Kể lại một truyền thuyết chọn lọc hay nhất
1. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy
Mỗi năm xuân về, mọi người trở về với gia đình, cùng nhau chuẩn bị cho một
cái Tết đủ đầy, sum vầy bên nhau. Một trong những món ăn không thể thiếu
trong mâm cỗ Tết truyền thống của người Việt chính bánh chưng, bánh
giày. Bên bếp lửa bập bùng, ngồi canh nồi bánh chưng đang luộc dở, câu
chuyện về truyền thuyết bánh chưng bánh giày lại hiện lên trong tâm t em.
Ngày xửa ngày xưa, khi vua Hùng Vương thứ sáu đã về già muốn
truyền lại ngôi báu cho con. Thế nhưng ngài lại tới hai mươi người con trai
ngôi báu chỉ một, nên vua muốn tìm ra một người con thật xứng đáng
cho vị trí y. Chính vậy, Hùng Vương bèn cho gọi các con đến nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền qua sáu
đời. Giặc ngoại xâm đã nhiều lần sang xâm lược nước ta nhưng nhờ phúc
ấm của Tiên vương chúng ta đều đánh đuổi được, bảo vệ đất ớc được
thanh bình. Nay ta đã già, ta muốn tìm một người nối ngôi để chăm lo cho
dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi không nhất thế phải
con trưởng mà phải người nối được chí ta. Năm nay, nhân lễ Tiên vương,
ai dâng đồ tế lễ vừa ý ta, ta sẽ truyền lại ngôi cho người đó. Xin Tiên Vương
chứng giám.
Thấy vậy, c lang liền toả đi khắp các vùng tìm đủ thứ vàng bạc châu báu,
của ngon vật lạ quý hiếm để dâng lên lễ Tiên vương mong vừa ý vua cha.
Lúc này, Lang Liêu - người con trai thứ mười tám của vua Hùng đang rất bối
rối, lo lắng không biết làm như thế nào. Chàng một người hiền hậu, chăm
chỉ rất mực hiếu thảo nhưng chẳng may mẹ mất sớm, thiếu người chỉ dẫn
nên chàng không biết nên làm món để dâng lên ngày lễ Tiên vương.
Một đêm, trong giấc mộng Lang Liêu được một vị thần đến ch bảo: "Này con,
vật trong Trời Đất không quý bằng hạt gạo, gạo thức ăn nuôi sống
con người, ăn mãi không chán. Con hãy lấy gạo nếp làm thành bánh hình
tròn hình vuông để tượng hình Trời Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân
trong ruột bánh, để tượng hình cho Cha Mẹ sinh thành.
Tỉnh giấc, Lang Liêu cùng mừng rỡ. Theo lời dặn của thần, chàng chọn
những hạt gạo nếp trắng tinh, ng tròn, dẻo thơm để làm ra những chiếc
bánh vuông vức, dùng đậu xanh thịt đ làm nhân, tượng trưng cho Đất.
Chàng lại dùng dong xanh tươi bọc n ngoài, dùng lạt mềm buộc lại cẩn
thận rồi đem đi luộc thật kĩ. Cũng với những hạt gạo nếp dẻo mềm ấy, chàng
mang đi đồ xôi, giã nhuyễn rồi nặn thành những chiếc bánh tròn trịa tượng
trưng cho Trời.
Cuối cùng ngày l Tiên vương đã tới, các lang đến mang theo biết bao nhiêu
loại n hào hải vị, mâm cao cỗ đầy để dâng lên. Trong khi đó, mâm cỗ
của Lang Liêu chỉ vỏn vẹn hai loại bánh. Thế nhưng sau khi xem qua một
lượt, Hùng Vương lại dừng lại rất lâu trước mâm bánh của Lang Liêu, tỏ vẻ
rất i ng. Vua cha cho gọi Lang Liêu đến để hỏi về thứ bánh này. Chàng
đã kể lại toàn bộ câu chuyện nằm thấy thần chỉ bảo vào giải thích về các
loại nguyên liệu, ch làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh. Nhà vua đã
quyết định chọn hai thứ bánh này để đem tế lễ.
Sau đó, vua Hùng nếm thử thấy bánh rất ngon lại mang nhiều ý nghĩa bèn
cho vời mọi người lại, truyền rằng: "Những chiếc bánh hình tròn này tượng
trưng cho Trời, ta đặt tên bánh giầy. Những chiếc bánh vuông tượng trưng
cho Đất, ta đặt tên bánh chưng. nh thịt mỡ, đậu xanh, dong...
tượng trưng cho muông thú, cây cỏ muôn loài...; bọc bên ngoài, vị để
trong ngụ ý nhắc nhở con người cần phải sống tương thân tương ái, đùm
bọc lẫn nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp với ý ta, vậy nên ta sẽ truyền
lại ngôi báu cho con".
Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. bánh chưng, bánh giày
cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết vẫn còn được truyền lại đến ngày
nay. Truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy bên cạnh việc giải về nguồn gốc
của hai loại bánh này còn ca ngợi công lao dựng nước giữ nước của các
vị vua Hùng.
2. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên
Mỗi người Việt Nam chúng ta khi được sinh ra ai cũng mang trong mình một
niềm t hào dân tộc, tự hào về cội nguồn của mình. Truyền thuyết "Con Rồng
cháu Tiên" một câu chuyện giải thích về nguồn cội cha ông đầy vẻ vang
của dân tộc ta, một truyền thuyết được lưu truyền đến mãi muôn đời
sau.
Thuở xưa, miền đất Lạc Việt, vùng Bắc Bộ nước ta ngày nay một vị thần
thuộc giống rồng, con trai thần Long Nữ tên Lạc Long Quân. Thần hình
rồng, sức khoẻ địch lại nhiều phép lạ. Thần thường hay giúp đỡ
nhân dân diệt trừ các loại yêu quái hay quấy nhiễ làm hại dân lành như: Ngư
Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh...Thần còn dạy cho dân chúng cách trồng trọt, chăn
nuôi. Ngày ấy, ng núi cao phương Bắc một nàng tiên nữ thuộc họ
Thần Nông xinh đẹp tuyệt trần tên Âu Cơ. Nghe danh vùng đất Lạc
nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng tìm đến thăm. đây, nàng gặp Lạc Long
Quân đem lòng cảm mến nhau rồi trở thành vợ chồng, cả hai cùng chung
sống hạnh phúc cung điện Long Trang.
Một thời gian sau, Âu mang. Đến ngày sinh nở, một chuyện lạ đã
xảy ra: nàng sinh ra một bọc trăm trứng; trăm trứng này nở ra trăm người con
đẹp đẽ lạ thường. Đàn con của nàng không cần mớm tự lớn nhanh
như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Thời gian cứ thế trôi qua,
Lạc Long Quân vốn quen nước cảm thấy rằng mình không thể sống mãi
trên cạn như này nên đã từ biệt Âu các con để trở về thuỷ cung.
Những ngày tháng đó Âu phải một mình nuôi con, chờ mong trong buồn
tủi. Ngày nọ, nàng gọi chồng lên than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp đi, không cùng thiếp nuôi các con ?
Lạc Long Quân đáp:
- Ta vốn nòi rồng miền nước thẳm, nàng là tiên chốn non cao, Người
sống trên cạn, kẻ dưới nước nên tính tình, tập quán khác nhau, khó ăn
cùng nhau một nơi lâu dài được. Giờ đây ta đưa năm mươi con xuống
biển, nàng đưa m mươi con lên núi, chia nhau cai quản c phương. K
miền núi, người miền biển, khi việc thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn
thề.
Âu nghe theo sự sắp đặt của chồng, đem theo năm ơi người con lên
rừng. Người con trưởng đi theo Âu n làm vua, lấy hiệu Hùng Vương,
đóng đô đất Phong Châu, đặt n nước Văn Lang. Triều đình tướng
văn, tướng võ; con trai của vua gọi lang, con gái vua gọi mị nương; khi
cha chết thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi
vua đều lấy hiệu Hùng Vương, không hề thay đổi.
Từ truyền thuyết này khi nhắc đến nguồn gốc của mình, người Việt ta
thường xưng là con Rồng cháu Tiên. Truyền thuyết này đã giải về nguồn
cội đề cao sức mạnh đoàn kết, thống nhất của cộng đồng người Việt.
Đồng thời, truyền thuyết cũng giải được về sự phân bố dân của nước ta.
3. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Kho tàng văn học dân gian Việt Nam rất nhiều những truyền thuyết hay,
một trong số đó truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Truyền thuyệt này
nhiều những chi tiết sinh động trong cuộc đấu đầy gay cấn để lấy được nàng
Mị Nuơng xinh đẹp giữa hai vị thần Sơn Tinh Thuỷ Tinh.
Ngày xưa, vua ng Vương thứ mười tám một người con gái tên Mị
Nương. Nàng đẹp như hoa, tính nết lại dịu hiền nên được vua cha yêu
thương hết mực. Năm đó, khi Mị Nương đã đến tuổi lấy chồng, nhà vua
muốn kén được một chàng rể trí dũng, tài ba đ xứng đáng với sắc đẹp của
nàng.
Nghe tin nhà vua kén rể, rất nhiều chàng trai mong muốn lấy được nàng
công chúa xinh đẹp này. Một ngày nọ, hai chàng trai đến cầu hôn. Một
người đến t ng núi Tản Viên, người ta thường gọi chàng Sơn Tinh.
Chàng tài vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây,
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Một người kia đến từ miền biển, tài năng
cũng không kém: gọi gió, gió đến; mưa, mưa về. Mọi người gọi chàng
Thuỷ Tinh. Cả hai người đều tài giỏi, xứng đáng trở thành rể của vua Hùng.
Vua Hùng băn khoăn không biết lựa chọn ai nên cho mời các Lạc hầu bàn
bạc. Xong xuôi, vua phán rằng:
- Hai chàng đều xứng đáng làm con rể ta, tuy nhiên ta lại chỉ một người
con gái nên không thể gả cho cả hai chàng được. vậy, ngày mai ai đem
sính l đến trước t ta sẽ gả con gái cho. Sính lễ gồm có: một trăm ván cơm
nếp, một trăm nệp bánh chưng voi chín ngà, chín cựa, ngựa chín hồng
mao, mỗi thứ một đôi".
Ngày hôm sau, mới tờ mờ sáng Sơn Tinh đã mang đầy đủ các lễ vật đến đ
rước Mị Nương về. Mãi đến gần trưa Thuỷ Tinh mới đến, không lấy được vợ
nên nổi giận, làm phép đuổi đánh Sơn Tinh đòi cướp lại Mị Nương. Thần
mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông
lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa,
nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu n nổi lềnh bềnh trên
một biển nước. Thế nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, chàng dùng phép
thuật của mình để bốc từng dãy i, ngọn đồi đắp lên thành một con đê
khổng lồ, vững chắc để ngăn chặn dòng nước lũ. Cuộc chiến này kéo dài
tưởng chừng không hồi kết, thế nhưng sức Thuỷ Tinh đã đuối Sơn
Tinh vẫn vững vàng nên đã vội rút quân về.
Thuỷ Tinh vẫn mang một nỗi thù oán nặng u nên hằng năm vẫn dâng nước
lên đánh Sơn Tinh mong cướp lại được Mị Nương về. Nhưng năm nào cũng
vậy, Thuỷ Tinh đánh mãi cũng không thắng nổi Sơn Tinh nên lại rút quân về.
4. Truyền thuyết Thánh Gióng
Từ những ngày còn bé, chúng ta lớn lên bằng những câu chuyện
mẹ kể, những câu chuyện về lịch sử hào hùng cũng như những truyền thuyết
li . Từ những câu chuyện đấy đã gieo trong chúng ta những niềm tự hào
tôn kính những người anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Truyền
thuyết Thánh Gióng một trong những truyền thuyết kể về một vị anh hùng
oai phong, lẫm liệt của dân tộc.
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, làng Gióng hai vợ chồng ông lão nọ chăm
chỉ làm ăn lại tiếng phúc đức. Ấy vậy hai người mãi không lấy nổi
một mụn con. Một ngày nọ, khi lão ra đồng bỗng trông thấy một vết chân
rất to, lại đặt chân mình lên ướm thử. lạ thay, khi về bà lại thụ thai
mười hai tháng sau sinh ra một người con trai rất khôi ngô. Hai vợ chồng
cùng mừng rỡ.Thế nhưng thời gian thấm thoắt trôi qua, đứa trẻ lên ba tuổi
nhưng vẫn không biết nói cười, cũng chẳng biết đi, chỉ đặt đâu nằm đó.
Hồi bấy giờ giặc Ân đến xâm chiếm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua
lo lắng nên sai sứ gi đi tìm người tài cứu ớc. Thần thay, khi nghe thấy
tiếng rao của sứ giả, đứa bỗng dưng lại nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây".
Khi sứ giả đến, đứa bảo: "Ông hãy về tâu với vua làm cho ta một con
ngựa sắt, một cái roi sắt một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này".
Sứ giả vừa cùng kinh ngạc. vừa mừng rỡ vội vàng về tâu lên vua. Nhà vua
đã cho những người thợ gấp t ngày đêm làm những vật phẩm cậu
yêu cầu.
Lạ lùng hơn nữa, sau ngày gặp sứ giả cậu lại lớn nhanh như thổi. Cơm ăn
bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc vào đã đứt chỉ. Hai vợ chồng
ông lão làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con nên phải nhờ cậy con
làng xóm. Mọi người đều vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, chỉ mong rằng cậu sẽ
giết giặc, trừ hoạ cho dân.
Ngày đó, khi giặc vừa đến sát chân núi Trâu t sứ giả cũng kịp mang
khó tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác
áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ dân làng rồi nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa,
tráng thúc ngựa phi thẳng đến nơi giặc, đón đầu chúng đánh giết,
giặc chết như ngả rạ. Bỗng dưng roi sắt gãy. Tráng bèn nhổ những cụm tre
cạnh đường để quật vào giặc. Khi đánh cho chúng đến tan tác, tráng đuổi
đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng đã lên đến đỉnh núi,
cởi giáp sắt b lại, vái tạ mẹ rồi cả người lẫn ngựa đều từ từ bay lên người.
Để tưởng nhớ công ơn của tráng sĩ, vua đã phong Phù Đổng Thiên Vương
lập đền thờ ngay tại quê nhà. Hiện nay, đền thờ vẫn còn làng P Đổng,
tục gọi làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành
những ao h to nhỏ nối tiếp nhau, di tích chứng minh cho chiến công oanh
liệt của Thánh Gióng.

Preview text:

Kể lại một truyền thuyết chọn lọc hay nhất
1. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy
Mỗi năm xuân về, mọi người trở về với gia đình, cùng nhau chuẩn bị cho một
cái Tết đủ đầy, sum vầy bên nhau. Một trong những món ăn không thể thiếu
trong mâm cỗ Tết truyền thống của người Việt chính là bánh chưng, bánh
giày. Bên bếp lửa bập bùng, ngồi canh nồi bánh chưng đang luộc dở, câu
chuyện về truyền thuyết bánh chưng bánh giày lại hiện lên trong tâm trí em.
Ngày xửa ngày xưa, khi mà vua Hùng Vương thứ sáu đã về già và muốn
truyền lại ngôi báu cho con. Thế nhưng ngài lại có tới hai mươi người con trai
mà ngôi báu chỉ có một, nên vua muốn tìm ra một người con thật xứng đáng
cho vị trí này. Chính vì vậy, Hùng Vương bèn cho gọi các con đến và nói:
- Mảnh đất Lạc Việt của chúng ta từ buổi đầu dựng nước đã truyền qua sáu
đời. Giặc ngoại xâm đã nhiều lần sang xâm lược nước ta nhưng nhờ phúc
ấm của Tiên vương chúng ta đều đánh đuổi được, bảo vệ đất nước được
thanh bình. Nay ta đã già, ta muốn tìm một người nối ngôi để chăm lo cho
dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi không nhất thế phải là
con trưởng mà phải là người nối được chí ta. Năm nay, nhân lễ Tiên vương,
ai dâng đồ tế lễ vừa ý ta, ta sẽ truyền lại ngôi cho người đó. Xin Tiên Vương chứng giám.
Thấy vậy, các lang liền toả đi khắp các vùng tìm đủ thứ vàng bạc châu báu,
của ngon vật lạ quý hiếm để dâng lên lễ Tiên vương mong vừa ý vua cha.
Lúc này, Lang Liêu - người con trai thứ mười tám của vua Hùng đang rất bối
rối, lo lắng không biết làm như thế nào. Chàng là một người hiền hậu, chăm
chỉ và rất mực hiếu thảo nhưng chẳng may mẹ mất sớm, thiếu người chỉ dẫn
nên chàng không biết nên làm món gì để dâng lên ngày lễ Tiên vương.
Một đêm, trong giấc mộng Lang Liêu được một vị thần đến chỉ bảo: "Này con,
vật trong Trời Đất không có gì quý bằng hạt gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống
con người, ăn mãi không chán. Con hãy lấy gạo nếp làm thành bánh hình
tròn và hình vuông để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân
trong ruột bánh, để tượng hình cho Cha Mẹ sinh thành.
Tỉnh giấc, Lang Liêu vô cùng mừng rỡ. Theo lời dặn của thần, chàng chọn
những hạt gạo nếp trắng tinh, căng tròn, dẻo thơm để làm ra những chiếc
bánh vuông vức, dùng đậu xanh và thịt để làm nhân, tượng trưng cho Đất.
Chàng lại dùng lá dong xanh tươi bọc bên ngoài, dùng lạt mềm buộc lại cẩn
thận rồi đem đi luộc thật kĩ. Cũng với những hạt gạo nếp dẻo mềm ấy, chàng
mang đi đồ xôi, giã nhuyễn rồi nặn thành những chiếc bánh tròn trịa tượng trưng cho Trời.
Cuối cùng ngày lễ Tiên vương đã tới, các lang đến mang theo biết bao nhiêu
là loại sơn hào hải vị, mâm cao cỗ đầy để dâng lên. Trong khi đó, mâm cỗ
của Lang Liêu chỉ vỏn vẹn hai loại bánh. Thế nhưng sau khi xem qua một
lượt, Hùng Vương lại dừng lại rất lâu trước mâm bánh của Lang Liêu, tỏ vẻ
rất hài lòng. Vua cha cho gọi Lang Liêu đến để hỏi về thứ bánh này. Chàng
đã kể lại toàn bộ câu chuyện nằm mơ thấy thần chỉ bảo vào giải thích về các
loại nguyên liệu, cách làm cũng như ý nghĩa của từng loại bánh. Nhà vua đã
quyết định chọn hai thứ bánh này để đem tế lễ.
Sau đó, vua Hùng nếm thử thấy bánh rất ngon lại mang nhiều ý nghĩa bèn
cho vời mọi người lại, truyền rằng: "Những chiếc bánh hình tròn này tượng
trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Những chiếc bánh vuông tượng trưng
cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Bánh có thịt mỡ, đậu xanh, lá dong...
tượng trưng cho muông thú, cây cỏ muôn loài...; lá bọc bên ngoài, mĩ vị để
trong là ngụ ý nhắc nhở con người cần phải sống tương thân tương ái, đùm
bọc lẫn nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất hợp với ý ta, vậy nên ta sẽ truyền lại ngôi báu cho con".
Kể từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi. Và bánh chưng, bánh giày
cùng với phong tục cúng lễ tổ tiên ngày tết vẫn còn được truyền lại đến ngày
nay. Truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy bên cạnh việc lí giải về nguồn gốc
của hai loại bánh này còn ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của các vị vua Hùng.
2. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên
Mỗi người Việt Nam chúng ta khi được sinh ra ai cũng mang trong mình một
niềm tự hào dân tộc, tự hào về cội nguồn của mình. Truyền thuyết "Con Rồng
cháu Tiên" là một câu chuyện giải thích về nguồn cội cha ông đầy vẻ vang
của dân tộc ta, là một truyền thuyết mà được lưu truyền đến mãi muôn đời sau.
Thuở xưa, ở miền đất Lạc Việt, vùng Bắc Bộ nước ta ngày nay có một vị thần
thuộc giống rồng, con trai thần Long Nữ tên là Lạc Long Quân. Thần hình
rồng, có sức khoẻ vô địch lại có nhiều phép lạ. Thần thường hay giúp đỡ
nhân dân diệt trừ các loại yêu quái hay quấy nhiễ làm hại dân lành như: Ngư
Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh...Thần còn dạy cho dân chúng cách trồng trọt, chăn
nuôi. Ngày ấy, ở vùng núi cao phương Bắc có một nàng tiên nữ thuộc họ
Thần Nông xinh đẹp tuyệt trần tên là Âu Cơ. Nghe danh vùng đất Lạc có
nhiều hoa thơm cỏ lạ nên nàng tìm đến thăm. Ở đây, nàng gặp Lạc Long
Quân và đem lòng cảm mến nhau rồi trở thành vợ chồng, cả hai cùng chung
sống hạnh phúc ở cung điện Long Trang.
Một thời gian sau, Âu Cơ có mang. Đến ngày sinh nở, một chuyện kì lạ đã
xảy ra: nàng sinh ra một bọc trăm trứng; trăm trứng này nở ra trăm người con
đẹp đẽ lạ thường. Đàn con của nàng không cần bú mớm mà tự lớn nhanh
như thổi, mặt mũi khôi ngô, khoẻ mạnh như thần. Thời gian cứ thế trôi qua,
Lạc Long Quân vốn quen ở nước cảm thấy rằng mình không thể sống mãi
trên cạn như này nên đã từ biệt Âu Cơ và các con để trở về thuỷ cung.
Những ngày tháng đó Âu Cơ phải một mình nuôi con, chờ mong trong buồn
tủi. Ngày nọ, nàng gọi chồng lên và than thở:
- Sao chàng bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi các con ? Lạc Long Quân đáp:
- Ta vốn nòi rồng ở miền nước thẳm, nàng là tiên ở chốn non cao, Người
sống trên cạn, kẻ ở dưới nước nên tính tình, tập quán khác nhau, khó mà ăn
ở cùng nhau ở một nơi lâu dài được. Giờ đây ta đưa năm mươi con xuống
biển, nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ
miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn thề.
Âu Cơ nghe theo sự sắp đặt của chồng, đem theo năm mươi người con lên
rừng. Người con trưởng đi theo Âu Cơ lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương,
đóng đô ở đất Phong Châu, đặt tên nước là Văn Lang. Triều đình có tướng
văn, tướng võ; con trai của vua gọi là lang, con gái vua gọi là mị nương; khi
cha chết thì ngôi được truyền cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi
vua đều lấy hiệu là Hùng Vương, không hề thay đổi.
Từ truyền thuyết này mà khi nhắc đến nguồn gốc của mình, người Việt ta
thường xưng là con Rồng cháu Tiên. Truyền thuyết này đã lí giải về nguồn
cội và đề cao sức mạnh đoàn kết, thống nhất của cộng đồng người Việt.
Đồng thời, truyền thuyết cũng lý giải được về sự phân bố dân cư của nước ta.
3. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Kho tàng văn học dân gian Việt Nam có rất nhiều những truyền thuyết hay,
một trong số đó là truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Truyền thuyệt này có
nhiều những chi tiết sinh động trong cuộc đấu đầy gay cấn để lấy được nàng
Mị Nuơng xinh đẹp giữa hai vị thần Sơn Tinh và Thuỷ Tinh.
Ngày xưa, vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị
Nương. Nàng đẹp như hoa, tính nết lại dịu hiền nên được vua cha yêu
thương hết mực. Năm đó, khi mà Mị Nương đã đến tuổi lấy chồng, nhà vua
muốn kén được một chàng rể trí dũng, tài ba để xứng đáng với sắc đẹp của nàng.
Nghe tin nhà vua kén rể, có rất nhiều chàng trai mong muốn lấy được nàng
công chúa xinh đẹp này. Một ngày nọ, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một
người đến từ vùng núi Tản Viên, người ta thường gọi chàng là Sơn Tinh.
Chàng có tài vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây,
phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Một người kia đến từ miền biển, tài năng
cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Mọi người gọi chàng là
Thuỷ Tinh. Cả hai người đều tài giỏi, xứng đáng trở thành rể của vua Hùng.
Vua Hùng băn khoăn không biết lựa chọn ai nên cho mời các Lạc hầu và bàn
bạc. Xong xuôi, vua phán rằng:
- Hai chàng đều xứng đáng làm con rể ta, tuy nhiên ta lại chỉ có một người
con gái nên không thể gả cho cả hai chàng được. Vì vậy, ngày mai ai đem
sính lễ đến trước thì ta sẽ gả con gái cho. Sính lễ gồm có: một trăm ván cơm
nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi".
Ngày hôm sau, mới tờ mờ sáng Sơn Tinh đã mang đầy đủ các lễ vật đến để
rước Mị Nương về. Mãi đến gần trưa Thuỷ Tinh mới đến, không lấy được vợ
nên nổi giận, làm phép đuổi đánh Sơn Tinh đòi cướp lại Mị Nương. Thần hô
mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông
lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước ngập nhà cửa,
nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu như nổi lềnh bềnh trên
một biển nước. Thế nhưng Sơn Tinh không hề nao núng, chàng dùng phép
thuật của mình để bốc từng dãy núi, ngọn đồi đắp lên thành một con đê
khổng lồ, vững chắc để ngăn chặn dòng nước lũ. Cuộc chiến này kéo dài
tưởng chừng không có hồi kết, thế nhưng sức Thuỷ Tinh đã đuối mà Sơn
Tinh vẫn vững vàng nên đã vội rút quân về.
Thuỷ Tinh vẫn mang một nỗi thù oán nặng sâu nên hằng năm vẫn dâng nước
lên đánh Sơn Tinh mong cướp lại được Mị Nương về. Nhưng năm nào cũng
vậy, Thuỷ Tinh đánh mãi cũng không thắng nổi Sơn Tinh nên lại rút quân về.
4. Truyền thuyết Thánh Gióng
Từ những ngày còn bé, chúng ta lớn lên bằng những câu chuyện mà bà và
mẹ kể, những câu chuyện về lịch sử hào hùng cũng như những truyền thuyết
li kì. Từ những câu chuyện đấy đã gieo trong chúng ta những niềm tự hào và
tôn kính những người anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Truyền
thuyết Thánh Gióng là một trong những truyền thuyết kể về một vị anh hùng
oai phong, lẫm liệt của dân tộc.
Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nọ chăm
chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Ấy vậy mà hai người mãi không có lấy nổi
một mụn con. Một ngày nọ, khi bà lão ra đồng bỗng trông thấy một vết chân
rất to, bà lại đặt chân mình lên ướm thử. Kì lạ thay, khi về bà lại thụ thai và
mười hai tháng sau sinh ra một người con trai rất khôi ngô. Hai vợ chồng vô
cùng mừng rỡ.Thế nhưng thời gian thấm thoắt trôi qua, đứa trẻ lên ba tuổi
nhưng vẫn không biết nói cười, cũng chẳng biết đi, chỉ đặt đâu là nằm đó.
Hồi bấy giờ giặc Ân đến xâm chiếm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua
lo lắng nên sai sứ giả đi tìm người tài cứu nước. Thần kì thay, khi nghe thấy
tiếng rao của sứ giả, đứa bé bỗng dưng lại nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây".
Khi sứ giả đến, đứa bé bảo: "Ông hãy về tâu với vua làm cho ta một con
ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan lũ giặc này".
Sứ giả vừa vô cùng kinh ngạc. vừa mừng rỡ vội vàng về tâu lên vua. Nhà vua
đã cho những người thợ gấp rút ngày đêm làm những vật phẩm mà cậu bé yêu cầu.
Lạ lùng hơn nữa, sau ngày gặp sứ giả cậu bé lại lớn nhanh như thổi. Cơm ăn
bao nhiêu cũng không no, quần áo vừa mặc vào đã đứt chỉ. Hai vợ chồng
ông lão làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con nên phải nhờ cậy bà con
làng xóm. Mọi người đều vui lòng góp gạo nuôi cậu bé, chỉ mong rằng cậu sẽ
giết giặc, trừ hoạ cho dân.
Ngày đó, khi mà giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ
khó tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sĩ, khoác
áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa,
tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng và đánh giết,
giặc chết như ngả rạ. Bỗng dưng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre
cạnh đường để quật vào giặc. Khi đánh cho chúng đến tan tác, tráng sĩ đuổi
đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ đã lên đến đỉnh núi,
cởi giáp sắt bỏ lại, vái tạ mẹ rồi cả người lẫn ngựa đều từ từ bay lên người.
Để tưởng nhớ công ơn của tráng sĩ, vua đã phong là Phù Đổng Thiên Vương
và lập đền thờ ngay tại quê nhà. Hiện nay, đền thờ vẫn còn ở làng Phù Đổng,
tục gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành
những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích chứng minh cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.
Document Outline

  • Kể lại một truyền thuyết chọn lọc hay nhất
    • 1. Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy
    • 2. Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên
    • 3. Truyền thuyết Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
    • 4. Truyền thuyết Thánh Gióng