Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em | Văn mẫu lớp 6 Chân trời sáng tạo

“Cây tre trăm đốt” là câu chuyện cổ tích không chỉ hấp dẫn, thú vị, mà còn chứa đựng bài học ý nghĩa về phẩm chất con người trong cuộc sống. Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng trai khỏe mạnh, thông minh và chăm chỉ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

Chủ đề:

Văn mẫu 6 266 tài liệu

Môn:

Ngữ Văn 6 1.8 K tài liệu

Thông tin:
30 trang 4 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em | Văn mẫu lớp 6 Chân trời sáng tạo

“Cây tre trăm đốt” là câu chuyện cổ tích không chỉ hấp dẫn, thú vị, mà còn chứa đựng bài học ý nghĩa về phẩm chất con người trong cuộc sống. Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng trai khỏe mạnh, thông minh và chăm chỉ. Tài liệu được sưu tầm và soạn thảo dưới dạng file PDF để gửi tới các bạn sinh viên cùng tham khảo, ôn tập đầy đủ kiến thức, chuẩn bị cho các buổi học thật tốt. Mời bạn đọc đón xem!

41 21 lượt tải Tải xuống
Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em Ngắn gọn
(13 mẫu)
“Cây tre trăm đốt” câu chuyện cổ tích không chỉ hấp dẫn, thú vị, còn chứa
đựng bài học ý nghĩa về phẩm chất con người trong cuộc sống.
Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng trai khỏe mạnh, thông minh chăm chỉ.
Biết được điều đó, phú ông đã chủ động gọi anh đến trò chuyện, rồi hứa rằng nếu
anh làm việc không công cho nhà ông ba năm, thì sẽ gả con gái cho anh. Vốn phải
lòng con gái phú ông từ trước, anh Khoai hăm hở đồng ý ngay. Suốt ba năm, anh
làm việc chăm chỉ từ sáng sớm đến tối muộn, không nghỉ một ngày nào. Nhờ vậy
nhà phú ông thêm rất nhiều của cải. Nhưng khi đến ngày thực hiện lời hứa,
ông ta lại tìm cách đẻ lật lọng. Ông lừa anh Khoai đi tìm một cây tre trăm đốt làm
sính lẽ, rồi nhà tổ chức đám cưới cho con gái mình với con trai phú ông làng bên.
Nhưng ông ta không ngờ được rằng, anh Khoai thực sự đã mang về được một cây
tre trăm đốt. Đó nhờ ông Bụt dạy cho anh câu thần chú ghép một trăm đốt tre lại
với nhau. Kết quả, khi đám cưới đang diễn ra, thì anh Khoai đã về đến cửa nhà phú
ông. Thấy tình hình trên sân, anh tức giận cùng, liền đọc câu thần chú để ghép
một trăm đốt tre lại, rồi dính cả phú ông vào. Ông ta vừa xấu hổ vừa đau đớn, bèn la
lên tìm người cứu giúp. Phú ông làng bên thấy thế, toan nhảy vào cứu, nhưng cũng
bị dính chặt vào thân tre. Cuối cùng, phú ông bèn xin anh Khoai thả mình ra, rồi sẽ
thực hiện lời hứa gả con gái cho anh ngay. Đến lúc này, anh mới đọc thần chú cho
các khúc tre rời nhau ra. Sau đó, anh Khoai như ý nguyện được làm đám cưới với
con gái phú ông. Từ đó, hai vợ chồng họ chung sống hạnh phúc bên nhau.
Câu chuyện đã đem đến tiếng cười giải trí cho người đọc qua tình huống của phú
ông gian xảo. Đó còn bài học ý nghĩa cho người đọc, rằng phải sống trung thực,
chớ lọc lừa, thất hứa với người khác.
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em (6 mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích Tấm Cám - một câu chuyện cổ tích hay
đặc sắc của dân tộc ta.
b. Thân bài: Kể lại nội dung truyện Tấm Cám theo các diễn biến của câu chuyện,
gồm các sự kiện sau:
Sự kiện 1: Tấm mồ côi cha mẹ, sống với ghẻ con của ta Cám.
bị bắt làm việc vất vả, quần quật sớm hôm
Sự kiện 2: Một hôm, ghẻ treo thưởng chiếc yếm mới cho người bắt được
nhiều tôm tép hơn. Vốn chăm chỉ nên giỏ tép đầy, nhưng Tấm bị Cám lừa
lấy mất, chỉ còn lại 1 chú bống nhỏ
Sự kiện 3: Tấm nuôi bống trong giếng, nhưng bị ghẻ Cám bắt ăn thịt.
Nhờ Bụt, tìm được xương bống, rồi chôn vào để góc giường
Sự kiện 4: Từ hũ, Tấm áo quần đẹp đi trảy hội, trở thành vợ vua
Sự kiện 5: Giỗ cha, Tấm từ cung về làm cỗ, tự trèo lên cây hái cau, bị mụ
ghẻ chặt cây, hại chết
Sự kiện 6: Cám mặc áo chị vào cung hầu vua, 3 lần liên tiếp hại hóa thân của
Tấm chim vàng anh, cây xoan, khung cửi
Sự kiện 7: Lần thứ 4, Tấm hóa thân thành cây thị, rồi trở về hình hài con
người trong quả thị, sống với cụ bán nước
Sự kiện 8: Một lần, vua đi qua quán nước, nhận ra Tấm nhờ miếng trầu têm
cánh phượng, thế 2 vợ chồng đoàn tụ với nhau
Sự kiện 9: Tấm về cung sống hạnh phúc cùng nhà vua, còn 2 mẹ con Cám
thì bị trừng phạt thích đáng
c. Kết bài:
Nêu ý nghĩa, bài học của câu chuyện cổ tích Tấm Cám
Suy nghĩ, nhận xét, tình cảm của em dành cho câu chuyện đó
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em lớp 6
Truyện cổ tích Tấm Cám một câu chuyện từ rất lâu, đã đồng hành với biết
bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính Tấm dịu dàng, nết na.
Tấm mồ côi mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể sống
một mình với ghẻ người con riêng của Cám. Biết bao đau khổ của đời
Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.
Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị ghẻ bắt làm việc quần
quật suốt ngày, lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, ta lấy
chiếc yếm đào mới để tổ chức cho Tấm Cám thi cua bắt ốc. nhiên với tính
chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã
bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về nhà trước. Chờ Tấm
lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở, thì ông
Bụt hiện lên dặn mang bống về nuôi.
Tấm nuôi trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho ăn, hát
bài hát riêng của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ ghẻ độc ác đã rình
nghĩ ra kế xấu. Mụ ta lừa Tấm đi chăn trâu đồng xa, rồi nhà bắt chước Tấm
gọi bống lên ăn thịt. Ăn xong, mụ chôn xương góc bếp. Chờ đến lúc Tấm
về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn cục máu đỏ tươi thôi. Buồn
bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy nắm thóc cho ăn,
để bới đất tìm xương bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn chiếc
bình, đặt chân giường.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy
hội. Tấm cũng hớn hở theo. xin ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, ta bắt
phải nhặt hết một đống đầy hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội.
Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến
giúp Tấm. Nhờ vậy, nhanh chóng hoàn thành xong công việc ghẻ giao. Nhưng
bây giờ, lấy mặc để đi hội, khi chỉ toàn những bộ trang phục rích? Thấy
băn khoăn, ông Bụt bảo lấy những chiếc bình chân giường lên. Chao ôi, bên
trong bộ váy đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.
váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, đánh rơi
một bên giày xuống nước. Người đến hội đông quá, không sao xuống tìm giày
được. Đúng lúc đó, voi của vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu
đi. Vua cho lính xuống lên, ngắm đôi giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày
ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao gái đến thử vận may, nhưng chẳng ai vừa cả.
Đến lượt Tấm, vừa đi thử vừa ngay như in. Thế Tấm trở thành hoàng hậu.
Tuy trở thành vợ vua, nhưng Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày
nào. Năm đó, đến giỗ cha, xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, tự tay mình
chuẩn bị một mâm cũng tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ ghẻ nhờ Tấm trèo
lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc trên cau thì chặt gốc, khiến ngã xuống
ao rồi qua đời.
Nhờ phép lạ, Tấm không chết hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý
vàng anh lắm, đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám - kẻ mặc áo của Tấm
vào cung để thay chị hầu vua ghen tức cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám
bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim góc vườn. Từ đống lông chim ấy, mọc lên một
cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. dưới bóng mát của cây, vua cảm thấy rất
thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi. Ghen
tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi.
Nhưng mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo kẽo kẹt những tiếng chửi
mắng đáng sợ khiến ta khiếp vía. Nên ta cho người đốt khung cửi thành tro,
rồi đem ra đổ ngã thật xa cung vua.
Cám cứ tưởng thế xong nên hả lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây
thị to lớn, rồi cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. bán
nước gốc cây thấy vậy đã xin cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, hứa không
ăn quả. Thế quả thị rớt vào bị của bà. Từ hôm đó, chờ cụ đi vắng, Tấm từ
trong quả thị bước ra, giúp việc nhà, cơm nước. cụ thấy lạ, nên rình xem
phát hiện ra cô. đã ôm chầm lấy Tấm xin được nhận làm con nuôi. Từ đó,
hai người trở thành mẹ con của nhau.
Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân quán nước của cụ. Nhìn những miếng
trầu cánh phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn
thấy nhau, hai người mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau
đó, Tấm theo vua về cung, chung sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi
biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em (6
mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em
1. Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh gia đình sự mang thai lạ của mẹ Sọ Dừa.
2. Thân bài
Hình thù dị của Sọ Dừa.
Sọ Dừa đi cho nhà phú ông.
út phát hiện ra Sọ Dừa một chàng trai tuấn tú.
Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
Sọ Dừa cưới sống hạnh phúc cùng út.
Sọ Dừa đi thi.
út bị hai chị hãm hại.
3. Kết bài: Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 1
Trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam, thì Sọ Dừa một trong những câu
chuyện hay ấn tượng nhất em được biết.
Câu chuyện kể về cuộc đời với nhiều điều lạ của Sọ Dừa. Mẹ chàng nhờ uống
nước trong một cái sọ dừa mang thai rồi sinh ra chàng. Khi mới sinh ra, chàng
hình dáng lạ, mình tròn lông lốc như trái dừa, nên mới được mẹ đặt tên cho
Sọ Dừa.
Tuy bề ngoài lạ, nhưng Sọ Dừa rất yêu thương mẹ ngoan ngoãn. Chàng chủ
động xin được đi chăn cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Nhờ tài thổi sáo, chàng
không chỉ chăn đàn không mất con nào, còn khiến chúng béo tốt, mũm mĩm.
Trong quá trình đó, út hiền lành đã phải lòng chàng sau nhiều lần đi đưa cơm.
Thế là, Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho mình. Điều bất ngờ, chàng
đã chuẩn bị đầy đủ những sính lễ phú ông yêu cầu, để cưới được con gái ông
ta. Đến ngày, điều ngạc nhiên hơn nữa đã xảy ra, khi Sọ Dừa tổ chức đám tiệc linh
đình, với kẻ hầu người hạ tấp nập. Còn chàng thì trở về lốt người, khôi ngô tuấn tú.
Sau khi kết hôn, Sọ Dừa chăm chỉ dùi mài kinh sử thi đỗ trạng nguyên. Ít lâu sau,
chàng còn vinh dự được nhà vua tin tưởng, cử đi sứ. Điều này khiến cho hai chị
của vợ chàng ghen ăn tức ở, quyết hãm hại em. Hai ta mời em gái đi chơi
thuyền, rồi đẩy em xuống sông, nhằm cướp chồng. Nhưng may thay, nhờ những đồ
vật Sọ Dừa trước khi đi dặn luôn mang theo, út sống sót trên hoang đảo.
Rồi một ngày, tàu của quan trạng đi qua, gặp được vợ đón về nhà.
Cuối cùng, người tốt như Sọ Dừa út được sống hạnh phúc bên nhau. Còn kẻ
xấu xa, nham hiểm như hai chị, thì phải bỏ đi biệt xứ. Đó cũng chính ước
của nhân dân ta ngày xưa, về một hội công bằng, hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 2
Ngày xưa, hai vợ chồng một lão nông nghèo đi cho nhà một phú ông. Họ hiền
lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi chưa lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa
bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà,
mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. sinh ra một đứa con không chân tay, mình mẩy
cứ tròn lông lốc như một quả dừa. buồn, toan vứt đi thì đứa lên tiếng bảo.
- Mẹ ơi! Con người đấy! Mẹ đừng vứt con tội nghiệp. lão thương tình để lại
nuôi rồi đặt tên cho cậu Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. mẹ lấy làm
phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi thì ít tốn cơm, công
lại chẳng đáng bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn rất giỏi. Ngày
ngày, cậu lăn sau đàn ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn về nhà. Cả đàn bò, con
nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba con gái thay phiên
nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai chị kiêu kì, ác nghiệt
thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ em vốn tính thương người đối đãi với Sọ Dừa
tử tế.
Một hôm đến phiên út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, bỗng nghe
thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn
đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới
đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc đấy. Nhiều lần như
vậy, út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ.
lão thấy vậy tỏ ra cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, cũng chiều
lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười
con lợn béo, mười rượu tăm đem sang đây.
lão đành ra về, nghĩ phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày
hẹn, bỗng dưng trong nhà đầy đủ mọi sính lễ, lại ca gia nhân dưới nhà chạy
lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba con
gái ra hỏi ý. Hai chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ
út cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp
nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu đâu chỉ thấy một chàng trai
khôi ngô tuấn đứng bên út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt
mừng rỡ, còn hai chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế,
Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách quả nhiên
năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa
được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao
hai quả trứng nói để hộ thân.
Ganh tị với em, hai chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm
trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế
lừa đẩy em xuống nước. út bị kình nuốt chửng, nhưng may con dao
thoát chết. dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng chui ra, đánh đá lấy lửa
nướng thịt ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp cũng kịp nở thành một đôi
đẹp để làm bạn cùng út.
Một hôm chiếc thuyền đi qua đảo, con trống nhìn thấy bèn gáy to:
Ò... ó... o
Phải thuyền quan trạng rước tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau,
mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời con đến chia
vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai chị thấy thế khấp khởi
mừng thầm, tranh nhau kể chuyện em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng
không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai chị nhìn thấy em thì xấu hổ quá,
lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện cổ tích Thạch Sanh bằng lời văn của em (9
mẫu)
Dàn ý Kể lại câu chuyện Thạch Sanh bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích “Thạch Sanh”.
b. Thân bài (diễn biến sự việc)
- Mở đầu: Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Thắt nút: thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng.
- Phát triển:
Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Thông cướp công.
Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Mở nút: Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ.
Vua tìm ra sự thật, kết tội Thông.
- Kết thúc: Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không
được, kéo sang đánh
c. Kết bài: Ý nghĩa câu chuyện: “Ở hiền gặp lành” “ác giả ác báo”.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 1
Trong các câu chuyện cổ tích em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích
nhất chính truyện cổ tích Thạch Sanh.
Câu chuyện kể về cuộc đời của Thạch Sanh - một chàng trai dũng cảm, tốt bụng
tài năng. Chàng vốn thái tử trên thiên đình, được Ngọc Hoàng phái xuống làm
con của hai vợ chồng già tốt bụng. Cha chàng qua đời trước khi chàng được sinh ra.
Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố thân,
lủi thủi trong một túp lều dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng một lưỡi búa
của cha để lại. Năm chàng biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho
chàng đủ các môn nghệ mọi phép thần thông.
Thạch Sanh người luôn khát khao mái ấm gia đình. vậy, chàng đã bị Thông
lừa gạt, đến sống chung làm lụng giúp đỡ mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn
bị Thông lừa đến miếu thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ
nghệ phép thần thông, Thạch Sanh đã giết chết chặt đầu chằn tinh mang về.
Lần này, chàng lại bị Thông lừa gạt cướp công giết chằn tinh, còn bản thân thì lại
trở về lủi thủi một mình dưới gốc đa.
Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một gái
bay ngang qua. Thế Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần
theo vết máu đuổi tới hang của đại bàng, nhằm tìm cách cứu gái. Tuy biết
được hang của đại bàng, nhưng Thạch Sanh vẫn chưa tìm ra cách cứu gái
cái hang quá sâu, một mình chàng thì không đưa gái lên được. Đúng lúc đó,
chàng gặp lại Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, gái đó
chính công chúa, nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu ai cứu được công chúa sẽ
được cưới nàng nối ngôi vua. Thạch Sanh không chút nghi ngờ, lập tức dẫn
Thông quân lính đến hang đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa
lên trước. Đến lượt chàng, Thông sai quân lính lấp cửa hang lại. Đến lúc này
chàng mới nhận ra bộ mặt độc ác, xảo trá của hắn.
Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong
quá trình đó, chàng gặp mặt cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó,
chàng được mời xuống thủy cung được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng
với tính cách thật thà, chàng chỉ xin nhận một cây đàn rồi lại trở về túp lều dưới
gốc đa.
Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau khi làm việc mệt
mỏi thì chàng lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vẳng đến cung
công chúa, khiến nàng bật cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại
bàng, công chúa lúc nào cũng rũ, buồn bã. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch
Sanh vào cung để truy hỏi cho ràng. Đến nơi, Thạch Sanh kể sự tình cho mọi
người. Đến đây, sự thật được phơi bày. Mẹ con Thông bị đem ra xử phạt, còn
Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho
mẹ con Thông để họ về quê. Nhưng trên đường về họ bị sét đánh trúng
biến thành bọ hung.
Sau khi đám cưới của Thạch Sanh công chúa diễn ra thì hoàng tử các nước chư
hầu đem quân sang tấn công nước ta ganh ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho
mình được ứng chiến. Đến nơi, chàng dùng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn tay
chân, không nghĩ suy về việc chiến đấu. Sau đó, chàng dùng niêu cơm thần ăn
mãi không hết khiến cho quân lính các nước chịu thua. không ai thể ăn hết
cơm được. Do đó, quân của các nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này, Thạch
Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.
Câu chuyện cùng hay hấp dẫn em không chỉ nhiều chi tiết ảo thú vị.
còn bởi trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về cái
thiện, cái chính sẽ luôn thắng cái ác, cái tà. Đây một tưởng cùng tốt đẹp,
cần được giữ gìn phát huy.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 2
“Thạch Sanh” một truyện rất hay em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này
đã được giáo em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đây.
Ngày xưa, hai vợ chồng tuổi già chưa con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi
người, Ngọc Hoàng bèn sai Thái tử xuống đầu thai làm con. Từ đó, người vợ
mang nhưng đã qua mấy năm không sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh
mất. Mãi về sau người vợ mới sinh được một cậu con trai.
Khi cậu vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều dựng dưới
gốc da, cả gia tài chỉ một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi cậu Thạch
Sanh.
Một hôm, người hàng rượu tên Thông. Thông gạ cùng Thạch Sanh kết
nghĩa anh em để lợi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời đến sống chung với mẹ
con Thông.
Bấy giờ trong vùng con chằn tinh nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan
quân không làm được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.
Năm ấy, đến lượt Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh
miếu để chết thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện
ra. Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh lấy
được một bộ cung tên bằng vàng mang về nhà. Mẹ con Thông lúc đầu hoảng sợ
cùng, nhưng sau đó Thông nảy ra một kế dụ Thạch Sanh trốn đi đã chém
chết con trăn của vua nuôi đã lâu.
Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Thông, trở về dưới gốc đa.
Còn Thông hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua. Hắn được
vua khen phong cho làm Quận công.
Năm ấy, vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị
con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh bị
chàng dùng tên vàng bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ
của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, vua cùng đau khổ, hứa gả công chúa truyền
ngôi cho ai tìm được công chúa. Thông tìm gặp lại Thạch Sanh được chàng
cho biết chỗ của đại bàng. Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết
chết con quái vật rồi lấy dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Thông kéo
lên. Không ngờ, sau đó Thông ra lệnh cho quân dùng đá lấp kín cửa hang lại.
Thạch Sanh tìm lối ra tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Chàng được vua
Thủy Tề tặng cho cây đàn.
Hồn chằn tinh đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong
kho nhà vua, đem tới giấu gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Lại nói chuyện nàng công chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng
cười. Bao nhiêu thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng
đàn vẳng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi
Thạch Sanh đên. Chàng kể hết sự tình. Vua sai bắt hai mẹ con Thông giao cho
Thạch Sanh xét xử. Chàng không giết cho chúng về quê làm ăn. Giữa đường,
chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử các nước chư hầu đến cầu hôn
không được, liền tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch
Sanh lấy cây đàn ra gảy. Binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân, không đánh
nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ
thua trận bằng một niêu cơm xíu. Quân mười tám nước ăn mãi không hết.
Bọn chúng bái phục kéo nhau về nước.
Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Càng nghe câu chuyện, em càng yêu quý tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch
Sanh càng căm ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Thông. Em tự
hứa với lòng sẽ noi theo tấm gương tốt để trở thành người ích cho hội em
hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện cổ tích này hiền gặp lành” “ác giả ác
báo”.
Kể lại truyện cổ tích Cây tre trăm đốt bằng lời văn của
em (5 mẫu)
Dàn bài Kể lại câu chuyện Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em
a. Mở bài
Giới thiệu câu chuyện
b. Thân bài
- Mở đầu: Giới thiệu anh trai cày hiền lành lão nhà giàu tham lam, lừa lọc.
- Thắt nút: Lão lừa dối “sẽ gả con gái” cho anh.
- Phát triển:
Anh quần quật làm giàu cho lão suốt ba năm.
Lão nhà giàu gả con gái với điều kiện anh phải đi tìm được cây tre trăm đốt
Anh trai cày không tìm được nhưng nhờ Bụt ra tay giúp đỡ, anh đã thành
công mừng rỡ gánh về.
- Mở nút: Khi thấy hai họ ăn uống linh đình sửa soạn đón dâu, anh mới hiểu âm
mưu thâm độc của lão nhà giàu anh ra tay trừng phạt.
- Kết thúc: Lão nhà giàu phải gả con gái cho anh trai cày. Hai vợ chồng sống với
nhau hạnh phúc.
c. Kết bài
Nêu cảm nghĩ
Rút ra bài học
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 1
trước nhà em trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rồi, em thường ngồi đếm
các đốt của cây tre. lần em hỏi ông: “Ông ơi, cây tre nào một tẳm đốt
không ạ?”. Nghe vậy ông bật cười: “Muốn cât tre trăm đốt thì phải thần chú
cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được câu thần chú. Vậy ông bảo em
ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu
khó làm lụng. Anh làm đầy tớ cho một ông lão, được ông ta hứa nếu chịu khó
làm lụng cho nhà lão không lấy tiền thì lão sẽ gả con gái xinh đẹp của mình
cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm lụng không lấy chỉ một đồng điền
công.
Tuy nhiên, khi đến lúc con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả
cho tên phú hộ trong làng. vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một
cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế chàng trai hục thi
tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre
trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi.
Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre dạy cho anh hai câu
thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với
nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre
tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
Thế chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân đám
cỗ linh đình thì nhận ra mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem
cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập”
khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn
loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái
cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, bắt lão thề thốt nhiều lần
mới thả cho lão xuống.
Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được vợ xinh
đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 2
Đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em
nghe. Đêm qua, kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị
cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà...
Ngày xưa một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi cho một lão nhà giàu.
Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật
nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến ngon ngọt dỗ dành:
- Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm
nữa, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau,
nhờ công sức anh, lão chủ thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được
vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận
lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ
thân mật bảo anh trai cày:
- Con thật công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày
ăn quả. ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho
được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết nhà hai lão nhà giàu đã
sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hửng bảo nhau:
“Cái thằng ngốc ấy đi quanh năm suốt tháng cũng đố kiếm được cây tre đủ
trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”
Về phần anh trai cày, anh hụi trèo đèo lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm
chỉ thấy những cây tre thấp bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm
chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi:
- Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười bảo:
- Khó việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô:
“Khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre
dính liền nối nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác
về. Song, tre dài quá, vướng bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh
lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trăm đốt rồi, sao con còn khóc?
Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm
hai bó, mừng rỡ gánh về.
Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình sửa soạn đón dâu, anh mới biết
lão nhà giàu đã lừa anh đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận
lắm nhưng không nói năng gì, lẳng lặng gấp trăm đốt tre nối nhau hô: “Khắc
nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng hiện ra trước mắt mọi
người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”.
Lão dính liền ngay vào cây tre, không tài nào dứt ra được. Lão thông gia thấy vậy
chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc
nhập”. Thế lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm
thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho
anh ngày hôm đó. Lúc bấy giờ, anh mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức
thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày
làm lễ cưới gái hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.
Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, các bạn nhỏ ngồi quanh đều lên:
“Đáng đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó đã làm em ngẫm nghĩ: Tụi
nhỏ cũng biết suy xét phải trái. đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho
mình, còn những người hiền lành, chăm chỉ như anh trai cày sẽ được mọi người
yêu quý đạt được kết quả tốt đẹp.
Kể lại truyện cổ tích Em thông minh bằng lời văn
của em
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Em thông minh bằng lời văn của em
a. Mở bài
Giới thiệu câu chuyện Em thông minh
b. Thân bài
- Kể lại câu chuyện theo trật tự phù hợp. Nhưng đảm bảo gồm các sự kiện chính
sau:
Vua sai cận thần đi tìm người tài giỏi giúp nước.
Cận thần gặp hai cha con đang cày ruộng, đưa ra câu hỏi oái oăm (trâu 1
ngày cày được mấy đường)
Cậu đã trả lời bằng một câu đố ngược lại khiến vị quan không biết trả lời
thế nào (ngựa của quan 1 ngày đi mấy đường).
Quan về tâu vua, vua tiếp tục ra câu đố mới (ban cho 3 con trâu đực muốn
đẻ thành 9 con)
Em đã để cả làng làm thịt trâu ăn đố lại nhà vua khiến vua rất bất ngờ
trước trí thông minh của em (làm cho bố đẻ em)
Vua quyết định thử tài em lần 3 bằng cách đưa một con chim sẻ bắt dọn
thành 3 cỗ thức ăn.
Em giải đố bằng cách đố lại vua khiến vua khâm phục trước tài trí của
mình (rèn kim thành dao mổ chim)
Nước láng giềng muốn xâm chiếm bờ cõi, bèn la xem nước ta người tài
hay không nên ra câu đố hóc búa mãi không ai giải được (xâu sợi chỉ mảnh
qua đường ruột ốc)
Vua quan đều không giải được phải nhờ đến em mới giải được.
Em được phong trạng nguyên.
c. Kết bài
Những cảm nhận, suy nghĩ của em về câu chuyện
Bài văn kể lại một truyện cổ tích ngắn gọn - Em thông minh
Sáng nay, lúc thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em thông minh rất
hay thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài.
Ngài đã ra lệnh cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước.
Khi đi đến một làng nọ, sứ giả đã gặp được một cậu - nhân vật chính trong câu
chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh
của mình.
Lần thứ nhất, cậu đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi
được mấy đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được
mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài
ban cho ba con trâu đực ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu
đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu
vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử không thể yêu cầu đàn
ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để
sinh ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa
chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm
cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ
thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu người tài. Ngay sau đó, sứ giả
nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột
ốc. Cả triều đình đều tay, cậu vừa nghe đã giải được, còn hát thành một
bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã
phong cậu làm trạng nguyên.
Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. hiểu được ý
nghĩa, sự quý trọng của người xưa đối với kiến thức, kinh nghiệm dân gian.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em thông minh mẫu 1
Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc ta, em rất thích các câu chuyện về những
nhân vật tài trí hơn người. Trong đó, em thích nhất câu chuyện Em thông
minh.
Câu chuyện bắt đầu tại một làng nọ, hai cha con tuy nghèo nhưng sống rất hạnh
phúc. Đặc biệt người con trai, không chỉ ngoan ngoãn còn cùng thông
minh. Một hôm, khi hai cha con đang cày ruộng thì gặp sứ giả đến hỏi chuyện. Thì
ra, ông ấy được nhà vua phía đi tìm kiếm người những người hiền tài để xây dựng
đất nước. Trước câu đố hóc búa của sứ giả, rằng con trâu kia một ngày thể cày
được mấy đường. Thì cậu đã dễ dàng hóa giải khi thách đố ngược lại ông ta
rằng hãy nói xem ngựa của sứ giả một ngày đi được bao nhiêu bước. Sự tài trí đó
của cậu đã khiến cậu nhanh chóng được nhà vua chú ý đến. Tuy nhiên, nhà vua
vẫn chưa yên tâm nên tiếp tục thử tài cậu. Lần thứ nhất, vua đưa cho làng cậu
ba con trâu đực cùng ba thúng gạo nếp, yêu cầu sau một năm giao nộp chín con
trâu. Tuy nhiên, cậu đã lên kinh, đố ngược lại nhà vua, rằng hãy làm cho cha cậu
sinh em bé. Còn số trâu gạo nếp kia, cậu đã cùng ca rlangf đem ra ăn uống no
say rồi. Sự thông minh, nhanh nhạy của cậu làm vua rất thích thú. Tuy nhiên, ngài
vẫn quyết định thử tài cậu thêm lần nữa. Lần này, nhà vua đã yêu cầu cậu mổ
một con chim sẻ để làm ra ba mâm cỗ. Nhưng yêu cầu này chẳng làm khó được
cậu. Ngay lập tức, cậu đem ra một chiếc kim khâu nhắn nhủ, nhờ nhà vua mài
thành một con dao để mổ thịt chim. Đến lần này, thì nhà vua hoàn toàn thán phục
trước trí tuệ cao siêu của cậu.
Đúng thời gian đó, sứ giả của nước láng giềng sang thăm. Mục đích tra tim
xem nước ta người tài hay không, để tiến hành xâm lược. Hắn đưa ra một câu
hỏi cùng hóc búa để thực hiện mục đích. Cả triều trình cùng nhau căng não
nhưng không ai biết cách nào để đưa sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc cả. ẤY vậy
mà, ngay khi vừa nghe câu đố, em đã đưa ra được câu trả lời ngay. Biết vậy, tên
sứ giả vội trở về nước bẩm tấu, rằng không nên tấn công nước ta nước ta
người rất tài giỏi. Sau lần đó, cậu được phong làm trạng nguyên, thường
xuyên được nhà vua mời sang hỏi về chuyện nước nhà.
Sau khi đọc câu chuyện Em thông minh, em rất khâm phục trí tuệ cao siêu, vốn
hiểu biết sâu rộng của cậu nhỏ tuổi. lấy đó làm động lực để cố gắng phấn đấu
học tập tốt hơn nữa.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em thông minh mẫu 2
Những câu chuyện cổ tích về các nhân vật thông minh, nhanh trí luôn khiến em
thích thú hơn mọi câu chuyện khác. vậy, em rất thích thú khi được nghe giáo
kể truyện cổ tích Em thông minh.
Câu chuyện kể về một trạng nguyên cùng nhỏ tuổi với trí tuệ hơn người, được
nhà vua hết sức tin tưởng. Cả câu chuyện kể về bốn lần cậu hóa giải bốn câu đố
oái oăm một cách nhẹ nhàng. Khiến người đọc phải thán phục.
Lần thứ nhất, câu nhận được câu đố từ sứ giả của nhà vua. Rằng hãy cho ông
ấy biết con trâu của cậu một ngày cày được bao nhiêu đường. Ngay lập tức, cậu hỏi
lại: Vậy ngài hãy cho tôi biết con ngựa của ngài một ngày chạy bao nhiêu bước đã,
rồi tôi sẽ trả lời ngày. Câu hỏi thông minh của cậu khiến viên sứ giả giật mình, nhận
ra ngay đây chính nhân tài do nhà vua tìm kiếm.
Lần thứ hai lần thứ ba, người ra câu đố chính nhà vua. nhiên, các câu đố
ấy đều oái oăm cùng. Lần đầu, nhà vua ban cho làng cậu ba con trâu đực ba
con trâu nếp, yêu cầu một năm sau phải nuôi làm sao cho chín con trâu để đem
nộp. Thế là, cậu bảo dân làng mổ trâu ăn thịt thoải mái. Còn mình lên kinh thành
để trả lời vua. Đến nơi, cậu làm ầm ĩ, đòi nhà vua bảo bố đẻ em cho mình, để khiến
nhà vua nhận ra rằng câu đố của nhà vua giống như đòi hỏi của mình vậy. Tiếp
đó, nhà vua yêu cầu em tạo ra ba mâm cỗ từ thịt của một chú chim sẻ nhỏ. Nghe
vậy, em liền nhờ nhà vua mài cho em một cái dao thật sắc từ một chiếc kim khâu.
Qua hai lần thử thách như vậy, nhà vua đã chịu công nhận tài trí của cậu bé.
Mấy hôm sau, sứ giả của nước láng giềng ghé thăm mang theo một câu đố cùng
khó giải, đó xâu sợi chỉ mảnh xuyên qua ruột ốc. Cả triều đình suy nghĩ tới lui,
đầu bứt tóc nhưng chẳng ai nghĩ ra cách cả. Đương lúc tên sứ giả đang hả hê, thì
nhà vua nhớ ra em thông minh. Ngay khi người hầu đọc câu hỏi lên, thì em đã
nghĩ ra câu trả lời, thậm chí còn hát thành một bài đồng dao. Tên sứ giả cùng
khiếp sợ trước trí thông minh của cậu bé, liền rút lui về nước, từ bỏ suy nghĩ xâm
chiếm nước ta. Nhờ vậy, cậu được phong làm trạng nguyên nhỏ tuổi nhất từ
trước đến nay.
Em rất ngưỡng mộ trí thông minh hơn người của cậu trong câu chuyện cổ tích
Em thông minh. Đồng thời qua đó, em cũng hiểu được rằng, trí tuệ không chỉ đến
từ sách vở còn đến từ những chuyến đi hoạt động trong đời sống thực tiễn.
Đúng như ông cha ta từng nói Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy bằng lời
văn của em
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 1
Tết Nguyên Đán ngày lễ truyền thống được tất cả người dân yêu mến mong
chờ. bánh chưng, bánh giầy hai món ăn đặc trưng, không thể thiếu vào ngày
Tết. Để giải thích về ý nghĩa, nguồn gốc của hai loại bánh này, ông cha ta thường kể
cho con cháu mình nghe về truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy.
Truyền thuyết lấy bối cảnh vào thời vua Hùng Vương, khi vị vua đang cai trị đã đến
tuổi già yêu, muốn truyền ngôi cho con cái của mình. Theo ông, người làm vua cần
phải kế thừa được tài đức, tưởng của ông chứ không nhất thiết phải làm con
trưởng. Điều đó gây nên một trận xôn xao trong các hoàng tử. Cuối cùng nhà vua ra
chỉ rằng: Vào ngày lễ tiên vương, ai làm ra được một món ăn vừa ngon, lại ý nghĩa,
được lòng tất cả mọi người thì sẽ được nối ngôi. Chiếu chỉ vừa ra, tất cả các hoàng
tử đều ra sức tìm kiếm những món ngon quý hiếm, sơn hào hải vị từ khắp nơi. Chỉ
mong làm hài lòng vua cha.
Trong lúc ấy, chỉ người con trai thứ mười tám của ngài - hoàng tử Lang Liêu
chẳng làm cả. Bởi chàng cuộc sống rất khó khăn, thiếu thốn. Nhà chàng chỉ
thóc lúa nhiều, chứ chẳng cả. Vậy nên, chàng tự bỏ mình ra khỏi cuộc đua
dành ngôi báu. Một hôm trong khi nằm mơ, chàng được một vị thần báo mộng, chỉ
cho cách làm món bánh ngon, giàu ý nghĩa từ gạo nếp. Nghe theo lời dạy của thần,
Lang Liêu chọn thứ gạo nếp thơm lừng, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch,
lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu
một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên,
giã nhuyễn, nặn hình tròn. Đến ngày lễ tiên vương, món bánh của Lang Liêu trở
thành món bánh vua cha ưng ý nhất. Các cận thần cũng trầm trồ khen ngon. Đã thế
món bánh còn rất giàu ý nghĩa, tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời. vậy,
thuận thành chương, Lang Liêu được vua Hùng chọn trở thành người kế vị. Cũng
từ đó, cứ đến dịp Tết, nhân dân ta lại đem gạo nếp ra làm bánh chưng, bánh giầy để
đặt lên mâm thờ tổ tiên.
Tục lệ ấy đến bây giờ vẫn còn được giữ. Bởi món bánh ấy không chỉ ngon còn
giàu ý nghĩa nữa. Nếu thiếu đi bánh chưng thì nghĩa cái Tết ấy chẳng còn trọn
vẹn nữa rồi.
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 2
Trong những truyền thuyết em đã được học, em thích nhất truyền thuyết Bánh
chưng bánh giầy. Không chỉ bởi đây một câu chuyện thú vị, còn bởi nhắc
đến một truyền thống tốt đẹp vẫn được nhân dân ta lưu giữ từ ngàn đời nay.
Nhân vật chính của truyền thuyết đó hoàng từ Lang Liêu. Chàng con trai thứ
mười tám của Vua Hùng. Tuy hoàng tử, nhưng do mẹ mất sớm lại không được
vua cha quan tâm. Nên từ nhỏ chàng không được sống trong nhung lụa như những
hoàng tử khác. Trái lại, chàng sống gần gũi với thiên nhiên, với những người nông
dân. Trong nhà chàng chỉ thóc lúa nhiều, chứ người hầu hay của cải, vàng bạc
cùng ít ỏi. Vậy nên, khi nghe tin vua cha muốn tìm người nối ngôi, thông qua thử
thách tìm ra món ngon nhất để thờ Tiên Vương. Thì chàng đã chẳng dám nghĩ đến
việc chiến thắng. Bởi các hoàng tử khác ra lệnh cho quân lính đi khắp nơi tìm sơn
hào hải vị còn chàng thì chẳng gì.
Khi chàng đang trong tận cùng của sự chán nản, thì trong một lần ngủ say, chàng đã
gặp được sự chỉ dẫn của thần. Thần dạy cho chàng biết được, thứ lương thực quý
giá nhất trên đời này chính hạt gạo chứ không phải món nào khác. Rồi chỉ cho
chàng cách nấu món bánh từ gạo nếp sao cho thơm ngon nhất. Nghe theo lời dạy
của thần, sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, chàng ngay lập tức bắt tay vào nấu bánh.
Đầu tiên, chàng vào trong kho, tìm kiếm từng hạt gạo nếp, sao cho hạt nào cũng
thật trắng trẻo, tròn đầy. Rồi đem đi vo thật sạch, không chút bụi bẩn nào. Sau đó
chọn miếng thịt lợn thật tươi ngon, cùng với đỗ xanh làm nhân. Bên ngoài dùng
dong gói lại, bọc thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ, quyện hết
vào nhau. Sau đó, để thêm phong phú, vẫn những hạt gạo nếp được lựa chọn
càng ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn nặn thành hình tròn đầy đặn như mặt trăng.
Đến ngày lễ Tiên vương, hai món bánh của Lang Liêu được vua cha các viên
quan hết lời khen ngợi không chỉ ngon còn giàu ý nghĩa. Sau một hồi ngẫm
nghĩ, vua Hùng nhận xét “Bánh hình tròn tượng Trời, ta đặt tên bánh giầy. Bánh
hình vuông tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, dong tượng cầm thú, cây cỏ
muôn loài, ta đặt tên bánh chưng. bọc ngoài, vị để trong ngụ ý đùm bọc
nhau”. Nói rồi, ngài đưa ra quyết định “Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang
Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám”.
| 1/30

Preview text:

Kể lại một truyện cổ tích bằng lời văn của em Ngắn gọn (13 mẫu)
“Cây tre trăm đốt” là câu chuyện cổ tích không chỉ hấp dẫn, thú vị, mà còn chứa
đựng bài học ý nghĩa về phẩm chất con người trong cuộc sống.
Câu chuyện kể về anh Khoai - một chàng trai khỏe mạnh, thông minh và chăm chỉ.
Biết được điều đó, phú ông đã chủ động gọi anh đến trò chuyện, rồi hứa rằng nếu
anh làm việc không công cho nhà ông ba năm, thì sẽ gả con gái cho anh. Vốn phải
lòng con gái phú ông từ trước, anh Khoai hăm hở đồng ý ngay. Suốt ba năm, anh
làm việc chăm chỉ từ sáng sớm đến tối muộn, không nghỉ một ngày nào. Nhờ vậy
mà nhà phú ông có thêm rất nhiều của cải. Nhưng khi đến ngày thực hiện lời hứa,
ông ta lại tìm cách đẻ lật lọng. Ông lừa anh Khoai đi tìm một cây tre trăm đốt làm
sính lẽ, rồi ở nhà tổ chức đám cưới cho con gái mình với con trai phú ông làng bên.
Nhưng ông ta không ngờ được rằng, anh Khoai thực sự đã mang về được một cây
tre trăm đốt. Đó là nhờ ông Bụt dạy cho anh câu thần chú ghép một trăm đốt tre lại
với nhau. Kết quả, khi đám cưới đang diễn ra, thì anh Khoai đã về đến cửa nhà phú
ông. Thấy tình hình trên sân, anh tức giận vô cùng, liền đọc câu thần chú để ghép
một trăm đốt tre lại, rồi dính cả phú ông vào. Ông ta vừa xấu hổ vừa đau đớn, bèn la
lên tìm người cứu giúp. Phú ông làng bên thấy thế, toan nhảy vào cứu, nhưng cũng
bị dính chặt vào thân tre. Cuối cùng, phú ông bèn xin anh Khoai thả mình ra, rồi sẽ
thực hiện lời hứa gả con gái cho anh ngay. Đến lúc này, anh mới đọc thần chú cho
các khúc tre rời nhau ra. Sau đó, anh Khoai như ý nguyện được làm đám cưới với
con gái phú ông. Từ đó, hai vợ chồng họ chung sống hạnh phúc bên nhau.
Câu chuyện đã đem đến tiếng cười giải trí cho người đọc qua tình huống của phú
ông gian xảo. Đó còn là bài học ý nghĩa cho người đọc, rằng phải sống trung thực,
chớ có lọc lừa, thất hứa với người khác.
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em (6 mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu về câu chuyện cổ tích Tấm Cám - một câu chuyện cổ tích hay
và đặc sắc của dân tộc ta.
b. Thân bài: Kể lại nội dung truyện Tấm Cám theo các diễn biến của câu chuyện, gồm các sự kiện sau:
● Sự kiện 1: Tấm mồ côi cha mẹ, sống với dì ghẻ và con của bà ta là Cám. Cô
bị bắt làm việc vất vả, quần quật sớm hôm
● Sự kiện 2: Một hôm, dì ghẻ treo thưởng là chiếc yếm mới cho người bắt được
nhiều tôm tép hơn. Vốn chăm chỉ nên có giỏ tép đầy, nhưng Tấm bị Cám lừa
lấy mất, chỉ còn lại 1 chú cá bống nhỏ
● Sự kiện 3: Tấm nuôi cá bống trong giếng, nhưng bị dì ghẻ và Cám bắt ăn thịt.
Nhờ Bụt, cô tìm được xương cá bống, rồi chôn vào hũ để ở góc giường
● Sự kiện 4: Từ hũ, Tấm có áo quần đẹp đi trảy hội, trở thành vợ vua
● Sự kiện 5: Giỗ cha, Tấm từ cung về làm cỗ, tự trèo lên cây hái cau, bị mụ dì
ghẻ chặt cây, hại chết
● Sự kiện 6: Cám mặc áo chị vào cung hầu vua, 3 lần liên tiếp hại hóa thân của
Tấm là chim vàng anh, cây xoan, khung cửi
● Sự kiện 7: Lần thứ 4, Tấm hóa thân thành cây thị, rồi trở về hình hài con
người trong quả thị, sống với bà cụ bán nước
● Sự kiện 8: Một lần, vua đi qua quán nước, nhận ra Tấm nhờ miếng trầu têm
cánh phượng, thế là 2 vợ chồng đoàn tụ với nhau
● Sự kiện 9: Tấm về cung sống hạnh phúc cùng nhà vua, còn 2 mẹ con Cám
thì bị trừng phạt thích đáng c. Kết bài:
● Nêu ý nghĩa, bài học của câu chuyện cổ tích Tấm Cám
● Suy nghĩ, nhận xét, tình cảm của em dành cho câu chuyện đó
Kể lại truyện Tấm Cám bằng lời văn của em lớp 6
Truyện cổ tích Tấm Cám là một câu chuyện có từ rất lâu, và đã đồng hành với biết
bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính là cô Tấm dịu dàng, nết na. Cô
Tấm mồ côi mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể cô sống
một mình với bà dì ghẻ và người con riêng của bà là Cám. Biết bao đau khổ của đời
Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.
Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị dì ghẻ bắt làm việc quần
quật suốt ngày, lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, dì ta lấy
chiếc yếm đào mới để tổ chức cho Tấm và Cám thi mò cua bắt ốc. Dĩ nhiên với tính
chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã
bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về nhà trước. Chờ Tấm
lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con cá bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở, thì ông
Bụt hiện lên và dặn dò cô mang cá bống về nuôi.
Tấm nuôi cá trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho cá ăn, và hát
bài hát riêng của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ dì ghẻ độc ác đã rình mò
và nghĩ ra kế xấu. Mụ ta lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà bắt chước Tấm
gọi cá bống lên và ăn thịt. Ăn xong, mụ chôn xương cá ở góc bếp. Chờ đến lúc Tấm
về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn cục máu đỏ tươi mà thôi. Buồn
bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy nắm thóc cho gà ăn,
để nó bới đất tìm xương cá bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn chiếc
bình, đặt ở chân giường.
Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy
hội. Tấm cũng hớn hở theo. Cô xin dì ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, bà ta bắt
cô phải nhặt hết một đống đầy hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội.
Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến
giúp Tấm. Nhờ vậy, cô nhanh chóng hoàn thành xong công việc dì ghẻ giao. Nhưng
bây giờ, cô lấy gì mặc để đi hội, khi cô chỉ toàn những bộ trang phục cũ rích? Thấy
cô băn khoăn, ông Bụt bảo cô lấy những chiếc bình ở chân giường lên. Chao ôi, bên
trong là bộ váy và đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.
Có váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, cô đánh rơi
một bên giày xuống nước. Người đến hội đông quá, cô không sao xuống tìm giày
được. Đúng lúc đó, voi của vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu
đi. Vua cho lính xuống mò lên, ngắm đôi giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày
ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao cô gái đến thử vận may, nhưng chẳng ai vừa cả.
Đến lượt Tấm, cô vừa đi thử là vừa ngay như in. Thế là Tấm trở thành hoàng hậu.
Tuy trở thành vợ vua, nhưng cô Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày
nào. Năm đó, đến giỗ cha, cô xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, cô tự tay mình
chuẩn bị một mâm cũng tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ dì ghẻ nhờ Tấm trèo
lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc cô ở trên cau thì chặt gốc, khiến cô ngã xuống ao rồi qua đời.
Nhờ phép lạ, Tấm không chết mà hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý
vàng anh lắm, đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám - kẻ mặc áo của Tấm
vào cung để thay chị hầu vua ghen tức vô cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám
bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ đống lông chim ấy, mọc lên một
cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. Ở dưới bóng mát của cây, vua cảm thấy rất
thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi. Ghen
tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi.
Nhưng mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo cà kẽo kẹt những tiếng chửi
mắng đáng sợ khiến cô ta khiếp vía. Nên cô ta cho người đốt khung cửi thành tro,
rồi đem ra đổ ở ngã tư thật xa cung vua.
Cám cứ tưởng thế là xong nên hả hê lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây
thị to lớn, rồi cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. Có bà bán
nước ở gốc cây thấy vậy đã xin cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, và hứa là không
ăn quả. Thế là quả thị rớt vào bị của bà. Từ hôm đó, chờ bà cụ đi vắng, cô Tấm từ
trong quả thị bước ra, giúp bà việc nhà, cơm nước. Bà cụ thấy lạ, nên rình xem và
phát hiện ra cô. Bà đã ôm chầm lấy Tấm và xin được nhận cô làm con nuôi. Từ đó,
hai người trở thành mẹ con của nhau.
Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân ở quán nước của bà cụ. Nhìn những miếng
trầu cánh phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn
thấy nhau, hai người mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau
đó, Tấm theo vua về cung, chung sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi
biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.
Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em (6 mẫu)
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Sọ Dừa bằng lời văn của em
1. Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh gia đình và sự mang thai kì lạ của mẹ Sọ Dừa. 2. Thân bài
● Hình thù kì dị của Sọ Dừa.
● Sọ Dừa đi ở cho nhà phú ông.
● Cô út phát hiện ra Sọ Dừa là một chàng trai tuấn tú.
● Sọ Dừa giục mẹ sang hỏi con gái phú ông.
● Sọ Dừa cưới và sống hạnh phúc cùng cô út. ● Sọ Dừa đi thi.
● Cô út bị hai cô chị hãm hại.
3. Kết bài: Vợ chồng Sọ Dừa gặp nhau. Hai cô chị xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 1
Trong những câu chuyện cổ tích Việt Nam, thì Sọ Dừa là một trong những câu
chuyện hay và ấn tượng nhất mà em được biết.
Câu chuyện kể về cuộc đời với nhiều điều kì lạ của Sọ Dừa. Mẹ chàng nhờ uống
nước trong một cái sọ dừa mà mang thai rồi sinh ra chàng. Khi mới sinh ra, chàng
có hình dáng kì lạ, mình tròn lông lốc như trái dừa, nên mới được mẹ đặt tên cho là Sọ Dừa.
Tuy bề ngoài kì lạ, nhưng Sọ Dừa rất yêu thương mẹ và ngoan ngoãn. Chàng chủ
động xin được đi chăn bò cho phú ông để đỡ đần cho mẹ. Nhờ tài thổi sáo, chàng
không chỉ chăn đàn bò không mất con nào, mà còn khiến chúng béo tốt, mũm mĩm.
Trong quá trình đó, cô út hiền lành đã phải lòng chàng sau nhiều lần đi đưa cơm.
Thế là, Sọ Dừa nhờ mẹ sang nhà phú ông hỏi vợ cho mình. Điều bất ngờ, là chàng
đã chuẩn bị đầy đủ những sính lễ mà phú ông yêu cầu, để cưới được con gái ông
ta. Đến ngày, điều ngạc nhiên hơn nữa đã xảy ra, khi Sọ Dừa tổ chức đám tiệc linh
đình, với kẻ hầu người hạ tấp nập. Còn chàng thì trở về lốt người, khôi ngô tuấn tú.
Sau khi kết hôn, Sọ Dừa chăm chỉ dùi mài kinh sử và thi đỗ trạng nguyên. Ít lâu sau,
chàng còn vinh dự được nhà vua tin tưởng, cử đi sứ. Điều này khiến cho hai cô chị
của vợ chàng ghen ăn tức ở, quyết hãm hại em. Hai ả ta mời cô em gái đi chơi
thuyền, rồi đẩy em xuống sông, nhằm cướp chồng. Nhưng may thay, nhờ những đồ
vật mà Sọ Dừa trước khi đi dặn luôn mang theo, mà cô út sống sót trên hoang đảo.
Rồi một ngày, tàu của quan trạng đi qua, gặp được vợ và đón về nhà.
Cuối cùng, người tốt như Sọ Dừa và cô út được sống hạnh phúc bên nhau. Còn kẻ
xấu xa, nham hiểm như hai cô chị, thì phải bỏ đi biệt xứ. Đó cũng chính là ước mơ
của nhân dân ta ngày xưa, về một xã hội công bằng, hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Sọ Dừa mẫu 2
Ngày xưa, có hai vợ chồng một lão nông nghèo đi ở cho nhà một phú ông. Họ hiền
lành, chăm chỉ nhưng đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có lấy một mụn con.
Một hôm, người vợ vào rừng lấy củi. Trời nắng to, khát nước quá, thấy cái sọ dừa
bên gốc cây to đựng đầy nước mưa, bà bèn bưng lên uống. Thế rồi, về nhà, bà có mang.
Ít lâu sau, người chồng mất. Bà sinh ra một đứa con không có chân tay, mình mẩy
cứ tròn lông lốc như một quả dừa. Bà buồn, toan vứt nó đi thì đứa bé lên tiếng bảo.
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp. Bà lão thương tình để lại
nuôi rồi đặt tên cho cậu là Sọ Dừa.
Lớn lên, Sọ Dừa vẫn thế, cứ lăn lông lốc chẳng làm được việc gì. Bà mẹ lấy làm
phiền lòng lắm. Sọ Dừa biết vậy bèn xin mẹ đến chăn bò cho nhà phú ông.
Nghe nói đến Sọ Dừa, phú ông ngần ngại. Nhưng nghĩ: nuôi nó thì ít tốn cơm, công
sá lại chẳng đáng là bao, phú ông đồng ý. Chẳng ngờ cậu chăn bò rất giỏi. Ngày
ngày, cậu lăn sau đàn bò ra đồng, tối đến lại lăn sau đàn bò về nhà. Cả đàn bò, con
nào con nấy cứ no căng. Phú ông lấy làm mừng lắm!
Vào ngày mùa, tôi tớ ra đồng làm hết cả, phú ông bèn sai ba cô con gái thay phiên
nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần như thế, hai cô chị kiêu kì, ác nghiệt
thường hắt hủi Sọ Dừa, chỉ có cô em vốn tính thương người là đối đãi với Sọ Dừa tử tế.
Một hôm đến phiên cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Mới đến chân núi, cô bỗng nghe
thấy tiếng sáo véo von. Rón rén bước lên cô nhìn thấy một chàng trai khôi ngô tuấn
tú đang ngồi trên chiếc võng đào thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Thế nhưng vừa mới
đứng lên, tất cả đã biến mất tăm, chỉ thấy Sọ Dừa nằm lăn lóc ở đấy. Nhiều lần như
vậy, cô út biết Sọ Dừa không phải người thường, bèn đem lòng yêu quý.
Đến cuối mùa ở thuê, Sọ Dừa về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông về làm vợ.
Bà lão thấy vậy tỏ ra vô cùng sửng sốt, nhưng thấy con năn nỉ mãi, bà cũng chiều lòng.
Thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến dạm, phú ông cười mỉa mai:
- Muốn hỏi con gái ta, hãy về sắm đủ một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười
con lợn béo, mười vò rượu tăm đem sang đây.
Bà lão đành ra về, nghĩ là phải thôi hẳn việc lấy vợ cho con. Chẳng ngờ, đúng ngày
hẹn, bỗng dưng trong nhà có đầy đủ mọi sính lễ, lại có ca gia nhân ở dưới nhà chạy
lên khiêng lễ vật sang nhà của phú ông. Phú ông hoa cả mắt lúng túng gọi ba cô con
gái ra hỏi ý. Hai cô chị bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí rồi ngúng nguẩy đi vào, chỉ có
cô út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa cho bày cỗ thật linh đình, gia nhân chạy ra chạy vào tấp
nập. Lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa trọc lốc, xấu xí đâu chỉ thấy một chàng trai
khôi ngô tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người thấy vậy đều cảm thấy sửng sốt và
mừng rỡ, còn hai cô chị thì vừa tiếc lại vừa ghen tức.
Từ ngày ấy, hai vợ chồng Sọ Dừa sống với nhau rất hạnh phúc. Không những thế,
Sọ Dừa còn tỏ ra rất thông minh. Chàng ngày đêm miệt mài đèn sách và quả nhiên
năm ấy, Sọ Dừa đỗ trạng nguyên. Thế nhưng cũng lại chẳng bao lâu sau, Sọ Dừa
được vua sai đi sứ. Trước khi đi, chàng đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và
hai quả trứng gà nói là để hộ thân.
Ganh tị với cô em, hai cô chị sinh lòng ghen ghét rắp tâm hại em để thay làm bà
trạng. Nhân quan trạng đi vắng, hai chị sang rủ cô út chèo thuyền ra biển rồi cứ thế
lừa đẩy cô em xuống nước. Cô út bị cá kình nuốt chửng, nhưng may có con dao mà
thoát chết. Cô dạt vào một hòn đảo, lây dao khoét bụng cá chui ra, đánh đá lấy lửa
nướng thịt cá ăn. Sống được ít ngày trên đảo, cặp gà cũng kịp nở thành một đôi gà
đẹp để làm bạn cùng cô út.
Một hôm có chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy to: Ò... ó... o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.
Quan cho thuyền vào xem, chẳng ngờ đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau,
mừng mừng tủi tủi. Đưa vợ về nhà, quan trạng mở tiệc mừng mời bà con đến chia
vui, nhưng lại giấu vợ trong nhà không cho ai biết. Hai cô chị thấy thế khấp khởi
mừng thầm, tranh nhau kể chuyện cô em rủi ro ra chiều thương tiếc lắm. Quan trạng
không nói gì, tiệc xong mới cho gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy cô em thì xấu hổ quá,
lén bỏ ra về rồi từ đó bỏ đi biệt xứ.
Kể lại truyện cổ tích Thạch Sanh bằng lời văn của em (9 mẫu)
Dàn ý Kể lại câu chuyện Thạch Sanh bằng lời văn của em
a. Mở bài: Giới thiệu truyện cổ tích “Thạch Sanh”.
b. Thân bài (diễn biến sự việc)
- Mở đầu: Ngọc Hoàng sai Thái tử xuống đầu thai làm con.
- Thắt nút: Lý thông gạ cùng Thạch Sanh kết nghĩa anh em để lợi dụng. - Phát triển:
● Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Lý Thông cướp công.
● Thạch Sanh dùng tên bắn bị thương đại bàng, cứu công chúa.
- Mở nút: Khi nghe tiếng đàn văng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ.
Vua tìm ra sự thật, kết tội Lý Thông.
- Kết thúc: Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Chư hầu đến cầu hôn không được, kéo sang đánh …
c. Kết bài: Ý nghĩa câu chuyện: “Ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 1
Trong các câu chuyện cổ tích mà em đã từng được đọc, thì câu chuyện em thích
nhất chính là truyện cổ tích Thạch Sanh.
Câu chuyện kể về cuộc đời của Thạch Sanh - một chàng trai dũng cảm, tốt bụng và
tài năng. Chàng vốn là thái tử ở trên thiên đình, được Ngọc Hoàng phái xuống làm
con của hai vợ chồng già tốt bụng. Cha chàng qua đời trước khi chàng được sinh ra.
Mấy năm sau, mẹ chàng cũng qua đời. Để lại Thạch Sanh sống cánh tứ cố vô thân,
lủi thủi trong một túp lều cũ dựng dưới gốc đa. Cả gia tài của chàng là một lưỡi búa
của cha để lại. Năm chàng biết dùng búa, Ngọc Hoàng sai thiên thần xuống dạy cho
chàng đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông.
Thạch Sanh là người luôn khát khao mái ấm gia đình. Vì vậy, chàng đã bị Lý Thông
lừa gạt, đến sống chung và làm lụng giúp đỡ mẹ con nhà hắn. Sau này, chàng còn
bị Lý Thông lừa đến miếu thờ nộp mạng cho chằn tinh thay hắn. May mắn nhờ có võ
nghệ và phép thần thông, Thạch Sanh đã giết chết và chặt đầu chằn tinh mang về.
Lần này, chàng lại bị Lý Thông lừa gạt cướp công giết chằn tinh, còn bản thân thì lại
trở về lủi thủi một mình dưới gốc đa.
Sau này, trong một lần tình cờ, chàng nhìn con đại bàng tinh đang bắt một cô gái
bay ngang qua. Thế là Thạch Sanh liền bắn bị thương cánh của đại bàng, rồi lần
theo vết máu mà đuổi tới hang của đại bàng, nhằm tìm cách cứu cô gái. Tuy biết
được hang ổ của đại bàng, nhưng Thạch Sanh vẫn chưa tìm ra cách cứu cô gái vì
cái hang quá sâu, một mình chàng thì không đưa cô gái lên được. Đúng lúc đó,
chàng gặp lại Lý Thông, một lần nữa hắn lại tìm cách lừa chàng. Thì ra, cô gái đó
chính là công chúa, và nhà vua đã ra lệnh rằng, nếu ai cứu được công chúa sẽ
được cưới nàng và nối ngôi vua. Thạch Sanh không chút nghi ngờ, lập tức dẫn Lý
Thông và quân lính đến hang đại bàng. Chàng chủ động nhảy xuống đưa công chúa
lên trước. Đến lượt chàng, Lý Thông sai quân lính lấp cửa hang lại. Đến lúc này
chàng mới nhận ra bộ mặt độc ác, xảo trá của hắn.
Cửa hang bị lấp lại, Thạch Sanh cố tìm cách ra ngoài bằng một lối đi khác. Trong
quá trình đó, chàng gặp mặt và cứu thoát con trai vua Thủy Tề khỏi cũi sắt. Sau đó,
chàng được mời xuống thủy cung và được vua thủy tề tạ ơn hậu hĩnh. Thế nhưng
với tính cách thật thà, chàng chỉ xin nhận một cây đàn rồi lại trở về túp lều cũ dưới gốc đa.
Trở về nhà, chàng lại tiếp tục cuộc sống như xưa. Ngày ngày, sau khi làm việc mệt
mỏi thì chàng lại lấy cây đàn ra để giải khuây. Tiếng đàn của chàng vẳng đến cung
công chúa, khiến nàng bật cười vui vẻ. Thì ra từ lúc được cứu ra khỏi hang đại
bàng, công chúa lúc nào cũng ủ rũ, buồn bã. Thấy vậy, nhà vua liền cho mời Thạch
Sanh vào cung để truy hỏi cho rõ ràng. Đến nơi, Thạch Sanh kể rõ sự tình cho mọi
người. Đến đây, sự thật được phơi bày. Mẹ con Lý Thông bị đem ra xử phạt, còn
Thạch Sanh trở thành phò mã. Thế nhưng với lòng thương người, chàng đã tha cho
mẹ con Lý Thông và để họ về quê. Nhưng trên đường về họ bị sét đánh trúng và biến thành bọ hung.
Sau khi đám cưới của Thạch Sanh và công chúa diễn ra thì hoàng tử các nước chư
hầu đem quân sang tấn công nước ta vì ganh ghét. Thạch Sanh đã xin nhà vua cho
mình được ứng chiến. Đến nơi, chàng dùng tiếng đàn để làm quân địch bủn rủn tay
chân, không nghĩ suy gì về việc chiến đấu. Sau đó, chàng dùng niêu cơm thần ăn
mãi không hết khiến cho quân lính các nước chịu thua. Vì không ai có thể ăn hết
cơm được. Do đó, quân của các nước chư hầu buộc phải rút về. Sau này, Thạch
Sanh nối ngôi vua, trở thành một vị hoàng đế.
Câu chuyện vô cùng hay và hấp dẫn em không chỉ vì nó có nhiều chi tiết kì ảo thú vị.
mà còn bởi vì trong nó, chứa đựng những ước mơ, niềm tin của nhân dân về cái
thiện, cái chính sẽ luôn thắng cái ác, cái tà. Đây là một tư tưởng vô cùng tốt đẹp,
cần được giữ gìn và phát huy.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Thạch Sanh mẫu 2
“Thạch Sanh” là một truyện rất hay mà em luôn nhớ đến bây giờ. Câu chuyện này
đã được cô giáo em kể thật hấp dẫn vào cuối tiết học như sau đây.
Ngày xưa, có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có con. Thấy họ tốt bụng, hay giúp mọi
người, Ngọc Hoàng bèn sai Thái tử xuống đầu thai làm con. Từ đó, người vợ có
mang nhưng đã qua mấy năm mà không sinh nở. Rồi người chồng lâm bệnh mà
mất. Mãi về sau người vợ mới sinh được một cậu con trai.
Khi cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống lủi thủi trong túp lều cũ dựng dưới
gốc da, cả gia tài chỉ có một lưỡi búa của cha để lại. Người ta gọi cậu là Thạch Sanh.
Một hôm, có người hàng rượu tên là Lý Thông. Lý Thông gạ cùng Thạch Sanh kết
nghĩa anh em để lợi dụng. Thạch Sanh vui vẻ nhận lời và đến sống chung với mẹ con Lý Thông.
Bấy giờ trong vùng có con chằn tinh có nhiều phép lạ thường ăn thịt người. Quan
quân không làm gì được, dân làng hàng năm phải nộp một người cho chằn tinh.
Năm ấy, đến lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con hắn nghĩ kế lừa Thạch Sanh đi canh
miếu để chết thay. Thạch Sanh thật thà, nhận lời đi ngay. Nửa đêm, chằn tinh hiện
ra. Thạch Sanh dùng búa chém chết chằn tinh. Chàng chặt đầu chằn tinh và lấy
được một bộ cung tên bằng vàng mang về nhà. Mẹ con Lý Thông lúc đầu hoảng sợ
vô cùng, nhưng sau đó Lý Thông nảy ra một kế dụ Thạch Sanh trốn đi vì đã chém
chết con trăn của vua nuôi đã lâu.
Thạch Sanh lại thật thà tin ngay. Chàng từ giã mẹ con Lý Thông, trở về dưới gốc đa.
Còn Lý Thông hí hửng đem đầu con yêu quái vào kinh đô nộp cho vua. Hắn được
vua khen và phong cho làm Quận công.
Năm ấy, vua mở hội lớn để chọn chồng cho công chúa nhưng không may nàng bị
con đại bàng khổng lồ quắp đi. Đại bàng bay qua túp lều của Thạch Sanh và bị
chàng dùng tên vàng bắn bị thương. Thạch Sanh lần theo dấu máu, tìm được chỗ ở của đại bàng.
Từ ngày công chúa bị mất tích, vua vô cùng đau khổ, hứa gả công chúa và truyền
ngôi cho ai tìm được công chúa. Lý Thông tìm gặp lại Thạch Sanh và được chàng
cho biết chỗ ở của đại bàng. Thạch Sanh xuống hang để cứu công chúa. Chàng giết
chết con quái vật rồi lấy dây buộc vào người công chúa, ra hiệu cho Lý Thông kéo
lên. Không ngờ, sau đó Lý Thông ra lệnh cho quân sĩ dùng đá lấp kín cửa hang lại.
Thạch Sanh tìm lối ra và tình cờ cứu được con trai vua Thủy Tề. Chàng được vua
Thủy Tề tặng cho cây đàn.
Hồn chằn tinh và đại bàng gặp nhau tìm cách báo thù. Chúng ăn trộm của cải trong
kho nhà vua, đem tới giấu ở gốc đa để vu vạ cho chàng. Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Lại nói chuyện nàng công chúa từ khi về cung, trở nên buồn rầu, chẳng nói chẳng
cười. Bao nhiêu thầy thuốc giỏi cũng không chữa được. Một hôm, khi nghe tiếng
đàn vẳng ra từ trong ngục, công chúa bỗng cười nói vui vẻ. Nhà vua lấy làm lạ, gọi
Thạch Sanh đên. Chàng kể hết sự tình. Vua sai bắt hai mẹ con Lý Thông giao cho
Thạch Sanh xét xử. Chàng không giết mà cho chúng về quê làm ăn. Giữa đường,
chúng bị sét đánh chết, hóa kiếp thành bọ hung.
Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Hoàng tử các nước chư hầu đến cầu hôn
không được, liền tức giận họp binh lính cả mười tám nước kéo sang đánh. Thạch
Sanh lấy cây đàn ra gảy. Binh lính mười tám nước bủn rủn tay chân, không đánh
nhau được nữa, các hoàng tử phải cởi giáp xin hàng. Thạch Sanh thết đãi những kẻ
thua trận bằng một niêu cơm tí xíu. Quân sĩ mười tám nước ăn mãi mà không hết.
Bọn chúng bái phục và kéo nhau về nước.
Về sau, vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.
Càng nghe câu chuyện, em càng yêu quý tính tình hiền lành, tốt bụng của Thạch
Sanh và càng căm ghét những kẻ vong ân bội nghĩa như mẹ con Lý Thông. Em tự
hứa với lòng là sẽ noi theo tấm gương tốt để trở thành người có ích cho xã hội vì em
hiểu được ý nghĩa sâu xa của truyện cổ tích này là ở hiền gặp lành” và “ác giả ác báo”.
Kể lại truyện cổ tích Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em (5 mẫu)
Dàn bài Kể lại câu chuyện Cây tre trăm đốt bằng lời văn của em a. Mở bài Giới thiệu câu chuyện b. Thân bài
- Mở đầu: Giới thiệu anh trai cày hiền lành và lão nhà giàu tham lam, lừa lọc.
- Thắt nút: Lão lừa dối “sẽ gả con gái” cho anh. - Phát triển:
● Anh quần quật làm giàu cho lão suốt ba năm.
● Lão nhà giàu gả con gái với điều kiện anh phải đi tìm được cây tre trăm đốt
● Anh trai cày không tìm được nhưng nhờ có Bụt ra tay giúp đỡ, anh đã thành
công và mừng rỡ gánh về.
- Mở nút: Khi thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới hiểu âm
mưu thâm độc của lão nhà giàu và anh ra tay trừng phạt.
- Kết thúc: Lão nhà giàu phải gả con gái cho anh trai cày. Hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. c. Kết bài ● Nêu cảm nghĩ ● Rút ra bài học
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 1
Ở trước nhà em có trồng rất nhiều cây tre. Mỗi khi rảnh rồi, em thường ngồi đếm
các đốt của cây tre. Có lần em hỏi ông: “Ông ơi, có cây tre nào có một tẳm đốt
không ạ?”. Nghe vậy ông bật cười: “Muốn có cât tre trăm đốt thì phải có thần chú
cơ.” Nghe vậy em liền quấn lấy ông đòi biết được câu thần chú. Vậy là ông bảo em
ngồi xuống rồi kể cho em nghe câu chuyện cổ tích Cây tre trăm đốt.
Chuyện kể về một anh chàng thanh niên tuy nghèo khó nhưng rất khỏe mạnh, chịu
khó làm lụng. Anh làm đầy tớ cho một ông lão, và được ông ta hứa là nếu chịu khó
làm lụng cho nhà lão mà không lấy tiền thì lão sẽ gả cô con gái xinh đẹp của mình
cho. Nghe vậy, anh vui lắm, nên ra sức làm lụng mà không lấy dù chỉ một đồng điền công.
Tuy nhiên, khi đến lúc cô con gái xinh đẹp trưởng thành thì ông ta đổi ý. Muốn gả cô
cho tên phú hộ trong làng. Vì vậy, hắn nói với chàng trai rằng, hãy tìm cho được một
cây tre trăm đốt về làm đũa cưới thì mới gả con gái cho. Thế là chàng trai hì hục thi
tìm cây tre trăm đốt. thế nhưng chàng tìm mãi, tìm mãi vẫn không tìm được cây tre
trăm đốt nào cả. Quá mệt mỏi và tuyệt vọng, chàng ngồi xuống bật khóc tức tưởi.
Đúng lúc đó bụt hiện lên, bảo anh hãy chặt một trăm đốt tre và dạy cho anh hai câu
thần chú. Câu thần chú “Khắc nhập, khắc nhập” để một trăm đốt tre tự gắn lại với
nhau tạo thành cây tre trăm đốt. Câu thần chú “Khắc xuất, khắc xuất” để các đốt tre
tự rời nhau ra để tiện di chuyển.
Thế là chàng trai mừng rỡ mang tre về nhà. Về đến nơi, chàng thấy trên sân là đám
cỗ linh đình thì nhận ra là mình bị lừa. Thế là, chàng vội chạy lại, gọi ông lão lại xem
cây tre trăm đốt. Khi lão ta vừa lại gần, chàng đọc ngay “Khắc nhập, khắc nhập”
khiến lão bị dính luôn vào cây tre, trở thành đốt tre một trăm linh một. Cả nhà hỗn
loạn, đầy tờ tìm mọi cách vẫn không gỡ lão ra được. mãi sau, lão đồng ý gả con gái
cho chàng đúng như đã hứa. Chàng không tin ngay, mà bắt lão thề thốt nhiều lần mới thả cho lão xuống.
Từ đó, mọi người ai cũng nể phục chàng lắm. Còn chàng thì cưới được cô vợ xinh
đẹp, chung sống bên nhau hạnh phúc.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Cây tre trăm đốt mẫu 2
Đã thành lệ, đêm nào, trước khi đi ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em
nghe. Đêm qua, bà kể chuyện “Cây tre trăm đốt”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị
cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà...
Ngày xưa có một anh chàng cày hiền lành, khoẻ mạnh, đi ở cho một lão nhà giàu.
Anh rất chăm chỉ lại thạo việc đồng áng nên lão nhà giàu muốn anh làm lợi thật
nhiều cho lão. Một hôm, lão gọi anh đến và ngon ngọt dỗ dành:
- Con chịu khó thức khuya dậy sớm làm lụng giúp ta, chớ quản nhọc nhằn. Ba năm
nữa, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày tưởng lão nói thật, cứ thể quần quật I làm giàu cho lão. Ba năm sau,
nhờ công sức anh, lão chủ có thêm nhà ngói, sân gạch, tậu thêm được ruộng, được
vườn. Tuy nhiên, lão nhà giàu chẳng giữ lời hứa năm xưa. Lão đã ngấm ngầm nhận
lời gả con gái cho con trai một nhà giàu khác trong vùng. Một hôm, lão làm ra vẻ
thân mật bảo anh trai cày:
- Con thật có công với gia đình ta. Con đã chịu khó ba năm, trồng cây sắp đến ngày
ăn quả. Cơ ngơi nhà ta chỉ còn thiếu cây tre trăm đốt, con gắng lên rừng tìm cho
được đem về, ta sẽ gả con gái cho.
Anh trai cày mừng rỡ xách dao lên rừng. Anh không biết ở nhà hai lão nhà giàu đã
sắp sẵn cỗ bàn để làm lễ cưới con trai, con gái chúng. Hai lão hí hửng bảo nhau:
“Cái thằng ngốc ấy có đi quanh năm suốt tháng cũng đố mà kiếm được cây tre đủ
trăm đốt! Thế nào rồi cũng bị rắn cắn, hổ vồ!”
Về phần anh trai cày, anh hì hụi trèo đèo lội suối, luồn hết bụi này bờ khác tìm kiếm
mà chỉ thấy những cây tre thấp bé bình thường, cây cao nhất cũng chưa được năm
chục đốt. Anh buồn quá, ngồi bưng mặt khóc. Nghe tiếng khóc, Bụt hiện lên hỏi: - Làm sao con khóc?
Anh trai cày thưa rõ đầu đuôi câu chuyện. Bụt cười và bảo:
- Khó gì việc ấy! Con hãy chặt đủ một trăm đốt tre, đem xếp nối với nhau rồi hô:
“Khắc nhập, khắc nhập” thì sẽ có ngay cây tre trăm đốt.
Nói xong, Bụt biến mất. Anh trai cày làm đúng lời Bụt bảo, quả nhiên cả trăm đốt tre
dính liền nối nhau thành một cây tre đủ trăm đốt. Anh sung sướng nâng lên vai vác
về. Song, tre dài quá, vướng bờ vướng bụi, không sao đưa ra khỏi rừng được. Anh
lại ngồi xuống khóc, Bụt lại hiện lên hỏi:
- Cây tre trăm đốt có rồi, sao con còn khóc?
Anh nói tre dài quá không vác về nhà được, Bụt liền bảo:
- Con hãy hô: “Khắc xuất, khắc xuất”, những đốt tre ấy sẽ rời ra!
Anh làm theo lời Bụt, quả nhiên cây tre rời ra trăm đốt, anh kiếm dây rừng buộc làm
hai bó, mừng rỡ gánh về.
Lúc anh về tới nơi, thấy hai họ ăn uống linh đình và sửa soạn đón dâu, anh mới biết
rõ là lão nhà giàu đã lừa anh và đã lén lút đem con gái gả cho người khác. Anh giận
lắm nhưng không nói năng gì, lẳng lặng gấp trăm đốt tre nối nhau và hô: “Khắc
nhập, khắc nhập”. Một cây tre đúng trăm đốt tươi xanh óng ả hiện ra trước mắt mọi
người. Lão chủ thấy lạ, chạy lại gần xem. Anh đọc luôn: “Khắc nhập, khắc nhập”.
Lão tà dính liền ngay vào cây tre, không tài nào dứt ra được. Lão thông gia thấy vậy
chạy lại định gỡ cho nhà chủ. Anh đợi cho hắn tới gần, rồi lại đọc: “Khắc nhập, khắc
nhập”. Thế là lão ta cũng dính chặt luôn vào cây tre. Hai lão nhà giàu kêu khóc thảm
thiết, van lạy anh trai cày xin anh gỡ ra cho và hứa trước hai họ sẽ gả con gái cho
anh ngày hôm đó. Lúc bấy giờ, anh mới khoan thai đọc: “Khắc xuất, khắc xuất”. Tức
thì cả hai lão kia rời khỏi cây tre và cây tre cũng chia thành trăm đốt. Anh trai cày
làm lễ cưới cô gái và hai vợ chồng sống với nhau hạnh phúc suốt đời.
Khi nghe xong chuyện “Cây tre trăm đốt”, các bạn nhỏ ngồi quanh bà đều là lên:
“Đáng đời cho bọn gian tham, quỷ quyệt!”. Mấy lời đó đã làm em ngẫm nghĩ: Tụi nó
nhỏ mà cũng biết suy xét phải trái. Ở đời, những kẻ tham lam thường chuốc hại cho
mình, còn những người hiền lành, chăm chỉ như anh trai cày sẽ được mọi người
yêu quý và đạt được kết quả tốt đẹp.
Kể lại truyện cổ tích Em bé thông minh bằng lời văn của em
Dàn ý Kể lại truyện cổ tích Em bé thông minh bằng lời văn của em a. Mở bài
● Giới thiệu câu chuyện Em bé thông minh b. Thân bài
- Kể lại câu chuyện theo trật tự phù hợp. Nhưng đảm bảo gồm các sự kiện chính sau:
● Vua sai cận thần đi tìm người tài giỏi giúp nước.
● Cận thần gặp hai cha con đang cày ruộng, và đưa ra câu hỏi oái oăm (trâu 1
ngày cày được mấy đường)
● Cậu bé đã trả lời bằng một câu đố ngược lại khiến vị quan không biết trả lời
thế nào (ngựa của quan 1 ngày đi mấy đường).
● Quan về tâu vua, vua tiếp tục ra câu đố mới (ban cho 3 con trâu đực và muốn đẻ thành 9 con)
● Em bé đã để cả làng làm thịt trâu ăn và đố lại nhà vua khiến vua rất bất ngờ
trước trí thông minh của em (làm cho bố đẻ em)
● Vua quyết định thử tài em bé lần 3 bằng cách đưa một con chim sẻ bắt dọn thành 3 cỗ thức ăn.
● Em bé giải đố bằng cách đố lại vua khiến vua khâm phục trước tài trí của
mình (rèn kim thành dao mổ chim)
● Nước láng giềng muốn xâm chiếm bờ cõi, bèn dò la xem nước ta có người tài
hay không nên ra câu đố hóc búa mãi không ai giải được (xâu sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc)
● Vua quan đều không giải được phải nhờ đến em bé mới giải được.
● Em bé được phong là trạng nguyên. c. Kết bài
● Những cảm nhận, suy nghĩ của em về câu chuyện
Bài văn kể lại một truyện cổ tích ngắn gọn - Em bé thông minh
Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài.
Ngài đã ra lệnh cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước.
Khi đi đến một làng nọ, sứ giả đã gặp được một cậu bé - nhân vật chính trong câu
chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh của mình.
Lần thứ nhất, cậu bé đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi
được mấy đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được
mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài
ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu
đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu
vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử vì không thể yêu cầu đàn
ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để
sinh ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa
chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm
cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ
thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé là người tài. Ngay sau đó, sứ giả
nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột
ốc. Cả triều đình đều bó tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành một
bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã
phong cậu làm trạng nguyên.
Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. Và hiểu được ý
nghĩa, sự quý trọng của người xưa đối với kiến thức, kinh nghiệm dân gian.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh mẫu 1
Trong kho tàng truyện cổ tích của dân tộc ta, em rất thích các câu chuyện về những
nhân vật có tài trí hơn người. Trong đó, em thích nhất là câu chuyện Em bé thông minh.
Câu chuyện bắt đầu tại một làng nọ, có hai cha con tuy nghèo nhưng sống rất hạnh
phúc. Đặc biệt là người con trai, không chỉ ngoan ngoãn mà còn vô cùng thông
minh. Một hôm, khi hai cha con đang cày ruộng thì gặp sứ giả đến hỏi chuyện. Thì
ra, ông ấy được nhà vua phía đi tìm kiếm người những người hiền tài để xây dựng
đất nước. Trước câu đố hóc búa của sứ giả, rằng con trâu kia một ngày có thể cày
được mấy đường. Thì cậu bé đã dễ dàng hóa giải khi thách đố ngược lại ông ta
rằng hãy nói xem ngựa của sứ giả một ngày đi được bao nhiêu bước. Sự tài trí đó
của cậu bé đã khiến cậu nhanh chóng được nhà vua chú ý đến. Tuy nhiên, nhà vua
vẫn chưa yên tâm nên tiếp tục thử tài cậu. Lần thứ nhất, vua đưa cho làng cậu bé
ba con trâu đực cùng ba thúng gạo nếp, yêu cầu sau một năm giao nộp chín con
trâu. Tuy nhiên, cậu bé đã lên kinh, đố ngược lại nhà vua, rằng hãy làm cho cha cậu
sinh em bé. Còn số trâu và gạo nếp kia, cậu đã cùng ca rlangf đem ra ăn uống no
say rồi. Sự thông minh, nhanh nhạy của cậu làm vua rất thích thú. Tuy nhiên, ngài
vẫn quyết định thử tài cậu thêm lần nữa. Lần này, nhà vua đã yêu cầu cậu bé mổ
một con chim sẻ để làm ra ba mâm cỗ. Nhưng yêu cầu này chẳng làm khó được
cậu. Ngay lập tức, cậu bé đem ra một chiếc kim khâu và nhắn nhủ, nhờ nhà vua mài
nó thành một con dao để mổ thịt chim. Đến lần này, thì nhà vua hoàn toàn thán phục
trước trí tuệ cao siêu của cậu.
Đúng thời gian đó, có sứ giả của nước láng giềng sang thăm. Mục đích là tra tim
xem nước ta có người tài hay không, để tiến hành xâm lược. Hắn đưa ra một câu
hỏi vô cùng hóc búa để thực hiện mục đích. Cả triều trình cùng nhau căng não
nhưng không ai biết cách nào để đưa sợi chỉ mảnh qua đường ruột ốc cả. ẤY vậy
mà, ngay khi vừa nghe câu đố, em bé đã đưa ra được câu trả lời ngay. Biết vậy, tên
sứ giả vội trở về nước bẩm tấu, rằng không nên tấn công nước ta vì nước ta có
người rất tài giỏi. Sau lần đó, cậu bé được phong làm trạng nguyên, và thường
xuyên được nhà vua mời sang hỏi về chuyện nước nhà.
Sau khi đọc câu chuyện Em bé thông minh, em rất khâm phục trí tuệ cao siêu, vốn
hiểu biết sâu rộng của cậu bé nhỏ tuổi. Và lấy đó làm động lực để cố gắng phấn đấu học tập tốt hơn nữa.
Bài văn kể lại một truyện cổ tích - Em bé thông minh mẫu 2
Những câu chuyện cổ tích về các nhân vật thông minh, nhanh trí luôn khiến em
thích thú hơn mọi câu chuyện khác. Vì vậy, em rất thích thú khi được nghe cô giáo
kể truyện cổ tích Em bé thông minh.
Câu chuyện kể về một trạng nguyên vô cùng nhỏ tuổi với trí tuệ hơn người, được
nhà vua hết sức tin tưởng. Cả câu chuyện kể về bốn lần cậu bé hóa giải bốn câu đố
oái oăm một cách nhẹ nhàng. Khiến người đọc phải thán phục.
Lần thứ nhất, câu bé nhận được câu đố từ sứ giả của nhà vua. Rằng hãy cho ông
ấy biết con trâu của cậu một ngày cày được bao nhiêu đường. Ngay lập tức, cậu hỏi
lại: Vậy ngài hãy cho tôi biết con ngựa của ngài một ngày chạy bao nhiêu bước đã,
rồi tôi sẽ trả lời ngày. Câu hỏi thông minh của cậu khiến viên sứ giả giật mình, nhận
ra ngay đây chính là nhân tài do nhà vua tìm kiếm.
Lần thứ hai và lần thứ ba, người ra câu đố chính là nhà vua. Và dĩ nhiên, các câu đố
ấy đều oái oăm vô cùng. Lần đầu, nhà vua ban cho làng cậu ba con trâu đực và ba
con trâu nếp, yêu cầu một năm sau phải nuôi làm sao cho có chín con trâu để đem
nộp. Thế là, cậu bé bảo dân làng mổ trâu ăn thịt thoải mái. Còn mình lên kinh thành
để trả lời vua. Đến nơi, cậu làm ầm ĩ, đòi nhà vua bảo bố đẻ em cho mình, để khiến
nhà vua nhận ra rằng câu đố của nhà vua vô lý giống như đòi hỏi của mình vậy. Tiếp
đó, nhà vua yêu cầu em tạo ra ba mâm cỗ từ thịt của một chú chim sẻ nhỏ. Nghe
vậy, em liền nhờ nhà vua mài cho em một cái dao thật sắc từ một chiếc kim khâu.
Qua hai lần thử thách như vậy, nhà vua đã chịu công nhận tài trí của cậu bé.
Mấy hôm sau, sứ giả của nước láng giềng ghé thăm mang theo một câu đố vô cùng
khó giải, đó là xâu sợi chỉ mảnh xuyên qua ruột ốc. Cả triều đình suy nghĩ tới lui, vò
đầu bứt tóc nhưng chẳng ai nghĩ ra cách cả. Đương lúc tên sứ giả đang hả hê, thì
nhà vua nhớ ra em bé thông minh. Ngay khi người hầu đọc câu hỏi lên, thì em đã
nghĩ ra câu trả lời, thậm chí còn hát thành một bài đồng dao. Tên sứ giả vô cùng
khiếp sợ trước trí thông minh của cậu bé, liền rút lui về nước, từ bỏ suy nghĩ xâm
chiếm nước ta. Nhờ vậy, cậu bé được phong làm trạng nguyên nhỏ tuổi nhất từ trước đến nay.
Em rất ngưỡng mộ trí thông minh hơn người của cậu bé trong câu chuyện cổ tích
Em bé thông minh. Đồng thời qua đó, em cũng hiểu được rằng, trí tuệ không chỉ đến
từ sách vở mà còn đến từ những chuyến đi hoạt động trong đời sống thực tiễn.
Đúng như ông cha ta từng nói Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
Kể lại truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 1
Tết Nguyên Đán là ngày lễ truyền thống được tất cả người dân yêu mến và mong
chờ. Và bánh chưng, bánh giầy là hai món ăn đặc trưng, không thể thiếu vào ngày
Tết. Để giải thích về ý nghĩa, nguồn gốc của hai loại bánh này, ông cha ta thường kể
cho con cháu mình nghe về truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy.
Truyền thuyết lấy bối cảnh vào thời vua Hùng Vương, khi vị vua đang cai trị đã đến
tuổi già yêu, muốn truyền ngôi cho con cái của mình. Theo ông, người làm vua cần
phải kế thừa được tài đức, lý tưởng của ông chứ không nhất thiết phải làm con
trưởng. Điều đó gây nên một trận xôn xao trong các hoàng tử. Cuối cùng nhà vua ra
chỉ rằng: Vào ngày lễ tiên vương, ai làm ra được một món ăn vừa ngon, lại ý nghĩa,
được lòng tất cả mọi người thì sẽ được nối ngôi. Chiếu chỉ vừa ra, tất cả các hoàng
tử đều ra sức tìm kiếm những món ngon quý hiếm, sơn hào hải vị từ khắp nơi. Chỉ mong làm hài lòng vua cha.
Trong lúc ấy, chỉ có người con trai thứ mười tám của ngài - hoàng tử Lang Liêu là
chẳng làm gì cả. Bởi chàng có cuộc sống rất khó khăn, thiếu thốn. Nhà chàng chỉ có
thóc lúa là nhiều, chứ chẳng có gì cả. Vậy nên, chàng tự bỏ mình ra khỏi cuộc đua
dành ngôi báu. Một hôm trong khi nằm mơ, chàng được một vị thần báo mộng, chỉ
cho cách làm món bánh ngon, giàu ý nghĩa từ gạo nếp. Nghe theo lời dạy của thần,
Lang Liêu chọn thứ gạo nếp thơm lừng, hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch,
lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu
một ngày một đêm thật nhừ. Để đổi vị, đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đồ lên,
giã nhuyễn, nặn hình tròn. Đến ngày lễ tiên vương, món bánh của Lang Liêu trở
thành món bánh vua cha ưng ý nhất. Các cận thần cũng trầm trồ khen ngon. Đã thế
món bánh còn rất giàu ý nghĩa, tượng trưng cho sự hòa hợp của đất trời. Vì vậy,
thuận lí thành chương, Lang Liêu được vua Hùng chọn trở thành người kế vị. Cũng
từ đó, cứ đến dịp Tết, nhân dân ta lại đem gạo nếp ra làm bánh chưng, bánh giầy để
đặt lên mâm thờ tổ tiên.
Tục lệ ấy đến bây giờ vẫn còn được giữ. Bởi món bánh ấy không chỉ ngon mà còn
giàu ý nghĩa nữa. Nếu thiếu đi bánh chưng thì nghĩa là cái Tết ấy chẳng còn trọn vẹn nữa rồi.
Kể lại câu chuyện Bánh chưng, bánh giầy bằng lời văn của em mẫu 2
Trong những truyền thuyết mà em đã được học, em thích nhất là truyền thuyết Bánh
chưng bánh giầy. Không chỉ bởi đây là một câu chuyện thú vị, mà còn bởi vì nó nhắc
đến một truyền thống tốt đẹp vẫn được nhân dân ta lưu giữ từ ngàn đời nay.
Nhân vật chính của truyền thuyết đó là hoàng từ Lang Liêu. Chàng là con trai thứ
mười tám của Vua Hùng. Tuy là hoàng tử, nhưng do mẹ mất sớm lại không được
vua cha quan tâm. Nên từ nhỏ chàng không được sống trong nhung lụa như những
hoàng tử khác. Trái lại, chàng sống gần gũi với thiên nhiên, với những người nông
dân. Trong nhà chàng chỉ có thóc lúa là nhiều, chứ người hầu hay của cải, vàng bạc
vô cùng ít ỏi. Vậy nên, khi nghe tin vua cha muốn tìm người nối ngôi, thông qua thử
thách tìm ra món ngon nhất để thờ Tiên Vương. Thì chàng đã chẳng dám nghĩ đến
việc chiến thắng. Bởi các hoàng tử khác ra lệnh cho quân lính đi khắp nơi tìm sơn
hào hải vị còn chàng thì chẳng có gì.
Khi chàng đang trong tận cùng của sự chán nản, thì trong một lần ngủ say, chàng đã
gặp được sự chỉ dẫn của thần. Thần dạy cho chàng biết được, thứ lương thực quý
giá nhất trên đời này chính là hạt gạo chứ không phải món nào khác. Rồi chỉ cho
chàng cách nấu món bánh từ gạo nếp sao cho thơm ngon nhất. Nghe theo lời dạy
của thần, sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, chàng ngay lập tức bắt tay vào nấu bánh.
Đầu tiên, chàng vào trong kho, tìm kiếm từng hạt gạo nếp, sao cho hạt nào cũng
thật trắng trẻo, tròn đầy. Rồi đem đi vo thật sạch, không chút bụi bẩn nào. Sau đó
chọn miếng thịt lợn thật tươi ngon, cùng với đỗ xanh làm nhân. Bên ngoài dùng lá
dong gói lại, bọc thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho thật nhừ, quyện hết
vào nhau. Sau đó, để thêm phong phú, vẫn là những hạt gạo nếp được lựa chọn kĩ
càng ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn nặn thành hình tròn đầy đặn như mặt trăng.
Đến ngày lễ Tiên vương, hai món bánh của Lang Liêu được vua cha và các viên
quan hết lời khen ngợi vì không chỉ ngon mà còn giàu ý nghĩa. Sau một hồi ngẫm
nghĩ, vua Hùng nhận xét “Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh
hình vuông tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ
muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc
nhau”. Nói rồi, ngài đưa ra quyết định “Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang
Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám”.