-
Thông tin
-
Quiz
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em - Ngữ văn 6
Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai hùng đoàn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!
Văn mẫu 6 239 tài liệu
Ngữ Văn 6 1.7 K tài liệu
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em - Ngữ văn 6
Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai hùng đoàn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!




















Tài liệu khác của Ngữ Văn 6
Preview text:
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em (86 mẫu)
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em Ngắn gọn (13 mẫu)
“Cây tre trăm đốt” là câu chuyện cổ tích không chỉ hấp dẫn, thú vị, mà còn chứa đựng bài
học ý nghĩa về phẩm chất con người trong cuộc sống.
Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng trai khỏe mạnh, thông minh và chăm chỉ. Biết
được điều đó, phú ông đã chủ động gọi anh đến trò chuyện, rồi hứa rằng nếu anh làm
việc không công cho nhà ông ba năm, thì sẽ gả con gái cho anh. Vốn phải lòng con gái
phú ông từ trước, anh Khoai hăm hở đồng ý ngay. Suốt ba năm, anh làm việc chăm chỉ
từ sáng sớm đến tối muộn, không nghỉ một ngày nào. Nhờ vậy mà nhà phú ông có thêm
rất nhiều của cải. Nhưng khi đến ngày thực hiện lời hứa, ông ta lại tìm cách đẻ lật lọng.
Ông lừa anh Khoai đi tìm một cây tre trăm đốt làm sính lẽ, rồi ở nhà tổ chức đám cưới
cho con gái mình với con trai phú ông làng bên. Nhưng ông ta không ngờ được rằng,
anh Khoai thực sự đã mang về được một cây tre trăm đốt. Đó là nhờ ông Bụt dạy cho
anh câu thần chú ghép một trăm đốt tre lại với nhau. Kết quả, khi đám cưới đang diễn ra,
thì anh Khoai đã về đến cửa nhà phú ông. Thấy tình hình trên sân, anh tức giận vô cùng,
liền đọc câu thần chú để ghép một trăm đốt tre lại, rồi dính cả phú ông vào. Ông ta vừa
xấu hổ vừa đau đớn, bèn la lên tìm người cứu giúp. Phú ông làng bên thấy thế, toan
nhảy vào cứu, nhưng cũng bị dính chặt vào thân tre. Cuối cùng, phú ông bèn xin anh
Khoai thả mình ra, rồi sẽ thực hiện lời hứa gả con gái cho anh ngay. Đến lúc này, anh
mới đọc thần chú cho các khúc tre rời nhau ra. Sau đó, anh Khoai như ý nguyện được
làm đám cưới với con gái phú ông. Từ đó, hai vợ chồng họ chung sống hạnh phúc bên nhau.
Câu chuyện đã đem đến tiếng cười giải trí cho người đọc qua tình huống của phú ông
gian xảo. Đó còn là bài học ý nghĩa cho người đọc, rằng phải sống trung thực, chớ có lọc
lừa, thất hứa với người khác.
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em (6 mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích Tấm Cám - một câu chuyện cổ tích hay và đặc sắc của dân tộc ta.
b. Thân bài: Kể lại nội dung truyện Tấm Cám theo các diễn biến của câu chuyện, gồm các sự kiện sau:
Sự kiện 1: Tấm mồ côi cha mẹ, sống với dì ghẻ và con của bà ta là Cám. Cô bị bắt làm việc
vất vả, quần quật sớm hôm
Sự kiện 2: Một hôm, dì ghẻ treo thưởng là chiếc yếm mới cho người bắt được nhiều tôm tép
hơn. Vốn chăm chỉ nên có giỏ tép đầy, nhưng Tấm bị Cám lừa lấy mất, chỉ còn lại 1 chú cá bống nhỏ
Sự kiện 3: Tấm nuôi cá bống trong giếng, nhưng bị dì ghẻ và Cám bắt ăn thịt. Nhờ Bụt, cô tìm
được xương cá bống, rồi chôn vào hũ để ở góc giường
Sự kiện 4: Từ hũ, Tấm có áo quần đẹp đi trảy hội, trở thành vợ vua
Sự kiện 5: Giỗ cha, Tấm từ cung về làm cỗ, tự trèo lên cây hái cau, bị mụ dì ghẻ chặt cây, hại chết
Sự kiện 6: Cám mặc áo chị vào cung hầu vua, 3 lần liên tiếp hại hóa thân của Tấm là chim
vàng anh, cây xoan, khung cửi
Sự kiện 7: Lần thứ 4, Tấm hóa thân thành cây thị, rồi trở về hình hài con người trong quả thị,
sống với bà cụ bán nước
Sự kiện 8: Một lần, vua đi qua quán nước, nhận ra Tấm nhờ miếng trầu têm cánh phượng, thế
là 2 vợ chồng đoàn tụ với nhau
Sự kiện 9: Tấm về cung sống hạnh phúc cùng nhà vua, còn 2 mẹ con Cám thì bị trừng phạt thích đáng c. Kết bài:
Nêu ý nghĩa, bài học của câu chuyện cổ tích Tấm Cám
Suy nghĩ, nhận xét, tình cảm của em dành cho câu chuyện đó
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em lớp 6
Truyện cổ tích Tấm Cám là một câu chuyện có từ rất lâu, và đã đồng hành với biết bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính là cô Tấm dịu dàng, nết na. Cô Tấm mồ côi
mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể cô sống một mình với bà dì ghẻ và
người con riêng của bà là Cám. Biết bao đau khổ của đời Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.
Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị dì ghẻ bắt làm việc quần quật suốt ngày,
lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, dì ta lấy chiếc yếm đào mới để tổ chức
cho Tấm và Cám thi mò cua bắt ốc. Dĩ nhiên với tính chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng
về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về
nhà trước. Chờ Tấm lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con cá bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở,
thì ông Bụt hiện lên và dặn dò cô mang cá bống về nuôi.
Tấm nuôi cá trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho cá ăn, và hát bài hát riêng
của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ dì ghẻ độc ác đã rình mò và nghĩ ra kế xấu. Mụ ta
lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà bắt chước Tấm gọi cá bống lên và ăn thịt. Ăn xong, mụ
chôn xương cá ở góc bếp. Chờ đến lúc Tấm về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn
cục máu đỏ tươi mà thôi. Buồn bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy
nắm thóc cho gà ăn, để nó bới đất tìm xương cá bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn
chiếc bình, đặt ở chân giường.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy hội. Tấm cũng
hớn hở theo. Cô xin dì ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, bà ta bắt cô phải nhặt hết một đống đầy
hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội. Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại
hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến giúp Tấm. Nhờ vậy, cô nhanh chóng hoàn thành xong công
việc dì ghẻ giao. Nhưng bây giờ, cô lấy gì mặc để đi hội, khi cô chỉ toàn những bộ trang phục cũ
rích? Thấy cô băn khoăn, ông Bụt bảo cô lấy những chiếc bình ở chân giường lên. Chao ôi, bên
trong là bộ váy và đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.
Có váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, cô đánh rơi một bên giày
xuống nước. Người đến hội đông quá, cô không sao xuống tìm giày được. Đúng lúc đó, voi của
vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu đi. Vua cho lính xuống mò lên, ngắm đôi
giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao cô gái đến thử vận
may, nhưng chẳng ai vừa cả. Đến lượt Tấm, cô vừa đi thử là vừa ngay như in. Thế là Tấm trở thành hoàng hậu.
Tuy trở thành vợ vua, nhưng cô Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày nào. Năm đó,
đến giỗ cha, cô xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, cô tự tay mình chuẩn bị một mâm cũng
tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ dì ghẻ nhờ Tấm trèo lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc cô
ở trên cau thì chặt gốc, khiến cô ngã xuống ao rồi qua đời.
Nhờ phép lạ, Tấm không chết mà hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý vàng anh lắm,
đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám - kẻ mặc áo của Tấm vào cung để thay chị hầu vua
ghen tức vô cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim ở góc vườn.
Từ đống lông chim ấy, mọc lên một cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. Ở dưới bóng mát của
cây, vua cảm thấy rất thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi.
Ghen tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi. Nhưng mỗi
lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo cà kẽo kẹt những tiếng chửi mắng đáng sợ khiến cô ta
khiếp vía. Nên cô ta cho người đốt khung cửi thành tro, rồi đem ra đổ ở ngã tư thật xa cung vua.
Cám cứ tưởng thế là xong nên hả hê lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây thị to lớn, rồi
cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. Có bà bán nước ở gốc cây thấy vậy đã xin
cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, và hứa là không ăn quả. Thế là quả thị rớt vào bị của bà. Từ
hôm đó, chờ bà cụ đi vắng, cô Tấm từ trong quả thị bước ra, giúp bà việc nhà, cơm nước. Bà cụ
thấy lạ, nên rình xem và phát hiện ra cô. Bà đã ôm chầm lấy Tấm và xin được nhận cô làm con
nuôi. Từ đó, hai người trở thành mẹ con của nhau.
Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân ở quán nước của bà cụ. Nhìn những miếng trầu cánh
phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn thấy nhau, hai người
mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau đó, Tấm theo vua về cung, chung
sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em (6 mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em
1. Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa. 2. Thân bài
Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út. Sọ Dừa đi thi.
Cô út bị hai cô chị hãm hại.
3. Kết bài: Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 1
Trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam, thì Sọ Dừa là một trong những câu chuyện hay và ấn
tượng nhất mà em được biết.
Câu chuyện kể về cuộc đời với nhiều điều kì lạ của Sọ Dừa. Mẹ chàng nhờ uống nước trong một
cái sọ dừa mà mang thai rồi sinh ra chàng. Khi mới sinh ra, chàng có hình dáng kì lạ, mình tròn
lông lốc như trái dừa, nên mới được mẹ đặt tên cho là Sọ Dừa.
Tuy bề ngoài kì lạ, nhưng Sọ Dừa rất yêu thương mẹ và ngoan ngoãn. Chàng chủ động xin được
đi chăn bò cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Nhờ tài thổi sáo, chàng không chỉ chăn đàn bò không
mất con nào, mà còn khiến chúng béo tốt, mũm mĩm. Trong quá trình đó, cô út hiền lành đã phải
lòng chàng sau nhiều lần đi đưa cơm.
Thế là, Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho mình. Điều bất ngờ, là chàng đã chuẩn bị đầy
đủ những sính lễ mà phú ông yêu cầu, để cưới được con gái ông ta. Đến ngày, điều ngạc nhiên hơn
nữa đã xảy ra, khi Sọ Dừa tổ chức đám tiệc linh đình, với kẻ hầu người hạ tấp nập. Còn chàng thì
trở về lốt người, khôi ngô tuấn tú.
Sau khi kết hôn, Sọ Dừa chăm chỉ dùi mài kinh sử và thi đỗ trạng nguyên. Ít lâu sau, chàng còn
vinh dự được nhà vua tin tưởng, cử đi sứ. Điều này khiến cho hai cô chị của vợ chàng ghen ăn tức
ở, quyết hãm hại em. Hai ả ta mời cô em gái đi chơi thuyền, rồi đẩy em xuống sông, nhằm cướp
chồng. Nhưng may thay, nhờ những đồ vật mà Sọ Dừa trước khi đi dặn luôn mang theo, mà cô út
sống sót trên hoang đảo. Rồi một ngày, tàu của quan trạng đi qua, gặp được vợ và đón về nhà.
Cuối cùng, người tốt như Sọ Dừa và cô út được sống hạnh phúc bên nhau. Còn kẻ xấu xa, nham
hiểm như hai cô chị, thì phải bỏ đi biệt xứ. Đó cũng chính là ước mơ của nhân dân ta ngày xưa, về
một xã hội công bằng, hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 2
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền lành, chăm chỉ
nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa bên gốc cây to
đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy cứ tròn lông lốc
như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại nuôi rồi đặt
tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm phiền lòng lắm.
Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công sá lại chẳng
đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày ngày, cậu lăn sau đàn bò ra
đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên nhau đem cơm
cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có
cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe thấy tiếng sáo
véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đang ngồi trên chiếc võng
đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ
Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ. Bà lão thấy vậy
tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo,
mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày hẹn, bỗng
dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy lên khiêng lễ vật sang
nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê
bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp nập. Lúc rước
dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn tú đứng bên
cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế, Sọ Dừa còn tỏ
ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng
nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng
đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà trạng. Nhân quan
trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế lừa đẩy cô em xuống nước. Cô
út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao
khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng
kịp nở thành một đôi gà đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to: Ò... ó... o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau, mừng mừng
tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia vui, nhưng lại giấu vợ trong
nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi
ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn
thấy cô em thì xấu hổ quá, lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện cổ tích Thạch Sanh bằng lời văn của em (9 mẫu)
Dàn ý Kể lại câu chuyện Thạch Sanh bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích “Thạch Sanh”.
b. Thân bài (diễn biến sự việc)
- Mở đầu: Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Thắt nút: Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng. - Phát triển:
Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Lý Thông cướp công.
Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Mở nút: Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Vua tìm ra
sự thật, kết tội Lý Thông.
- Kết thúc: Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang đánh …
c. Kết bài: Ý nghĩa câu chuyện: “Ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 1
Trong các câu chuyện cổ tích mà em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích nhất chính là
truyện cổ tích Thạch Sanh.
Câu chuyện kể về cuộc đời của Thạch Sanh - một chàng trai dũng cảm, tốt bụng và tài năng. Chàng
vốn là thái tử ở trên thiên đình, được Ngọc Hoàng phái xuống làm con của hai vợ chồng già tốt
bụng. Cha chàng qua đời trước khi chàng được sinh ra. Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để
lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố vô thân, lủi thủi trong một túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài
của chàng là một lưỡi búa của cha để lại. Năm chàng biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần
xuống dạy cho chàng đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
Thạch Sanh là người luôn khát khao mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng đã bị Lý Thông lừa gạt, đến
sống chung và làm lụng giúp đỡ mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn bị Lý Thông lừa đến miếu
thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ có võ nghệ và phép thần thông, Thạch Sanh
đã giết chết và chặt đầu chằn tinh mang về. Lần này, chàng lại bị Lý Thông lừa gạt cướp công giết
chằn tinh, còn bản thân thì lại trở về lủi thủi một mình dưới gốc đa.
Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một cô gái bay ngang qua.
Thế là Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần theo vết máu mà đuổi tới hang
của đại bàng, nhằm tìm cách cứu cô gái. Tuy biết được hang ổ của đại bàng, nhưng Thạch Sanh
vẫn chưa tìm ra cách cứu cô gái vì cái hang quá sâu, một mình chàng thì không đưa cô gái lên
được. Đúng lúc đó, chàng gặp lại Lý Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, cô gái
đó chính là công chúa, và nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu ai cứu được công chúa sẽ được cưới nàng
và nối ngôi vua. Thạch Sanh không chút nghi ngờ, lập tức dẫn Lý Thông và quân lính đến hang
đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa lên trước. Đến lượt chàng, Lý Thông sai
quân lính lấp cửa hang lại. Đến lúc này chàng mới nhận ra bộ mặt độc ác, xảo trá của hắn.
Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong quá trình đó,
chàng gặp mặt và cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó, chàng được mời xuống thủy
cung và được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng với tính cách thật thà, chàng chỉ xin nhận một
cây đàn rồi lại trở về túp lều cũ dưới gốc đa.
Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau khi làm việc mệt mỏi thì chàng
lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vẳng đến cung công chúa, khiến nàng bật
cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại bàng, công chúa lúc nào cũng ủ rũ, buồn bã.
Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch Sanh vào cung để truy hỏi cho rõ ràng. Đến nơi, Thạch
Sanh kể rõ sự tình cho mọi người. Đến đây, sự thật được phơi bày. Mẹ con Lý Thông bị đem ra
xử phạt, còn Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho
mẹ con Lý Thông và để họ về quê. Nhưng trên đường về họ bị sét đánh trúng và biến thành bọ hung.
Sau khi đám cưới của Thạch Sanh và công chúa diễn ra thì hoàng tử các nước chư hầu đem quân
sang tấn công nước ta vì ganh ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho mình được ứng chiến. Đến
nơi, chàng dùng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn tay chân, không nghĩ suy gì về việc chiến đấu.
Sau đó, chàng dùng niêu cơm thần ăn mãi không hết khiến cho quân lính các nước chịu thua. Vì
không ai có thể ăn hết cơm được. Do đó, quân của các nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này,
Thạch Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.
Câu chuyện vô cùng hay và hấp dẫn em không chỉ vì nó có nhiều chi tiết kì ảo thú vị. mà còn bởi
vì trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về cái thiện, cái chính sẽ luôn thắng
cái ác, cái tà. Đây là một tư tưởng vô cùng tốt đẹp, cần được giữ gìn và phát huy.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 2
“Thạch Sanh” là một truyện rất hay mà em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này đã được cô giáo
em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đây.
Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi người, Ngọc
Hoàng bèn sai Thái tử xuống đầu thai làm con. Từ đó, người vợ có mang nhưng đã qua mấy năm
mà không sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh mà mất. Mãi về sau người vợ mới sinh được một cậu con trai.
Khi cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới gốc da, cả gia
tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh.
Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông. Lý Thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em
để lợi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đến sống chung với mẹ con Lý Thông.
Bấy giờ trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan quân không làm
gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.
Năm ấy, đến lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh miếu để chết
thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện ra. Thạch Sanh dùng búa
chém chết chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh và lấy được một bộ cung tên bằng vàng mang về
nhà. Mẹ con Lý Thông lúc đầu hoảng sợ vô cùng, nhưng sau đó Lý Thông nảy ra một kế dụ Thạch
Sanh trốn đi vì đã chém chết con trăn của vua nuôi đã lâu.
Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Lý Thông, trở về dưới gốc đa. Còn Lý Thông
hí hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua. Hắn được vua khen và phong cho làm Quận công.
Năm ấy, vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị con đại bàng
khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh và bị chàng dùng tên vàng bắn bị
thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, vua vô cùng đau khổ, hứa gả công chúa và truyền ngôi cho ai tìm
được công chúa. Lý Thông tìm gặp lại Thạch Sanh và được chàng cho biết chỗ ở của đại bàng.
Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết chết con quái vật rồi lấy dây buộc vào người
công chúa, ra hiệu cho Lý Thông kéo lên. Không ngờ, sau đó Lý Thông ra lệnh cho quân sĩ dùng
đá lấp kín cửa hang lại. Thạch Sanh tìm lối ra và tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Chàng
được vua Thủy Tề tặng cho cây đàn.
Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong kho nhà vua,
đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Lại nói chuyện nàng công chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng cười. Bao nhiêu
thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng đàn vẳng ra từ trong ngục, công
chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi Thạch Sanh đên. Chàng kể hết sự tình. Vua sai
bắt hai mẹ con Lý Thông giao cho Thạch Sanh xét xử. Chàng không giết mà cho chúng về quê
làm ăn. Giữa đường, chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử các nước chư hầu đến cầu hôn không được, liền
tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch Sanh lấy cây đàn ra gảy. Binh lính
mười tám nước bủn rủn tay chân, không đánh nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng.
Thạch Sanh thết đãi những kẻ thua trận bằng một niêu cơm tí xíu. Quân sĩ mười tám nước ăn mãi
mà không hết. Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước.
Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Càng nghe câu chuyện, em càng yêu quý tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch Sanh và càng căm
ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Lý Thông. Em tự hứa với lòng là sẽ noi theo tấm
gương tốt để trở thành người có ích cho xã hội vì em hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện cổ tích
này là ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.
Kể lại truyện cổ tích Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em (5 mẫu)
Dàn bài Kể lại câu chuyện Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em a. Mở bài Giới thiệu câu chuyện b. Thân bài
- Mở đầu: Giới thiệu anh trai cày hiền lành và lão nhà giàu tham lam, lừa lọc.
- Thắt nút: Lão lừa dối “sẽ gả con gái” cho anh. - Phát triển:
Anh quần quật làm giàu cho lão suốt ba năm.
Lão nhà giàu gả con gái với điều kiện anh phải đi tìm được cây tre trăm đốt
Anh trai cày không tìm được nhưng nhờ có Bụt ra tay giúp đỡ, anh đã thành công và mừng rỡ gánh về.
- Mở nút: Khi thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới hiểu âm mưu thâm độc
của lão nhà giàu và anh ra tay trừng phạt.
- Kết thúc: Lão nhà giàu phải gả con gái cho anh trai cày. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. c. Kết bài Nêu cảm nghĩ Rút ra bài học
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 1
Ở trước nhà em có trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rồi, em thường ngồi đếm các đốt của cây
tre. Có lần em hỏi ông: “Ông ơi, có cây tre nào có một tẳm đốt không ạ?”. Nghe vậy ông bật cười:
“Muốn có cât tre trăm đốt thì phải có thần chú cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được
câu thần chú. Vậy là ông bảo em ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu khó làm lụng.
Anh làm đầy tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu khó làm lụng cho nhà lão mà
không lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức
làm lụng mà không lấy dù chỉ một đồng điền công.
Tuy nhiên, khi đến lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô cho tên phú
hộ trong làng. Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một cây tre trăm đốt về làm
đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai hì hục thi tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng
tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng
ngồi xuống bật khóc tức tưởi. Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy
cho anh hai câu thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với
nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám cỗ linh đình
thì nhận ra là mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem cây tre trăm đốt. Khi lão
ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập” khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở
thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được.
mãi sau, lão đồng ý gả con gái cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề
thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.
Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 2
Đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe. Đêm
qua, bà kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà...
Ngày xưa có một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu. Anh rất chăm
chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi
anh đến và ngon ngọt dỗ dành:
- Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm nữa, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau, nhờ công sức
anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu
chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác
trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ thân mật bảo anh trai cày:
- Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày ăn quả. Cơ
ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã sắp sẵn cỗ bàn
để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau: “Cái thằng ngốc ấy có đi quanh
năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”
Về phần anh trai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm mà chỉ thấy
những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm chục đốt. Anh buồn quá,
ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi: - Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:
- Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô: “Khắc nhập,
khắc nhập” thì sẽ có ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre dính liền nối
nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác về. Song, tre dài quá, vướng
bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trăm đốt có rồi, sao con còn khóc?
Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm hai bó, mừng rỡ gánh về.
Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết rõ là lão nhà
giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận lắm nhưng không nói năng
gì, lẳng lặng gấp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt
tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem. Anh đọc luôn:
“Khắc nhập, khắc nhập”. Lão tà dính liền ngay vào cây tre, không tài nào dứt ra được. Lão thông
gia thấy vậy chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc
nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm thiết, van lạy
anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho anh ngày hôm đó. Lúc bấy
giờ, anh mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây
tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.
Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, các bạn nhỏ ngồi quanh bà đều là lên: “Đáng đời cho
bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó đã làm em ngẫm nghĩ: Tụi nó nhỏ mà cũng biết suy xét
phải trái. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho mình, còn những người hiền lành, chăm
chỉ như anh trai cày sẽ được mọi người yêu quý và đạt được kết quả tốt đẹp.
Kể lại truyện cổ tích Em bé thông minh bằng lời văn của em
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Em bé thông minh bằng lời văn của em a. Mở bài
Giới thiệu câu chuyện Em bé thông minh b. Thân bài
- Kể lại câu chuyện theo trật tự phù hợp. Nhưng đảm bảo gồm các sự kiện chính sau:
Vua sai cận thần đi tìm người tài giỏi giúp nước.
Cận thần gặp hai cha con đang cày ruộng, và đưa ra câu hỏi oái oăm (trâu 1 ngày cày được mấy đường)
Cậu bé đã trả lời bằng một câu đố ngược lại khiến vị quan không biết trả lời thế nào (ngựa của
quan 1 ngày đi mấy đường).
Quan về tâu vua, vua tiếp tục ra câu đố mới (ban cho 3 con trâu đực và muốn đẻ thành 9 con)
Em bé đã để cả làng làm thịt trâu ăn và đố lại nhà vua khiến vua rất bất ngờ trước trí thông
minh của em (làm cho bố đẻ em)
Vua quyết định thử tài em bé lần 3 bằng cách đưa một con chim sẻ bắt dọn thành 3 cỗ thức ăn.
Em bé giải đố bằng cách đố lại vua khiến vua khâm phục trước tài trí của mình (rèn kim thành dao mổ chim)
Nước láng giềng muốn xâm chiếm bờ cõi, bèn dò la xem nước ta có người tài hay không nên
ra câu đố hóc búa mãi không ai giải được (xâu sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc)
Vua quan đều không giải được phải nhờ đến em bé mới giải được.
Em bé được phong là trạng nguyên. c. Kết bài
Những cảm nhận, suy nghĩ của em về câu chuyện
Bài văn kể lại một truyện cổ tích ngắn gọn - Em bé thông minh
Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài. Ngài đã ra lệnh
cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước. Khi đi đến một làng nọ, sứ giả
đã gặp được một cậu bé - nhân vật chính trong câu chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử
thách để chứng minh trí thông minh của mình.
Lần thứ nhất, cậu bé đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi được mấy
đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được mấy đường?” của ông. Lần
thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp,
yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh
thành, giả vờ yêu cầu vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử vì không thể yêu
cầu đàn ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để sinh
ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa chắc lắm, vua lại
thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một
cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé
là người tài. Ngay sau đó, sứ giả nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi
dây qua đường ruột ốc. Cả triều đình đều bó tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành
một bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã phong cậu làm trạng nguyên.
Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. Và hiểu được ý nghĩa, sự quý
trọng của người xưa đối với kiến thức, kinh nghiệm dân gian.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh mẫu 1
Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc ta, em rất thích các câu chuyện về những nhân vật có tài
trí hơn người. Trong đó, em thích nhất là câu chuyện Em bé thông minh.
Câu chuyện bắt đầu tại một làng nọ, có hai cha con tuy nghèo nhưng sống rất hạnh phúc. Đặc biệt
là người con trai, không chỉ ngoan ngoãn mà còn vô cùng thông minh. Một hôm, khi hai cha con
đang cày ruộng thì gặp sứ giả đến hỏi chuyện. Thì ra, ông ấy được nhà vua phía đi tìm kiếm người
những người hiền tài để xây dựng đất nước. Trước câu đố hóc búa của sứ giả, rằng con trâu kia
một ngày có thể cày được mấy đường. Thì cậu bé đã dễ dàng hóa giải khi thách đố ngược lại ông
ta rằng hãy nói xem ngựa của sứ giả một ngày đi được bao nhiêu bước. Sự tài trí đó của cậu bé đã
khiến cậu nhanh chóng được nhà vua chú ý đến. Tuy nhiên, nhà vua vẫn chưa yên tâm nên tiếp tục
thử tài cậu. Lần thứ nhất, vua đưa cho làng cậu bé ba con trâu đực cùng ba thúng gạo nếp, yêu cầu
sau một năm giao nộp chín con trâu. Tuy nhiên, cậu bé đã lên kinh, đố ngược lại nhà vua, rằng hãy
làm cho cha cậu sinh em bé. Còn số trâu và gạo nếp kia, cậu đã cùng ca rlangf đem ra ăn uống no
say rồi. Sự thông minh, nhanh nhạy của cậu làm vua rất thích thú. Tuy nhiên, ngài vẫn quyết định
thử tài cậu thêm lần nữa. Lần này, nhà vua đã yêu cầu cậu bé mổ một con chim sẻ để làm ra ba
mâm cỗ. Nhưng yêu cầu này chẳng làm khó được cậu. Ngay lập tức, cậu bé đem ra một chiếc kim
khâu và nhắn nhủ, nhờ nhà vua mài nó thành một con dao để mổ thịt chim. Đến lần này, thì nhà
vua hoàn toàn thán phục trước trí tuệ cao siêu của cậu.
Đúng thời gian đó, có sứ giả của nước láng giềng sang thăm. Mục đích là tra tim xem nước ta có
người tài hay không, để tiến hành xâm lược. Hắn đưa ra một câu hỏi vô cùng hóc búa để thực hiện
mục đích. Cả triều trình cùng nhau căng não nhưng không ai biết cách nào để đưa sợi chỉ mảnh
qua đường ruột ốc cả. ẤY vậy mà, ngay khi vừa nghe câu đố, em bé đã đưa ra được câu trả lời
ngay. Biết vậy, tên sứ giả vội trở về nước bẩm tấu, rằng không nên tấn công nước ta vì nước ta có
người rất tài giỏi. Sau lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên, và thường xuyên được nhà
vua mời sang hỏi về chuyện nước nhà.
Sau khi đọc câu chuyện Em bé thông minh, em rất khâm phục trí tuệ cao siêu, vốn hiểu biết sâu
rộng của cậu bé nhỏ tuổi. Và lấy đó làm động lực để cố gắng phấn đấu học tập tốt hơn nữa.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh mẫu 2
Những câu chuyện cổ tích về các nhân vật thông minh, nhanh trí luôn khiến em thích thú hơn mọi
câu chuyện khác. Vì vậy, em rất thích thú khi được nghe cô giáo kể truyện cổ tích Em bé thông minh.
Câu chuyện kể về một trạng nguyên vô cùng nhỏ tuổi với trí tuệ hơn người, được nhà vua hết sức
tin tưởng. Cả câu chuyện kể về bốn lần cậu bé hóa giải bốn câu đố oái oăm một cách nhẹ nhàng.
Khiến người đọc phải thán phục.
Lần thứ nhất, câu bé nhận được câu đố từ sứ giả của nhà vua. Rằng hãy cho ông ấy biết con trâu
của cậu một ngày cày được bao nhiêu đường. Ngay lập tức, cậu hỏi lại: Vậy ngài hãy cho tôi biết
con ngựa của ngài một ngày chạy bao nhiêu bước đã, rồi tôi sẽ trả lời ngày. Câu hỏi thông minh
của cậu khiến viên sứ giả giật mình, nhận ra ngay đây chính là nhân tài do nhà vua tìm kiếm.
Lần thứ hai và lần thứ ba, người ra câu đố chính là nhà vua. Và dĩ nhiên, các câu đố ấy đều oái
oăm vô cùng. Lần đầu, nhà vua ban cho làng cậu ba con trâu đực và ba con trâu nếp, yêu cầu một
năm sau phải nuôi làm sao cho có chín con trâu để đem nộp. Thế là, cậu bé bảo dân làng mổ trâu
ăn thịt thoải mái. Còn mình lên kinh thành để trả lời vua. Đến nơi, cậu làm ầm ĩ, đòi nhà vua bảo
bố đẻ em cho mình, để khiến nhà vua nhận ra rằng câu đố của nhà vua vô lý giống như đòi hỏi của
mình vậy. Tiếp đó, nhà vua yêu cầu em tạo ra ba mâm cỗ từ thịt của một chú chim sẻ nhỏ. Nghe
vậy, em liền nhờ nhà vua mài cho em một cái dao thật sắc từ một chiếc kim khâu. Qua hai lần thử
thách như vậy, nhà vua đã chịu công nhận tài trí của cậu bé.
Mấy hôm sau, sứ giả của nước láng giềng ghé thăm mang theo một câu đố vô cùng khó giải, đó là
xâu sợi chỉ mảnh xuyên qua ruột ốc. Cả triều đình suy nghĩ tới lui, vò đầu bứt tóc nhưng chẳng ai
nghĩ ra cách cả. Đương lúc tên sứ giả đang hả hê, thì nhà vua nhớ ra em bé thông minh. Ngay khi
người hầu đọc câu hỏi lên, thì em đã nghĩ ra câu trả lời, thậm chí còn hát thành một bài đồng dao.
Tên sứ giả vô cùng khiếp sợ trước trí thông minh của cậu bé, liền rút lui về nước, từ bỏ suy nghĩ
xâm chiếm nước ta. Nhờ vậy, cậu bé được phong làm trạng nguyên nhỏ tuổi nhất từ trước đến nay.
Em rất ngưỡng mộ trí thông minh hơn người của cậu bé trong câu chuyện cổ tích Em bé thông
minh. Đồng thời qua đó, em cũng hiểu được rằng, trí tuệ không chỉ đến từ sách vở mà còn đến từ
những chuyến đi hoạt động trong đời sống thực tiễn. Đúng như ông cha ta từng nói Đi một ngày
đàng, học một sàng khôn.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 1
Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống được tất cả người dân yêu mến và mong chờ. Và bánh
chưng, bánh giầy là hai món ăn đặc trưng, không thể thiếu vào ngày Tết. Để giải thích về ý nghĩa,
nguồn gốc của hai loại bánh này, ông cha ta thường kể cho con cháu mình nghe về truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy.
Truyền thuyết lấy bối cảnh vào thời vua Hùng Vương, khi vị vua đang cai trị đã đến tuổi già yêu,
muốn truyền ngôi cho con cái của mình. Theo ông, người làm vua cần phải kế thừa được tài đức,
lý tưởng của ông chứ không nhất thiết phải làm con trưởng. Điều đó gây nên một trận xôn xao
trong các hoàng tử. Cuối cùng nhà vua ra chỉ rằng: Vào ngày lễ tiên vương, ai làm ra được một
món ăn vừa ngon, lại ý nghĩa, được lòng tất cả mọi người thì sẽ được nối ngôi. Chiếu chỉ vừa ra,
tất cả các hoàng tử đều ra sức tìm kiếm những món ngon quý hiếm, sơn hào hải vị từ khắp nơi.
Chỉ mong làm hài lòng vua cha.
Trong lúc ấy, chỉ có người con trai thứ mười tám của ngài - hoàng tử Lang Liêu là chẳng làm gì
cả. Bởi chàng có cuộc sống rất khó khăn, thiếu thốn. Nhà chàng chỉ có thóc lúa là nhiều, chứ chẳng
có gì cả. Vậy nên, chàng tự bỏ mình ra khỏi cuộc đua dành ngôi báu. Một hôm trong khi nằm mơ,
chàng được một vị thần báo mộng, chỉ cho cách làm món bánh ngon, giàu ý nghĩa từ gạo nếp.
Nghe theo lời dạy của thần, Lang Liêu chọn thứ gạo nếp thơm lừng, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem
vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu
một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn,
nặn hình tròn. Đến ngày lễ tiên vương, món bánh của Lang Liêu trở thành món bánh vua cha ưng
ý nhất. Các cận thần cũng trầm trồ khen ngon. Đã thế món bánh còn rất giàu ý nghĩa, tượng trưng
cho sự hòa hợp của đất trời. Vì vậy, thuận lí thành chương, Lang Liêu được vua Hùng chọn trở
thành người kế vị. Cũng từ đó, cứ đến dịp Tết, nhân dân ta lại đem gạo nếp ra làm bánh chưng,
bánh giầy để đặt lên mâm thờ tổ tiên.
Tục lệ ấy đến bây giờ vẫn còn được giữ. Bởi món bánh ấy không chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa
nữa. Nếu thiếu đi bánh chưng thì nghĩa là cái Tết ấy chẳng còn trọn vẹn nữa rồi.
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 2
Trong những truyền thuyết mà em đã được học, em thích nhất là truyền thuyết Bánh chưng bánh
giầy. Không chỉ bởi đây là một câu chuyện thú vị, mà còn bởi vì nó nhắc đến một truyền thống tốt
đẹp vẫn được nhân dân ta lưu giữ từ ngàn đời nay.
Nhân vật chính của truyền thuyết đó là hoàng từ Lang Liêu. Chàng là con trai thứ mười tám của
Vua Hùng. Tuy là hoàng tử, nhưng do mẹ mất sớm lại không được vua cha quan tâm. Nên từ nhỏ
chàng không được sống trong nhung lụa như những hoàng tử khác. Trái lại, chàng sống gần gũi
với thiên nhiên, với những người nông dân. Trong nhà chàng chỉ có thóc lúa là nhiều, chứ người
hầu hay của cải, vàng bạc vô cùng ít ỏi. Vậy nên, khi nghe tin vua cha muốn tìm người nối ngôi,
thông qua thử thách tìm ra món ngon nhất để thờ Tiên Vương. Thì chàng đã chẳng dám nghĩ đến
việc chiến thắng. Bởi các hoàng tử khác ra lệnh cho quân lính đi khắp nơi tìm sơn hào hải vị còn chàng thì chẳng có gì.
Khi chàng đang trong tận cùng của sự chán nản, thì trong một lần ngủ say, chàng đã gặp được sự
chỉ dẫn của thần. Thần dạy cho chàng biết được, thứ lương thực quý giá nhất trên đời này chính là
hạt gạo chứ không phải món nào khác. Rồi chỉ cho chàng cách nấu món bánh từ gạo nếp sao cho
thơm ngon nhất. Nghe theo lời dạy của thần, sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, chàng ngay lập tức
bắt tay vào nấu bánh. Đầu tiên, chàng vào trong kho, tìm kiếm từng hạt gạo nếp, sao cho hạt nào
cũng thật trắng trẻo, tròn đầy. Rồi đem đi vo thật sạch, không chút bụi bẩn nào. Sau đó chọn miếng
thịt lợn thật tươi ngon, cùng với đỗ xanh làm nhân. Bên ngoài dùng lá dong gói lại, bọc thành hình
vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ, quyện hết vào nhau. Sau đó, để thêm phong phú, vẫn
là những hạt gạo nếp được lựa chọn kĩ càng ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn nặn thành hình tròn đầy đặn như mặt trăng.
Đến ngày lễ Tiên vương, hai món bánh của Lang Liêu được vua cha và các viên quan hết lời khen
ngợi vì không chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa. Sau một hồi ngẫm nghĩ, vua Hùng nhận xét “Bánh
hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu
xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để
trong là ngụ ý đùm bọc nhau”. Nói rồi, ngài đưa ra quyết định “Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với
ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám”.
Sau khi lên ngôi vua, Lang Liêu trở thành một vị vua yêu dân như con được người người kính
trọng. Hai món bánh của chàng cũng trở thành thứ không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp Tết
đến xuân về. Đến tận bây giờ, Tết năm nào, em cũng được cùng bố ngồi bên bếp lửa nấu nồi bánh
chưng. Đó là niềm vui mà khó câu chữ nào có thể tả xiết.
Chuyên mục Ngữ Văn 6 sách Chân Trời Sáng Tạo tập 1 bao gồm đầy đủ các bài soạn cả năm học
để các em học sinh có thể chuẩn bị bài tốt nhất cho các chương trình học trên lớp. Tất cả các tài
liệu tại đây đều được Tải miễn phí về sử dụng.
Kể lại truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em (12 mẫu)
Hướng dẫn tìm hiểu đề bài:
Đề yêu cầu kể nội dung gì?
Đề yêu cầu viết theo kiểu bài gì? Văn tự sự
Dựa vào yếu tố nào em biết đề yêu cầu viết theo kiểu tự sự?
Thông thường dàn bài gồm mấy phần? Nhiệm vụ của từng phần?
Mở bài cần giới thiệu điều gì?
Thân bài cần nêu những chi tiết nào?
Các chi tiết phải sắp xếp như thế nào?
Kết thúc câu chuyện kể như thế nào?
Dàn ý Kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em a. Mở bài:
Giới thiệu nhân vật Lạc Long Quân và Âu Cơ. b. Thân bài:
Âu Cơ và Lạc Long Quân gặp nhau, đem lòng yêu thương và trở thành vợ chồng.
Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con.
Lạc Long Quân từ biệt Âu Cơ và đưa 50 con trở về biển.
Âu Cơ đưa 50 con lên rừng.
Người con trưởng theo Âu Cơ được tôn làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương. c. Kết bài:
Cũng bởi sự tích này mà về sau người Việt Nam ta thường xưng là con Rồng cháu Tiên.
Kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em mẫu 1
Thuở xưa ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai của thần Long Nữ sống ở
dưới biển Đông. Thần hình rồng, sức khỏe phi thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng thần lên
sống trên cạn, giúp dân diệt trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ tinh, Mộc Tinh. thần còn dạy
dân cách trồng trọt và sinh sống. Âu cơ là một tiên nữ dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương
Bắc. Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu
nhau rồi kết thành vợ chồng. Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người
con khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng cần bú mớm mà đàn con lớn nhanh như thổi, khỏe mạnh
như thần. Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn được, Lạc Long
Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thủy cung. Âu Cơ một mình nuôi con. Ngày lại ngày qua,
nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi chồng lên mà than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con?! Lạc Long Quân ân cần giải thích:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng tiên ở chốn non cao. Kẻ trên cạn người dưới
nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta đưa
năm mươi con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ
miền núi, người miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn. Âu Cơ
nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người con trưởng được tôn làm vua, lấy
hiệu là Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạc Hạc, Lâm Thao,
Phú Thọ ngày nay). Triều đình có quan văn, quan võ (Lạc tướng, Lạc hầu). Con trai của vua gọi
là lang, con gái vua gọi là mị nương. Vua cha chết, con trai trưởng nối ngôi. Mười tám đời vua kế
tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương. Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn
gốc cao quý của mình là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều
là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn
nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
Kể lại câu chuyện Con Rồng cháu Tiên bằng lời văn của em mẫu 2
Các bạn có biết vì sao nhân dân ta tự xưng là con Rồng cháu Tiên hay không? Điều đó có liên
quan đến câu chuyện sau đây:
“Ngày xưa, ngày xửa từ lâu lắm rồi, ở vùng đất Lạc Việt, nay là Bắc Bộ nước ta có một vị thần.
Thần là con của Thần Long Nữ, tên là Lạc Long Quân. Thần mình rồng sức khỏe vô địch, thường
sống ở dưới nước. Thần giúp dân diệt trừ yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh… Thần còn
dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi và dạy dân cách ăn ở sao cho đúng nghĩa.. Khi làm xong thần
trở về Thủy cung sống với mẹ lúc có việc cần mới hiện lên.
Bấy giờ, ở vùng núi cao phương Bắc, có vị tiên xinh đẹp tuyệt trần là con gái Thần Nông tên là
Âu Cơ. Nàng nghe nói ở vùng Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ bèn tìm đến thăm. Lạc Long Quân
và Âu Cơ gặp nhau đem lòng yêu nhau rồi trở thành vợ chồng chung sống ở Long Trang. Chung
sống với nhau được chừng một năm, Âu Cơ mang thai. Đến kỳ sinh nở, Âu Cơ sinh ra một cái bọc
trăm trứng, trăm trứng nở ra một trăm đứa con da dẻ hồng hào. Không cần bú mớm mà vẫn lớn
nhanh như thổi mặt mũi khôi ngô tuấn tú, đẹp đẽ như thần. Cuộc sống hai vợ chồng đã hạnh phúc
lại càng hạnh phúc hơn.
Một hôm, Lạc Long Quân chợt nghĩ mình là dòng giống nòi rồng sống ở vùng nước thẳm không
thể sống trên cạn mãi được. Chàng bèn từ giã vợ và và con về vùng nước thẳm. Âu Cơ ở lại chờ
mong Lạc Long Quân trở về, tháng ngày chờ đợi mỏi mòn, buồn bã. Nàng bèn tìm ra bờ biển, cất tiếng gọi:
- Chàng ơi hãy trở về với thiếp.
Lập tức, Lạc Long Quân hiện ra. Âu cơ than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp mà đi, không ở lại cùng thiếp nuôi dạy các con nên người?
Lạc Long Quân bèn giải thích:
- Ta vốn dĩ rất yêu nàng và các con nhưng ta là giống nòi Rồng, đứng đầu các loài dưới nước còn
nàng là giống tiên ở chốn non cao. Tuy âm dương khí tụ mà sinh con nhưng không sao đoàn tụ
được vì hai giống tương khắc như nước với lửa. Nay đành phải chia lìa. Ta đem năm mươi người
con xuống biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Khi có việc cần
phải giúp đỡ lẫn nhau, đừng bao giờ quên lời hẹn này.
Rồi Lạc Long Quân đưa năm mươi người con xuống nước còn Âu Cơ đưa năm mươi người con lên núi.
Người con trai trưởng đi theo Âu Cơ sau này được tôn lên làm vua và đặt tên nước là Văn Lang,
niên hiệu là Hùng Vương. Mỗi khi vua chết truyền ngôi cho con trai trưởng. Cứ cha truyền cho
con tới mười mấy đời đều lấy niên hiệu là Hùng Vương.”
Do vậy, cứ mỗi lần nhắc đến nguồn gốc của mình Người Việt chúng ta thường tự xưng là con
Rồng cháu Tiên và thân mật gọi nhau là đồng bào vì ai cũng nghĩ mình là cùng một bọc sinh ra
cho nên người trong một nước phải thương yêu nhau như vậy. Câu chuyện còn suy tôn nguồn gốc
cao quý thiêng liêng của cộng đồng người Việt và tự hào về nguồn gốc của dân tộc mình.
Kể lại truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em (20 mẫu)
Dàn ý Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em a. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh”.
b. Thân bài (diễn biến sự việc)
Mở đầu: Vua Hùng Vương có con gái tên Mị Nương.
Thắt nút: Vua tìm gả chồng cho con.
Phát triển: Sơn Tinh, Thủy Tinh đến tranh tài.
Mở nút: Sơn Tinh đến trước lấy được Mị Nương.
Kết thúc: Thủy Tinh đánh Sơn Tinh.
c. Kết bài. Ý nghĩa câu chuyện: Hiện tượng lũ lụt.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em mẫu 1
Vào mỗi cuối tuần, em được bố mẹ cho về quê chơi. Ở quê có rất nhiều trò chơi thú vị, nhưng em
thích nhất chính là được nghe bà kể cho những câu chuyện hấp dẫn. Trong những câu chuyện mà
bà kể thì em thích nhất là câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là một truyền thuyết có từ thời rất xa xưa. Câu chuyện lấy bối cảnh ở nước
ta vào thời Hùng Vương thứ mười tám. Ông ấy có một người con gái rất xinh đẹp, tính nết hiền
dịu tên là Mị Nương. Năm nàng trưởng thành, vua Hùng muốn tìm cho nàng một người chồng thật
xứng đáng. Thế nên nhiều chàng trai tuy muốn cưới nàng làm vợ đã chùn bước. Một hôm, có hai
chàng trai cùng đến cầu hôn. Cả hai đều khôi ngô tuấn tú và có nhiều phép lạ. Một người là Sơn
Tinh - đến từ vùng núi Tản Viên, khi chàng vẫy tay thì phía Đông nổi lên cồn cát, phía Tây mọc
lên từng dãy núi đồi. Một người là Thủy Tinh - đến từ vùng biển, có khả năng hô mưa gọi gió. Hai
chàng ngang sức ngang tài, khiến nhà vua khó đưa ra quyết định. Vì vậy, vua Hùng đã họp bàn
với các Lạc Hầu và đưa ra quyết định: Nếu ai đem đủ các sính lễ được yêu cầu đến trước, thì sẽ
được cưới nàng Mị Nương. Sinh lễ bao gồm: “Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng
và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.”
Ngày hôm sau, khi trời vừa tờ mờ sáng, thì Sơn Tinh đã đem đủ sính lễ đến và rước nàng Mị
Nương về núi. Thủy Tinh đến sau, không cưới được vợ thì vô cùng tức giận nên đem quân đuổi
theo Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Thủy Tinh hô mưa gọi gió tạo thành dông bão làm rung
chuyển cả đất trời. Thần dâng nước lên cao, ngập cả nhà cửa, lưng đồi, sườn núi, ngập hết cả thành
Phong Châu khiến nhân dân điêu đứng. Trước tình thế đó, Sơn Tinh dùng phép lạ bốc từng quả
đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, giúp nhân dân ngăn dòng nước lũ. Hai bên đánh nhau
suốt mấy tháng trời. Thủy Tinh dâng nước lên cao bao nhiêu, thì Sơn Tinh nâng đồi núi cao lên
bấy nhiêu. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức, đành phải rút quân dù không cam lòng. Thế nên, hằng
năm, Thủy Tinh đều dâng nước, làm gió làm mưa đánh Sơn Tinh. Nhưng không bao giờ chiến thắng được.
Sau khi bà kể xong, bố em ngồi ở bên cạnh đã giải thích thêm cho em về ý nghĩa của câu chuyện.
Thì ra đây không phải là một câu chuyện có thật ở trong lịch sử. Mà nó được nhân dân sáng tác ra
để giải thích cho hiện tượng lũ lụt hằng năm. Đồng thời, nó còn chứa đựng những mong muốn,
khát vọng chế ngự thiên tai của người dân ngày xưa. Thật là một câu chuyện thú vị.
Kể lại câu chuyện Sơn Tinh, Thủy Tinh bằng lời văn của em mẫu 2
“Âm... ầm...ầm”. Từng đợt sóng biển đập vào vách đá gợi cho em nhớ đến cuộc giao tranh ác liệt
giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Đây là một truyện rất hay mà em luôn nhớ từ thuở ấu thơ. Câu chuyện
này đã được bà ngoại em kể vào những đêm trăng sáng khi mọi người ngồi xúm xít trước sân nhà.
Bà kể rằng vào thuở xa xưa, thời vua Hùng Vương thứ mười tám, vua có một người con gái tên là
Mị Nương sắc đẹp như tiên giáng trần. Nhà vua rất thương con nên muốn tìm gả cho nàng một
người chồng tài ba, tuấn tú
Lệnh vua vừa ban ra, các chàng trai từ khắp nơi đều đổ về cầu hôn. Trong số đó, nổi bật nhất là
hai chàng trai Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sơn Tinh dời núi Ba Vì. Chàng vừa tuấn tú lại vừa tài giỏi
khác thường: Chỉ tay về phía đông, phía đông biến thành đồng lúa xanh; chỉ tay về phía tây, phía
tây mọc lên hàng dãy núi. Còn Thủy Tinh ở tận miền biển Đông, tài giỏi cũng không kém: Gọi
gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Cả hai cùng ngang sức ngang tài và đều xứng đáng với Mị Nương.
Vua Hùng rất băn khoăn không biết chọn ai, bỏ ai. Vua liền triệu tập các quan vào bàn bạc nhưng
cũng chẳng có ai nghĩ ra một kế gì hay. Cuối cùng, vua nghĩ ra được một cách và cho vời hai chàng trai vào mà phán rằng:
- Ta đều vừa ý cả hai người nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy vào rạng sáng ngày mai ai
mang lễ vật đến trước thì ta gả con gái cho. Lễ cưới phải có đủ: một trăm ván cơm nếp, hai trăm
cặp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Mới sáng sớm tinh mơ, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến trước. Vua Hùng giữ đúng lời hứa liền
gả Mị Nương cho Sơn Tinh và hai vợ chồng đưa nhau về núi.
Thủy Tinh mang lễ vật đến sau nên không cưới được vợ. Tức giận vô cùng, Thủy Tinh liền đùng
đùng mang quân đuổi theo quyết cướp dược Mị Nương. Khi thấy vợ chồng Sơn Tinh lên núi, Thủy
Tinh hô mưa, gọi gió, làm thành giông bão, sấm sét rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên
cuồn cuộn. Nước ngập lúa ngập đồng, ngập nhà, ngập cửa..
Sơn Tinh không nao núng một chút nào. Một mặt, chàng dùng phép bốc cao từng quả đồi, dời từng
dãy núi để ngăn chặn dòng nước lũ. Nước dâng cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi núi mọc
cao lên bấy nhiêu. Mặt khác, chàng tung ra đội quân sư tử, voi, cọp báo... để chống lại đoàn quân
thuồng luồng, cá, tôm, cua... của Thủy Tinh. Hai bên đánh nhau ác liệt hết ngày này qua ngày khác
ròng rã suốt mấy tháng liền. Thiệt hại người và của vô số kể. Cuối cùng, Thủy Tinh cũng đành
thua trận rút quân về biển.
Với lòng hận thù triền miên nên từ đó về sau không năm nào Thủy Tinh không làm mưa bão, dâng
nước lên để đánh Sơn Tinh, gây nên cảnh lụt lội, phá hoại nhà cửa, mùa màng của nước ta. Song,
lần nào cũng vậy, Thủy Tinh luôn thua trận và đành phải rút lui.
Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh thật
ác liệt phải không các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra hằng năm suốt
mùa mưa ở khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, truyện còn nói lên ước mơ của người dân
muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao động của mình. Các cháu có hiểu không?”
Kể lại truyền thuyết Thánh Gióng bằng lời văn của em (10 mẫu)
Dàn ý Kể lại câu chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em a. Mở bài
Giới thiệu truyền thuyết “Thánh Gióng”.
b. Thân bài (Diễn biến sự việc)
- Mở đầu: Đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng …
- Thắt nút: Giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. - Phát triển:
Nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
Đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con người sắt và một tấm áo giáp sắt”.
- Mở nút: Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng nhiên biến thành tráng sĩ.
- Kết thúc: Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. c. Kết bài
Ý nghĩa câu chuyện: Tinh thần đoàn kết chống giặc cứu nước.
Kể lại câu chuyện Thánh Gióng bằng lời văn của em mẫu 1
Cuối tuần vừa rồi, em cùng bạn đến thư viện để đọc truyện. Ở đó, em đã đọc được nhiều câu
chuyện hay và ý nghĩa. Nhưng câu chuyện làm em ấn tượng nhất chính là truyền thuyết Thánh Gióng.
Câu chuyện kể về Thánh Gióng - một anh hùng có cuộc đời chứa nhiều điều kì bí, huyền ảo. Theo
truyện, Thánh Gióng sinh sống ở đời Hùng Vương thứ sáu. Gióng được mẹ sinh ra sau khi mang
thai mười hai tháng. Bởi bà đã ướm thử bàn chân của mình lên một vết chân rất to. Khi sinh ra,