







Preview text:
Khái niệm hợp tác xã? Đặc điểm của hợp tác xã theo quy định mới 1. Khái niệm hợp tác xã
Năm 1844, ở thị trấn Rochdale tại Vương quốc Anh, đứng trước những điều
kiện sống vô cùng khó khăn, tư thương độc quyền cung cấp thực phẩm với
giá đắt, quyền lợi của người tiêu dùng không được bảo đảm, 28 công nhân
đã thành lập hợp tác xã tiêu dùng đầu tiên để cung cấp nhu yếu phẩm với
mức giá phải chăng, cung cấp cơ sở giáo dục và xã hội cho những người lao
động bình thường. Sau thời điểm này, những người lao động ở Cộng hòa
Pháp cũng đã tổ chức thành lập một số hợp tác xã sản xuất của công nhân.
Đến cuối thế kỉ XIX, đã có khoảng 1.400 hợp tác xã được thảnh lập và hoạt
động ở Vương quốc Anh. Nhiều nước trên thế giới cũng đã phát triển mạnh
phong trào hợp tác xã và có nhu cầu hợp tác cũng như chia sẻ kinh nghiệm
hợp tác hoá giữa các quốc gia.
Mô hình hợp tác xã được những người lao động hưởng ứng và phát triển sâu
rộng vì nó là tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế được tổ chức và hoạt động dựa trên các giá trị tương trợ,
tự chủ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Tuy
hợp tác xã là một tổ chức kinh tế, nhưng mục đích của hợp tác xã không phải
chỉ nhằm đạt được lợi nhuận tối đa. Sứ mạng và mục đích quan trọng nhất
của hợp tác xã là hỗ trợ và phục vụ nhu cầu của các thành viên bằng việc
cung cấp các dịch vụ, như: tín dụng, sản xuất, tiếp thị, chế biến, cung ứng vật
tư nông nghiệp, huy động các nguồn vốn tiết kiệm..
Với các quy mô và hình thức khác nhau, các hợp tác xã đã và đang thu hút
đông đảo nhân dân lao động và cộng đồng địa phương tham gia. Thông qua
các phương thức điều tiết phù hợp, các hợp tác xã không ngừng cải thiện
những điều kiện sống và làm việc cho người dân lao động và cộng đồng dân cư ở các địa phương.
Hợp tác xã được tổ chức và hoạt động dựa trên triết lý nền tảng là sự hợp tác
giữa các thành viên cho một sự nghiệp chung. Bản chất của sự họp tác này
được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Các thành viên có những nhu cầu chung trong sản xuất, kinh doanh, làm
dịch vụ. Việc đáp ứng những nhu cầu chung đó thông qua sự hợp tác giữa
các thành viên đem lại hiệu quả lớn hơn so với việc từng thành viên đơn lẻ tự
thực hiện. Nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch
vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn định từ hoạt động sản xuất, kinh
doanh, đời sống của thành viên hợp tác xã. Đối với hợp tác xã tạo việc làm
thì nhu cầu chung của thành viên là có việc làm và có thu nhập từ hoạt động
sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã.
- Trong quá trình hợp tác với nhau, các thành viên của hợp tác xã vẫn giữ
được sự độc lập, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của họ và gia đình họ.
Các thành viên hợp tác xã và gia đình họ vẫn là những chủ thể kinh tế - xã
hội độc lập với hợp tác xã. Sự hợp tác của các thành viên trong mô hình hợp
tác xã không triệt tiêu các hoạt động sản xuất, kinh doanh độc lập cũng như
các lợi ích chính đáng của các thành viên hợp tác xã và gia đình họ.
- Các thành viên hợp tác xã có vị trí và vai trò bình đẳng trong sự hợp tác. Họ
có các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm như nhau trong quá trình hợp tác và
thực hiện việc quản lý dân chủ, bình đẳng đôi với tổ chức kinh tế của họ, mặc
dù họ có thể đóng góp vốn, góp sức lao động và sử dụng dịch vụ với các quy
mô khác nhau trong hợp tác xã.
Cách đây gần 200 năm, các nhà tư tưởng cách mạng ở châu Âu như Robert
Owen (Vương quốc Anh), Fourier, Saint Simon (Cộng hòa Pháp), Huber,
Schulze Delitzsch và Reiffeisen (Đức) đã đưa ra những ý tưởng đầu tiên về
mục đích và phương thức tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã.
Các lãnh tụ của phong trào cộng sản thế giới như F. Ăng ghen, Lênin cũng đã
nhiều lần nêu ra các tư tưởng và phương thức tổ chức và hoạt động của các
hợp tác xã. F. Ăng ghen viết:
“Nông dân trong một làng hay một giáo xứ... phải kết hợp toàn
bộ ruộng đất của họ lại thành một doanh nghiệp lớn duy nhát,
cùng bỏ sức cày cấy chung và chia hoa lợi theo tỉ lệ ruộng đất
đã góp vào, tiền bạc đã bỏ ra và lao động đã làm được ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngay từ giai đoạn đầu của sự nghiệp cách mạng, cũng
đã nhận thức rất rõ ràng về bản chất, vai trò của hợp tác xã đối với việc cải
thiện điều kiện sống và làm việc của các tầng lớp nhân dân lao động và đóng
góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong tác phẩm “Đường
Kách mệnh” (1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh (khi đó có tên là Nguyễn Ái Quốc)
đã trình bày các tư tưởng, quan niệm về hợp tác xã một cách có hệ thống, từ
lịch sử, mục đích đến các loại hình hợp tác xã. Người đã đúc rút lý luận và
kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của các hợp tác xã ở Anh, Pháp, Đức, Nga,
Nhật Bản và phổ biến một cách rất dễ hiểu cách thức tổ chức các loại hình
hợp tác xã khác nhau ở Việt Nam.1
Ngày 18/8/1895, Liên minh Hợp tác xã Quốc tế (International Cooperative
Aliance-ICA) đã được thành lập tại thủ đô London (Vương quốc Anh) với sự
tham gia của 207 đại biểu đến từ nhiều nước hên thế giới. Với lịch sử hom
100 năm qua, ICA ngày càng được củng cố và phát triển lớn mạnh về tổ
chức và hoạt động. Ngày nay, ICA đã kết nạp được nhiều hội viên là hiệp hội
hợp tác xã của 96 nước và vùng lãnh thổ với 238 tổ chức thành viên đại diện
cho trên 800 triệu thành viên hợp tác xã.
Tại đại hội ICA lần thứ 31 tại Manchester (Vưomg quốc Anh) tháng 9/1995,
ICA đã nêu rõ bản chất của hợp tác xã trong định nghĩa có tính pháp lý trên
cơ sở tổng kết kinh nghiệm hình thành và phát triển của các hợp tác xã trên
thế giới trong gần 200 năm qua; đó là:
“Hợp tác xã là tổ chức/hiệp hội tự chủ của các cá nhân liên kết
với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và
nguyên vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một
doanh nghiệp được sở hữu chung và được kiểm soát một cách dân chủ”.
Luật Hợp tác xã năm 2012 của Việt Nam cũng đã định nghĩa: Hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành
viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên,
trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý
hợp tác xã (khoản 1 Điều 3).
2. Đặc điểm của hợp tác xã
Cări cứ vào khái niệm hợp tác xã, có thể thấy hợp tác xã có các đặc điểm chủ yếu như sau:
Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể, có các thành viên là cá nhân hoặc tổ chức.
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể được tổ chức và hoạt động trên cơ
sở sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và tài sản. Tài sản, vốn và tư liệu sản
xuất của hợp tác xã được hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các thành
viên, khi họ gia nhập hợp tác xã. Trong hợp tác xã có sự liên kết rộng rãi của
những người lao động, của các hộ thành viên, của các nhà đầu tư, của các
doanh nghiệp nhỏ và vừa... thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Sự liên
kết và hợp tác này không bị giới hạn bởi số lượng thành viên, quy mô, lĩnh
vực và địa bàn sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ. Ngoài các thành viên là cá
nhân, các hộ gia đình, các tổ chức, các doanh nghiệp khác cũng có thể được
kết nạp làm thành viên hợp tác xã. Trong trường hợp này, các hộ gia đình,
các tổ chức, doanh nghiệp sẽ cử ra người làm đại diện thể hiện nguyện vọng
và tiếng nói của họ trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của hợp tác xã.
Thứ hai, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc.
Tính xã hội và nhân văn của hợp tác xã được thể hiện rõ trong các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nó, đó là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi,
quản lý dân chủ. Hợp tác xã thực hiện những công việc giúp đỡ, hỗ trợ cho
các thành viên và gia đình họ trong sản xuất, kinh doanh, làm dịch vụ, trong
việc cải thiện những điều kiện sống và làm việc của họ, trong việc giúp các
thành viên nâng cao trình độ văn hoá và nghiệp vụ chuyên môn. Mục tiêu
hoạt động của hợp tác xã không chỉ là kinh tế và lợi nhuận mà còn là việc cải
thiện đời sống tinh thần, nâng cao trình độ văn hoá và năng lực, trình độ của
các thành viên, là việc bảo đảm an sinh xã hội cho các thành viên.
Thứ ba, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân.
Điều 74 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một tổ chức có tư cách pháp
nhân được thể hiện ở bốn dấu hiệu. Hợp tác xã có đầy đủ bốn dấu hiệu này,
đó là hợp tác xã được thành lập một cách hợp pháp khi đăng ký kinh doanh ở
UBND cấp huyện và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; hợp tác
xã có cơ cấu tổ chức chặt chẽ khi thành lập các cơ quan quản lý, điều hành
và kiểm soát (như Đại hội thành viên, Hội đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám
đốc, Ban kiểm soát...); hợp tác xã có tài sản độc lập với các cá nhân, tổ chức
khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó đối với các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác; hợp tác xã cũng nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp
luật một cách độc lập, CÓ thể là nguyên đơn, bị đơn trước các cơ quan tài
phán như Toà án, Trọng tài thương mại.
Ngoài ra, hợp tác xã có một số đặc trưng khác với các loại hình doanh nghiệp
khác ở chỗ tư cách thành viên hợp tác xã không được quyết định bởi quy mô,
độ lớn của số vốn mà các thành viên góp vào hợp tác xã mà bởi chính bản
thân các thành viên đó. Dù đóng góp vốn nhiều hay ít, mỗi thành viên cũng
chỉ có một phiếu biểu quyết. Điều này khác hẳn cơ chế dân chủ ở đa số các
loại hình doanh nghiệp khác, đó là cơ chế dân chủ theo cổ phần: Thành viên
càng có nhiều cổ phần thì càng có nhiều phiếu biểu quyết, càng có cơ hội
được bầu vào các cơ quan quản lý, điều hành và kiểm soát của doanh nghiệp đó.
Trong hợp tác xã cũng có một loại tài sản đặc biệt, đó là tài sản thuộc sở hữu
tập thể và không được chia. Tài sản không chia là một bộ phận tài sản của
hợp tác xã không được chia cho thành viên của hợp tác xã khi chấm dứt tư
cách thành viên hoặc khi hợp tác xã chấm dứt hoạt động, ví dụ như trụ sở,
kho tàng, nhà văn hoá, hệ thống đường giao thông, đường điện, truyền
thanh.. Những tài sản này được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ
phúc lợi của hợp tác xã, được Nhà nước hay các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước tài trợ, tặng cho.. hợp tác xã.
Thứ tư, hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Các hợp tác xã có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
trong việc hoạch định quy hoạch, kế hoạch sản xuất, kinh doanh và làm dịch
vụ. Hợp tác xã có quyền chủ động trong việc huy động vốn, kết nạp, khai trừ
thành viên, ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế, tự chịu trách nhiệm đối
với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn và tài sản của hợp
tác xã. Nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có thể giúp đỡ,
hỗ trợ cho hợp tác xã về vật chất và tinh thần, nhưng không chịu trách nhiệm thay cho các hợp tác xã.
Hoạt động của hợp tác xã nhằm mục đích chủ yếu là hỗ trợ, phục vụ lợi ích
kinh tế của cá nhân các thành viên và lợi ích chung của tập thể, đồng thời coi
trọng các lợi ích xã hội của cộng đồng dân cư. Hiệu quả hoạt động của hợp
tác xã được đánh giá không chỉ về mặt kinh tế, lợi nhuận đạt được, mà còn
cả về mặt nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật, bảo đảm an sinh xã
hội và cải thiện đời sống tinh thần cho các thành viên.
Quyền tự chủ của hợp tác xã được thể hiện qua việc các hợp tác xã có các
quyền cơ bản như: Thực hiện mục tiêu hoạt động của hợp tác xã; tự chủ, tự
chịu trách nhiệm trong hoạt động của mình; quyết định tổ chức quản lý và
hoạt động của hợp tác xã; Thuê và sử dụng lao động theo nhu cầu; tiến hành
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm theo ngành, nghề đã đăng
ký nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên hợp tác xã; cung ứng, tiêu
thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên hợp tác xã và ra thị trường
nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với thành viên hợp tác xã; kết
nạp mới, chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã; tăng, giảm vốn điều lệ
trong quá trình hoạt động; góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp
nhằm mục tiêu hỗ trợ hoạt động của hợp tác xã; thực hiện việc phân phối thu
nhập, xử lý các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã và các quyền khác theo
quy định của pháp luật.
Nghĩa vụ tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã được thể hiện qua việc các hợp
tác xã có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ:
1) Hoạt động đúng ngành, nghề đã đăng ký;
2) Thực hiện quy định của pháp luật về tài chính, thuế, kế toán, kiểm toán, thống kê; 3
) Quản lý, sử dụng vốn, tài sản và các quỹ của hợp tác xã theo quy định của pháp luật;
4) Quản lý, sử dụng đất và tài nguyên khác được Nhà nước giao hoặc cho
thuê theo quy định của pháp luật;
5) Ký kết và thực hiện hợp đồng lao động, đỏng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y
tế và các chính sách khác cho người lao động theo quy định của pháp luật;
6) Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, hợp tác xã thực hiện việc phân phối thu nhập cho các thành viên
theo lao động, theo vốn góp và theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã.
Nguồn vốn cơ bản và chủ yếu phục vụ hoạt động kinh doanh của hợp tác xã
là do các thành viên đóng góp khi họ gia nhập hợp tác xã. Do đó, thành viên
đóng góp nhiều vốn vào hợp tác xã đương nhiên được hợp tác xã phân phối
thu nhập nhiều hơn thành viên đóng góp ít vốn vào hợp tác xã.
Có nhiều loại hình hợp tác xã khác nhau. Có loại hợp tác xã tạo việc làm, sản
xuất ra các sản phẩm hàng hoá hữu hình, bán ra thị trường và thu về lợi
nhuận. Do vậy, các khoản thu nhập và lợi nhuận của hợp tác xâ được phân
phối cho các thành viên trên cơ sở số lượng và chất lượng lao động mà các
thành viên đã thực hiện trong hợp tác xã. Có hợp tác xã làm dịch vụ phục vụ
cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên (như bán giống
cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, tưới tiêu nước, phòng trừ sâu
bệnh, cung cấp điện, nước...). Có hợp tác xã huy động tiền gửi tiết kiệm từ
các thành viên (hợp tác tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân). Thu nhập của các
loại hình hợp tác xã này có được từ việc bán hàng hoá, sản phẩm hoặc thu
phí sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Các thành viên càng mua nhiều hàng
hoá, sử dụng nhiều dịch vụ của hợp tác xã thi càng tạo ra nhiều lợi nhuận cho hợp tác xã.
Do vậy, phương thức cũng như nguyên tắc phân phối thu nhập của hợp tác
xã là phân phối thu nhập cho các thành viên theo lao động, theo vốn góp và
theo việc sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Phương thức và nguyên tắc phân
phối thu nhập này của hợp tác xã cũng phân biệt với phương thức và nguyên
tắc phân phối thu nhập trong các loại hình doanh nghiệp khác, nơi mà thu
nhập và lợi nhuận có được từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được
phân phối chủ yếu theo cổ phần mà các thành viên đã đóng góp vào doanh nghiệp.
Thứ sáu, hợp tác xã được hưởng các chính sách bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi của Nhà nước.
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có tính xã hội và nhân văn sâu sắc. Mục
đích và sứ mạng của hợp tác xã là giúp đỡ, hỗ trợ cho những người lao động,
các hộ gia đình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn về kinh tế, nên
nhiều Nhà nước trên thế giới cũng như Nhà nước Việt Nam áp dụng các
chính sách đặc biệt để tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã có cơ hội
được thành lập và phát triển. V.I. Lênin đã từng nói:
“về mặt chinh trị, cần làm thế nào để chẳng những các hợp tác
xã, nói chung và luôn luôn được hưởng một số ưu đãi, mà số ưu
đãi này còn phải là những ưu đãi thuần tuỷ vật chất (tỉ suất tiền
lời trả cho ngân hàng).
Phải cho chế độ hợp tác xã hưởng một sổ những đặc quyền
kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà Nhà nước xã hội
chủ nghĩa của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới
của dân cư phải là như vậy
Quán triệt quan điểm của các nhà tư tưởng về hợp tác xã, đúc kết kinh
nghiệm tổ chức phong trào hợp tác xã hàng chục năm qua, Nhà nước Việt
Nam đã đề ra những chính sách rất cụ thể về bảo đảm, hỗ trợ và ưu đãi đối
với các hợp tác xã. Đây cũng chính là một điểm rất rõ nét để phân biệt hợp
tác xã với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường. Sự bảo đảm của Nhà nước Việt Nam
đối với các hợp tác xã được thể hiện ở những điểm sau:
1) Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn, thu nhập, các quyền và
lợi ích hợp pháp khác của hợp tác xã. Trường hợp Nhà nước trưng mua,
trưng dụng tài sản của hợp tác xã vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc lợi ích
quốc gia thì được thanh toán, bồi thường theo quy định của pháp luật về
trưng mua, trưng dụng tài sản.
2) Bảo đảm môi trường sản xuất, kinh doanh bình đẳng giữa hợp tác xã với
các loại hình doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác.
3) Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và không can thiệp vào hoạt
động hợp pháp của hợp tác xã.
Bên cạnh đó, Nhà nước còn cam kết thực hiện những sự hỗ trợ hợp tác xã
trong việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xúc tiến thương mại, mở rộng
thị trường, hỗ trợ ứng dụng khoa học, kĩ thuật và công nghệ mới; tạo điều
kiện cho hợp tác xã tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội...
Nhà nước còn cam kết cho các hợp tác xã được hưởng chính sách ưu đãi về
thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác theo quy định của pháp
luật vê thuế, ưu đãi lệ phí đãng ký hợp tác xã theo quy định của pháp luật về phí và lệ phí.
Các hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư
nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi như
đối với tất cả các hợp tác xã khác, còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi
đặc biệt của Nhà nước như: Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; giao đất, cho
thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã theo quy định của pháp luật về
đất đai; ưu đãi về tín dụng; vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch
bệnh; che biến sản phẩm.
Document Outline
- Khái niệm hợp tác xã? Đặc điểm của hợp tác xã theo
- 1. Khái niệm hợp tác xã
- 2. Đặc điểm của hợp tác xã