí thuế nhập khẩu, các bản khai mà nguyên đơn nộp để hỗ trợ
đơn xin này cho thấy rằng bị đơn, chứ không phải nguyên đơn, đã thực hiện các bước
cần thiết để tìm một công ty vận chuyển có thể xử lý thanh toán LDP. Trong khi đó,
nguyên đơn đã bắt đầu gửi hàng trước khi công ty vận chuyển chính thức được đưa vào
để thực hiện các dịch vụ này. Từ các tài liệu, không rõ ai đã quyết định tiến hành các lô
hàng trước khi công ty vận chuyển được đưa vào. Các sự kiện này xảy ra trong bối cảnh
một Hợp đồng LDP, theo đó nghĩa vụ có vẻ thuộc về nguyên đơn, chứ không phải bị
đơn, trong việc tổ chức quy trình LDP, mà có vẻ như nguyên đơn đã không thực hiện
đầy đủ. Hơn nữa, các tài liệu cho thấy nguyên đơn đang chờ sự cho phép từ bị đơn để
làm việc với công ty vận chuyển trước khi họ bắt đầu xử lý các khoản thanh toán. Tuy
nhiên, không rõ tại sao sự cho phép này lại cần thiết, vì chính hợp đồng LDP dường như
đã cung cấp sự cho phép này, và một khoản thanh toán LDP đã được xử lý cho bị đơn
Crystal Vogue, dù bị đơn này không bao giờ ký vào sự cho phép đó. Vì vậy, mặc dù Tòa
án chấp nhận là đúng cáo buộc của nguyên đơn rằng họ đã thực hiện các khoản thanh
toán LDP (và thực tế các tài liệu nộp có xác nhận điều này), các tài liệu của nguyên đơn
lại đặt ra câu hỏi liệu các nghĩa vụ này có được thực hiện kịp thời hay không. Dựa trên
các yếu tố trên, Tòa án không thể khẳng định rằng nguyên đơn đã hoàn thành nghĩa vụ
chứng minh rằng đơn kiện của mình có đủ cơ sở cho việc xác lập trách nhiệm pháp lý.
Về việc bị đơn thanh toán chậm do nguyên đơn giao hàng không đúng số lượng hoặc
nguyên đơn chậm thực hiện nghĩa vụ của mình. Tòa án nhận định rằng, nếu nguyên đơn
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng theo thỏa thuận (giao không đúng số lượng),
bị đơn có quyền trì hoãn thanh toán hoặc phản tố dựa trên các quy định của CISG và
2 Đoạn Kết luận Xiamen ITG Group Corporation Corp., Ltd. v. Peace Bird Trading Corp. và những người khác lOMoARcPSD| 59629529
hợp đồng. Tuy nhiên, việc tạm ngừng hoặc trì hoãn thanh toán phải có cơ sở pháp lý rõ
ràng và được chứng minh. Nếu bị đơn không cung cấp đủ bằng chứng chứng minh rằng
nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ giao hàng, thì lý do thanh toán chậm này không được chấp nhận.
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả khác
Trong bối cảnh thương mại quốc tế, việc lựa chọn và thay đổi điều khoản giao hàng
không chỉ ảnh hưởng đến quá trình vận chuyển mà còn tác động đáng kể đến các trách
nhiệm và nghĩa vụ tài chính của các bên tham gia hợp đồng. Điều này đặc biệt đúng khi
điều khoản giao hàng chuyển đổi từ CIF (Cost, Insurance, and Freight) sang LDP
(Landed Duty Paid). Dưới góc nhìn của các chuyên gia và học giả nổi tiếng trong lĩnh
vực luật quốc tế, sự thay đổi điều khoản như vậy có thể tạo ra các mâu thuẫn về nghĩa
vụ tài chính nếu không được quy định rõ ràng trong hợp đồng. Vụ việc tranh chấp giữa
Xiamen ITG và Peace Bird, trong đó Peace Bird không hoàn trả chi phí hải quan và
thuế nhập khẩu cho Xiamen ITG, minh họa rõ ràng những thách thức pháp lý và tài
chính nảy sinh từ sự mập mờ trong các điều khoản giao dịch.
Giáo sư Robert E. Scott phân tích rằng trong thương mại quốc tế, sự chuyển đổi
điều khoản từ CIF sang LDP dẫn đến những phức tạp mới trong các trách nhiệm tài
chính của các bên.3 Theo quy định của điều khoản CIF, người mua – ở đây là Peace Bird
– phải chịu toàn bộ chi phí hải quan và thuế nhập khẩu khi hàng hóa đến đích, nghĩa là
Xiamen ITG, với vai trò là người bán, chỉ chịu trách nhiệm giao hàng đến cảng nhập
khẩu và không phải chịu các chi phí phát sinh tại đó. Ngược lại, theo điều khoản LDP,
Xiamen ITG phải đảm nhận các chi phí hải quan và thuế nhập khẩu tại điểm đến trước
khi chuyển giao hàng hóa cho Peace Bird. Sự thay đổi này khiến Xiamen ITG chịu toàn
bộ chi phí hải quan ban đầu, nhưng theo thỏa thuận giữa các bên, Peace Bird sẽ hoàn trả
lại khoản chi phí này sau khi hàng hóa đến nơi. Tuy nhiên, Peace Bird đã không thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả chi phí theo cam kết, dẫn đến tranh chấp. Giáo sư Scott nhấn
mạnh rằng khi chuyển đổi điều khoản giao hàng, hợp đồng cần quy định rõ ràng trách
nhiệm của từng bên để tránh tranh chấp phát sinh từ những mâu thuẫn về nghĩa vụ tài
chính, nhất là trong bối cảnh không có một chuẩn mực quốc tế thống nhất để giải quyết
các tranh chấp dạng này.
Đồng quan điểm về sự cần thiết của minh bạch và rõ ràng trong hợp đồng quốc tế,
Tiến sĩ Albert H. Kritzer, chuyên gia tại Viện UNIDROIT, đưa ra quan điểm về vai trò
của chứng từ trong việc bảo đảm tính minh bạch và công khai nghĩa vụ của các
bên.4Theo Kritzer, “chứng từ trong hợp đồng không chỉ giúp xác nhận các nghĩa vụ tài
chính mà còn là công cụ pháp lý giúp xác định trách nhiệm của từng bên khi có tranh
chấp xảy ra. Trong vụ việc này, tranh chấp về chứng từ phát sinh do Xiamen ITG không
cung cấp đầy đủ các chứng từ chứng minh các chi phí mà Peace Bird phải hoàn trả,
dẫn đến sự mập mờ về trách nhiệm tài chính”. Kritzer nhấn mạnh rằng nếu hợp đồng
3 Contract and Innovation: The Limited Role of Generalist Courts in the Evolution of Novel Contractual Forms" (2013)
4 Contract and Innovation: The Limited Role of Generalist Courts in the Evolution of Novel Contractual Forms" (2013) lOMoARcPSD| 59629529
không quy định chi tiết và rõ ràng về loại chứng từ cần thiết để làm căn cứ thanh toán,
cả bên mua và bên bán sẽ dễ hiểu nhầm về nghĩa vụ của mình, từ đó gây ra tranh chấp
và làm phức tạp hóa quá trình giải quyết tranh chấp. Điều này nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc quy định cụ thể về loại chứng từ cần thiết trong các hợp đồng thương mại quốc tế.
Ngoài ra, luật sư Michael Horn, đại diện của Peace Bird, cũng bày tỏ quan điểm
rằng “sự thiếu minh bạch trong việc cung cấp chứng từ từ phía Xiamen ITG đã làm
Peace Bird không thể nắm rõ trách nhiệm tài chính của mình, gây khó khăn trong việc
thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Horn cho rằng các hợp đồng quốc tế nên có các quy định
cụ thể về loại chứng từ và các chi phí phát sinh trong trường hợp có sự thay đổi điều
khoản giao hàng, để đảm bảo rằng các bên nắm rõ nghĩa vụ của mình.” Theo Horn,
trong trường hợp này, vì các bên không làm rõ các nghĩa vụ khi chuyển đổi từ CIF sang
LDP, Peace Bird Trading gặp khó khăn trong việc hiểu và thực thi các khoản phải thanh
toán, dẫn đến tranh chấp không mong muốn.
4. So sánh với pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, về vấn đề vi phạm hợp đồng, trong bản án trên, nguyên đơn Xiamen ITG
cho rằng bị đơn là Peace Bird Trading không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn
dẫn đến vi phạm hợp đồng. Theo nguyên đơn, các khoản phí hải quan và thuế nhập khẩu
đã được chi trả trước bởi Xiamen ITG theo thỏa thuận LDP (Landed Duty Paid), nhưng
phía Peace Bird không hoàn trả lại các khoản này.
Căn cứ theo CISG, Điều 53 quy định người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng
và nhận hàng theo quy định của hợp đồng và của công ước này. Với quy định này, xác
định nghĩa vụ của người mua là thanh toán và nhận hàng theo đúng các điều khoản của
hợp đồng. Ngoài ra, Điều 54 quy định nghĩa vụ thanh toán bao gồm cả việc thực hiện
các thủ tục cần thiết, chẳng hạn như mở thư tín dụng, hoàn tất các giấy tờ cần thiết để
đảm bảo thanh toán đúng hạn. Việc không thanh toán đúng hạn của bên mua là một hành
vi vi phạm hợp đồng, vì vậy để bảo vệ quyền lợi của người bán, CISG đưa ra các biện
pháp bảo hộ pháp lý trong trường hợp người mua vi phạm hợp đồng. Căn cứ theo Điều
61 CISG, nếu bên mua không thực hiện đúng nghĩa vụ nào đó theo hợp đồng mua bán,
bao gồm cả nghĩa vụ thanh toán đúng hạn, bên bán có quyền yêu cầu thanh toán, có
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại chứng minh được tổn thất phát sinh trực tiếp từ hành vi này.
Dưới góc nhìn của pháp luật Việt Nam, các quy định tương tự cũng được đưa ra
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán
hàng hóa, cụ thể tại Điều 50 Luật thương mại 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ thanh
toán tiền hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng và trong thời hạn quy định. Theo Điều
55 Luật thương mại 2005 quy định về thời hạn thanh toán, trừ khi các bên có thỏa thuận
khác, bên mua phải thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao
chứng từ liên quan đến hàng hóa, ngoài ra bên mua không có nghĩa vụ thanh toán cho
đến khi có thể kiểm tra xong hàng hóa trong trường hợp có thỏa thuận theo quy định tại
Điều 44 Luật thương mại 2005. Trong trường hợp không thanh toán hàng hóa đúng hạn
mà không có lý do hợp lý, hành vi này được xem là vi phạm hợp đồng và bên bán có lOMoAR cPSD| 59629529
quyền yêu cầu bên mua thực hiện nghĩa vụ hoặc bồi thường thiệt hại nếu có tổn thất phát
sinh. Tương tự vậy, Điều 280 Bộ luật dân sự 2015 quy định nghĩa vụ trả tiền phải được
thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận. Ngoài ra,
pháp luật Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc thiện chí, trung thực trong quá trình thực
hiện hợp đồng, nguyên tắc này được quy định cụ thể tại Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 và
Điều 4 Luật thương mại 2005, các bên trong quan hệ hợp đồng cần nỗ lực thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng và tinh thần thiện chí. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ thanh
toán, nguyên tắc này đòi hỏi bên vi phạm phải chủ động tìm cách thực hiện nghĩa vụ
còn thiếu, hoặc bồi thường thiệt hại nếu không thực hiện được.
Trong bản án trên, sự thay đổi về điều khoản giao hàng từ CIF sang LDP, các bên
nên bổ sung, thống nhất các điều khoản liên quan nhằm làm rõ và thống nhất các điều
khoản liên quan nhằm đảm bảo minh bạch, cụ thể, tránh xung đột trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Thứ hai, về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong bản án trên, theo quy định của
CISG không có quy định nào liên quan tới phạt vi phạm, tại Điều 74 CISG quy định về
bồi thường thiệt hại thì tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là
một khoản tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu
quả của sự vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất
và số lợi bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký
kết hợp đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình
tiết mà họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.
Nếu pháp luật Việt Nam có quy định cụ thể về phạt vi phạm, mức phạt vi phạm và
căn cứ để phạt vi phạm thì CISG không quy định về điều khoản đó, mặc dù không có
quy định nào liên quan đến điều khoản phạt vi phạm, nhưng CISG không loại trừ các
điều khoản này và các điều khoản này vẫn được cho thi hành trong hệ thống CISG,
CISG không loại trừ các điều khoản này thông qua nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng
được ghi nhận tại Điều 6 CISG, các bên có thể tự do thỏa thuận các nội dung hợp đồng,
trong đó có điều khoản về việc một bên trả cho bên kia một khoản tiền nhất định, áp
dụng cho hành vi vi phạm hợp đồng cụ thể.5
Về giới hạn mức bồi thường thiệt hại, theo quy định của CISG không có quy định
giới hạn mức bồi thường thiệt hại, tương tự căn cứ theo Điều 7.4.13 Nguyên tắc
UNIDROIT về hợp đồng Thương mại quốc tế năm 2010 đều có quy định về vấn đề pháp
lý liên quan đến việc trả một khoản tiền khi vi phạm nghĩa vụ. Cách tiếp cận trong các
văn bản này đã loại bỏ sự khác biệt giữa phạt vi phạm và điều khoản thỏa thuận bồi
thường thiệt hại. Thay vào đó, mọi khoản tiền được thỏa thuận trước đều được công
nhận, và có thể sẽ bị điều chỉnh giảm xuống trong trường hợp khoản tiền là quá mức.
Căn cứ theo Điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định bồi thường thiệt hại là việc bên
vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi
phạm, pháp luật Việt Nam hiện nay không quy định cụ thể mức bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng thương mại là bao nhiêu, mà mức bồi thường sẽ phụ thuộc vào thiệt hại
5 Bình luận quy tắc 2, ý kiến số 10 của Hội đồng cố vấn CISG lOMoARcPSD| 59629529
thực tế mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà
bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
5. Quan điểm của nhóm tác giả
Theo quan điểm của nhóm, nhóm đồng ý với phán quyết của tòa án về yêu cầu bị
đơn có nghĩa vụ thanh toán hàng hóa đồng thời bác bỏ yêu cầu phản tố nhằm biện minh
cho hành vi không thanh toán tiền hàng hóa đúng hạn là một quyết định phù hợp và
đúng quy định của pháp luật.
Thứ nhất, về nghĩa vụ thanh toán hàng hóa theo Điều 53 CISG quy định rằng bên
mua phải thanh toán giá trị hàng hóa đúng hạn và đúng số lượng theo các điều khoản
hợp đồng. Việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đúng hạn là một vi phạm
hợp đồng. Điều 61 CISG cho phép bên bán yêu cầu thực hiện nghĩa vụ thanh toán hoặc
yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu có thiệt hại phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng. Tòa án
đã áp dụng đúng quy định này khi yêu cầu bên bị đơn thanh toán đầy đủ số tiền còn lại theo hợp đồng.
Thứ hai, hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán của bên mua là nguyên nhân trực tiếp
ảnh hưởng đến quyền lợi của bên bán. Việc không nhận được thanh toán đúng hạn làm
gián đoạn dòng tiền của họ. Điều này có thể dẫn đến các vấn đề tài chính cho bên bán,
như không thể thanh toán cho nhà cung cấp, không thể duy trì hoạt động sản xuất, hoặc
phải vay mượn để trang trải chi phí. Điều này là hậu quả trực tiếp từ hành vi vi phạm
của bị đơn. Những hậu quả từ việc chậm thanh toán từ phía bị đơn có thể làm cơ sở để
bên bán yêu cầu bên mua bồi thường thiệt hại, căn cứ theo Điều 74 CISG, bên bị vi
phạm phải chịu trách nhiệm về thiệt hại mà bên bị vi phạm hợp đồng phải chịu, miễn là
các thiệt hại này là hậu quả trực tiếp và có thể dự đoán được từ hành vi vi phạm. Trong
trường hợp này, việc không thanh toán đúng hạn của bên mua có thể dự đoán được sẽ
dẫn đến những thiệt hại tài chính đối với bên bán, như tổn thất về lợi nhuận và dòng tiền.
III. VẤN ĐỀ 3. CHUYỂN RỦI RO
1. Đặt vấn đề
Thứ nhất, xác định thời điểm chuyển rủi ro và trách nhiệm của các bên nếu xảy ra
hư hỏng, mất mát hàng hóa:
Một yếu tố quan trọng cần xác định là thời điểm nào rủi ro chuyển từ bên bán sang
bên mua trong quá trình giao dịch hàng hóa quốc tế. Thời điểm này sẽ ảnh hưởng đến
trách nhiệm của các bên nếu xảy ra mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa trong quá trình vận
chuyển. Theo Điều 66 của CISG quy định rằng: “Việc mất mát hay hư hỏng hàng hóa
xảy ra sau khi rủi ro chuyển sang người mua không miễn trừ cho người này nghĩa vụ lOMoARcPSD| 59629529
phải trả tiền, trừ khi việc mất mát hay hư hỏng ấy là do hành động của người bán gây
nên”. Với quy định trên có thể thấy, thời điểm chuyển rủi ro là một trong những yếu tố
quan trọng trong việc trách nhiệm thuộc về ai, khi rủi ro đã chuyển sang bên mua, bên
mua vẫn phải thanh toán, dù hàng hóa bị mất hoặc hư hỏng, trừ khi tổn thất do lỗi của
bên bán. Tuy nhiên đối với hợp đồng mua bán có quy định về vận chuyển hàng hóa thì
bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho bên vận chuyển tại một điểm xác định thì rủi ro được
chuyển cho bên mua vào thời điểm hàng được giao cho bên vận chuyển tại địa điểm đó
theo khoản 1 Điều 67 CISG.
Thứ hai, điều kiện giao hàng:
Theo Incoterm 2020, “Người bán chịu mọi rủi ro về tổn thất hay mất mát đối với
hàng hóa đến khi hàng hóa được giao theo mục A2, trừ những trường hợp mất mát hay
hư hỏng được đề cập ở mục B3”. Vậy với quy định này có thể xác định thời điểm chuyển
rủi ro từ bên bán sang bên mua là thời điểm bên bán giao hàng lên tàu hoặc bên bán sẽ
phải giao hàng vào ngày hoặc trong khoảng thời gian đã định, theo cách thức thông
thường tại cảng. Còn đối với bên mua, chịu mọi rủi ro từ thời điểm hàng được giao lên
tàu hoặc giao hàng vào ngày hoặc trong khoảng thời gian đã định, theo cách thức thông
thường tại cảng. Khi người bán thực hiện đầy đủ trách nhiệm giao hàng theo quy định
này, mọi rủi ro mất mát hoặc hư hỏng hàng hóa sẽ chuyển giao từ người bán sang người
mua. Nếu rủi ro người mua không thông báo kịp thời trong trường hợp người mua có
quyền quyết định về thời gian giao hàng và/hoặc địa điểm đến hoặc điểm nhận hàng tại
nơi đến đó thì người mua không thông báo kịp thời, họ phải chịu rủi ro bổ sung từ thời
điểm được chỉ định trong hợp đồng giao hàng hoặc ngày cuối cùng của thời hạn quy
định: Nếu hợp đồng có quy định thời gian giao hàng cụ thể (ví dụ: từ ngày A đến ngày
B), thì thời điểm cuối cùng trong khoảng thời gian này sẽ được tính. Tuy nhiên, điều
kiện này áp dụng chỉ khi hàng hóa đã được phân biệt rõ ràng (clearly identified) là thuộc
về hợp đồng. Điều này ngăn ngừa trường hợp hàng hóa chưa được xác định cụ thể.
Việc làm rõ thời điểm và điều kiện chuyển rủi ro sẽ giúp xác định rõ ràng trách
nhiệm của bên mua và bên bán trong giao dịch, đồng thời giải quyết tranh chấp về thanh
toán một cách hợp lý. Các bên cần phải dựa vào hợp đồng, luật áp dụng và quy định
thương mại quốc tế để xác định rõ trách nhiệm của mỗi bên liên quan đến rủi ro hàng hóa.
2. Quan điểm của Toà án
Bởi vì các đơn đệ trình của nguyên đơn không làm rõ được vấn đề “Liệu ai là người
đã quyết định tiến hành vận chuyển hàng hóa trước khi có người giao nhận vận tải?”
nên tòa án cho rằng dường như trách nhiệm đó sẽ thuộc về nguyên đơn tức là bên bán
phải tạo điều kiện thuận lợi cho quy trình LDP mà hai bên đã ký kết với nhau. Một lí do
mà Tòa án đã đưa ra thêm chính là việc mà nguyên đơn chờ đợi để được bị đơn ủy quyền
cho phép họ làm việc với người giao nhận vận tải trước khi bắt đầu xử lý các thanh toán
là không hợp lí vì tòa án cho rằng việc nguyên đơn không cần thiết phải đợi chờ ủy
quyền từ bị đơn bởi vì trong lúc giao kết hợp đồng LDP thì dường như đã cung cấp ủy
quyền đó và trên thực tế một số khoản thanh toán đã được thực hiện cho bị đơn Crystal
Vogue, người chưa bao giờ thực hiện việc ủy quyền. lOMoARcPSD| 59629529
Tóm lại, vì những mâu thuẫn và không thống nhất giữa các chứng cứ mà nguyên đơn
đưa ra so với thực tế của vụ việc về quy trình LDP cho nên tòa án đã quy kết mọi trách
nhiệm về rủi ro của hàng hóa cho nguyên đơn.
3. Quan điểm của chuyên gia, học giả khác
Vụ việc giữa Xiamen ITG Group Corporation Corp., Ltd. và Peace Bird Trading
Corp có những tình tiết tương tự như các vụ việc khác như vụ việc giữa Hanwha Corp.
và Cedar Petrochemicals, Inc. hay vụ việc giữa Transmar Commodity Group Ltd. v.
Cooperativa Agraria Industrial Naranjillo Ltda.6 Quan điểm của chuyên gia trong các
trường hợp trên đều nghiêng về phía nguyên đơn.
Chuyển rủi ro đối với hàng hóa là một trong những vấn đề quan trọng đối với hoạt
động mua bán hàng hóa nói chung và mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Đây là một
trong những điều khoản quan trọng mà các bên cần xem xét kỹ lưỡng khi đàm phán và
ký kết hợp đồng. Công ước Viên 1980 là công cụ pháp lý chính điều chỉnh vấn đề chuyển
rủi ro đối với hàng hóa trong giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế nếu được áp dụng liên
quan đến hợp đồng. Nguyên tắc chuyển rủi ro đối với hàng hóa được quy định tại Điều
66 của Công ước Viên 1980 quy định hai vấn đề trong quá trình chuyển rủi ro đối với
hàng hóa, bao gồm hậu quả pháp lý và giới hạn trách nhiệm của các bên. Theo
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hà thì để hạn chế những rủi ro, tranh cãi về việc xác định thời
điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên nên
thỏa thuận đưa vào trong hợp đồng quy định về xác định thời điểm chuyển quyền sở
hữu. Trong trường hợp các bên thỏa thuận điều khoản chuyển quyền sở hữu theo đó thời
điểm chuyển quyền sở hữu hàng hóa khác với thời điểm người mua hoàn thành nghĩa
vụ thanh toán (hoặc cam kết thanh toán), thì các bên có thể xem xét đưa vào trong hợp
đồng điều khoản về bảo lưu quyền sở hữu như được quy định trong Bộ luật Dân sự năm
2015 của Việt Nam. Riêng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh
nghiệp Việt Nam thường sử dụng Incoterms, nhưng Incoterms không quy định về thời
điểm chuyển quyền sở hữu mà chỉ quy định thời điểm chuyển giao rủi ro, nên các bên
không nên dẫn chiếu tới Incoterms để xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu.7 Bên
cạnh đó, Incoterms là tập quán quốc tế, do đó các bên phải dẫn chiếu các quy tắc này
trong hợp đồng thì mới đủ căn cứ xác định để thời điểm chuyển rủi ro đối với hàng hóa.8
4. So sánh với pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam quy định tại Điều 57 của Luật Thương mại 2005 thì những rủi
ro về thiệt hại, hư hỏng hàng hóa sẽ thuộc về bên mua hoặc ủy quyền của bên mua trong
trường hợp giao hàng tại một địa điểm xác định, kể cả trong trường hợp bên bán được
ủy quyền giữ lại các chứng từ xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa thì bên mua vẫn
phải chịu trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hóa. Cũng theo quy định tại Điều 60 Luật
thương mại thì các rủi ro đối với hàng hóa trong giai đoạn vận chuyển vẫn sẽ được
chuyển cho bên mua từ lúc giao kết hợp đồng. Có thể thấy, pháp luật thương mại Việt
Nam quy định về việc chuyển rủi ro sẽ được thực hiện cho bên mua kể từ lúc giao kết
6 https://cisg-online.org/search-for-cases?caseId=15099
7 Báo Tiền Phong - “Thời điểm chuyển giao quyền sở hữu trong hợp đồng mua bán hàng hóa – Lưu ý nào cho các bên” lOMoARcPSD| 59629529
hợp đồng hoặc từ lúc bên mua có quyền định đoạt đối với hàng hóa. Rủi ro đối với hàng
hóa chỉ được thực hiện cho bên bán khi bên bán vi phạm hợp đồng.
Thứ nhất, thời điểm chuyển rủi ro
Pháp luật Việt Nam (Luật Thương mại 2005):
Điều 57 Luật Thương mại 2005, rủi ro chuyển từ người bán sang người mua theo
thỏa thuận hợp đồng. Nếu không có thỏa thuận, rủi ro chuyển tại thời điểm hàng được
giao cho người vận chuyển hoặc khi bên mua nhận hàng tại địa điểm đã thỏa thuận. Điều
này giúp xác định rõ bên chịu trách nhiệm nếu hàng hóa bị hư hỏng, mất mát trong quá trình vận chuyển.
Điều 67 CISG (Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế)
quy định rằng rủi ro chuyển từ bên bán sang bên mua tại thời điểm hàng hóa được giao
cho người vận chuyển đầu tiên. Điều này tương tự như Luật Thương mại Việt Nam,
giúp xác định trách nhiệm khi hàng hóa được giao cho bên vận chuyển. Thứ hai,
điều kiện chuyển rủi ro khi không có thỏa thuận rõ ràng
Điều 61 Luật Thương mại 2005, nếu hợp đồng không quy định thời điểm chuyển rủi
ro, luật cho phép xác định dựa trên địa điểm giao hàng hoặc thời điểm bàn giao cho đơn
vị vận chuyển. Tuy nhiên, quy định này chưa đủ chi tiết cho một số tình huống phức tạp,
như việc hàng hóa bị hư hỏng trong thời gian dài vận chuyển hoặc lưu kho. Theo
Điều 68 CISG quy định chi tiết về hàng hóa trong quá trình vận chuyển; nếu hàng hóa
bị hư hỏng trước khi chuyển rủi ro, bên mua có quyền khiếu nại. CISG cũng có quy định
rõ ràng cho hàng hóa chưa đến tay người mua mà đã gặp vấn đề, cụ thể giúp giải quyết
các tranh chấp về chất lượng hàng hóa.
Thứ ba, trách nhiệm khi hàng hóa hư hỏng trong quá trình vận chuyển
Điều 63 Luật Thương mại 2005, bên bán chịu trách nhiệm nếu hàng hóa chưa chuyển
rủi ro cho bên mua. Tuy nhiên, nếu hàng hóa đã được giao cho bên vận chuyển mà
không có thỏa thuận rõ ràng khác, rủi ro thuộc về bên mua.
Điều 66 CISG quy định rủi ro chuyển sang bên mua khi hàng hóa được giao, và bên
mua phải thanh toán ngay cả khi hàng hóa bị mất hoặc hư hỏng sau khi rủi ro đã chuyển,
trừ khi thiệt hại do hành động của bên bán.
Thứ tư, Incoterms và vai trò trong xác định chuyển rủi ro
8 “Chuyển rủi ro đối với hàng hóa trong công ước viên 1980: tiếp cận pháp lý và khuyến nghị thực thi tại việt
nam” – Trần Viết Long – Bùi Thị Quỳnh Trang, Tạp chí Khoa học Kiểm sát – Số chuyên đề 01 - 2021
Điều 50 Luật Thương mại 2005: Mặc dù không trực tiếp đề cập Incoterms, nhưng
Điều 50 cho phép các bên tự do thỏa thuận về các điều khoản giao hàng, bao gồm thời
điểm chuyển rủi ro, có thể bao gồm các điều kiện tiêu chuẩn quốc tế như Incoterms.
Việc áp dụng Incoterms (như FOB, CIF) giúp các bên xác định chính xác thời điểm và
trách nhiệm rủi ro trong giao dịch quốc tế.
CISG và Incoterms cũng được sử dụng rộng rãi trong các hợp đồng quốc tế để bổ sung
cho các quy định về chuyển rủi ro của CISG, đảm bảo sự minh bạch trong giao dịch quốc tế.