








Preview text:
1. Khái niệm về thời kỳ quá độ
Là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa,
bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng
xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH
là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì
quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên
chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội
cũ, xây dựng xã hội mới.
1. PHÂN TÍCH TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN
Thứ nhất , Theo V.I. Lênin tính tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là do
đặc điểm ra đời phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy
định. Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội khác nhau về bản chất. Chủ nghĩa tư
bản được xây dựng dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất, Trong hình thái kinh tế xã hội tư bản còn tồn tại áp bức bóc lột bất công ,
đối kháng giai cấp (mâu thuẫn cơ bản chủ yếu về mặt chính trị giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản). Chủ nghĩa xã hội được xây dựng dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới hai hình thức là nhà nước và tập thể, đã xóa
bỏ tình trạng áp bức bóc lột bất công , không còn đối kháng giai cấp.
Mục đích của CNXH là xóa bỏ chế độ người bóc lột bất công , không còn đối kháng
giai cấp . Tước quyền sở hữu của giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản ngay lập tức là
điều không thể. Hơn thế nữa, chỉ riêng việc tước đoạt quyền sở hữu cũng chưa giải
quyết được vấn đề, mà còn phải thay thế sự quản lý của giai cấp bóc lột bằng sự
quản lý khác do giai cấp công nhân đảm nhiệm.
=>Với những thuộc tính cơ bản, phải trải qua thời kì quá độ thì những điều đó mới
được xây dựng. Muốn đạt được những điều tích cực ở CNXH thì phải trải qua thời
kì quá độ. Thời kì xây dựng những tiền đề vật chất kĩ thuật , đời sống vật chất - tinh
thần , kinh tế chính trị , văn hóa tư tưởng xã hội để cho CNXH ra đời.
Thứ hai , CNTB tạo ra cơ sở vật chất – kỹ thuật nhất định cho CNXH, nhưng để cơ
sở vật chất – kỹ thuật đó phục vụ cho CNXH cần phải có thời gian tổ chức, sắp xếp
lại. Và thời gian đó chính là thời kì quá độ.
Nền sản xuất đại công nghiệp với trình độ khoa học kỹ thuật cao đưa năng xuất lao
động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng
những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân,không ngừng nâng cao phúc lợi xã
hội cho toàn dân. Nền đại công nghiệp đó phát triển trên cơ sở khoa học - công nghệ,
là hiện thân và là yếu tố tạo nên lực lượng sản xuất hiện đại. Lực lượng sản xuất
hiện đại sẽ quyết định việc nâng cao năng suất của nền sản xuất - yếu tố quy
định sự phát triển lên trình độ cao của phương thức sản xuất mới. Trên cơ sở đó
thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tiến bộ phù hợp để thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
Chính sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tạo ra cơ sở vật chất – kĩ thuật nhất định cho chủ
nghĩa xã hội. Nền đại công nghiệp mang lại lợi ích chủ yếu cho giai cấp nắm giữ những
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội – giai cấp tư sản. Để cơ sở vật chất phục vụ cho
CNXH, mang lại lợi ích cho người lao động, quần chúng nhân dân thì giai cấp công nhân
cần phải có thời gian tổ chức lại
Những nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản tiến lên xã hội chủ nghĩa cần có một thời gian
dài để tiến hành công nghiệp hóa XHCN (trong đó có Việt Nam). Bởi giai cấp công nhân,
nhân dân lao động phải thực hiện những nhiệm vụ mà đáng lẽ những nhiệm vụ đó phải
thuộc về giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, các quan hệ xã hội của CNXH không thể tự phát ra đời trong lòng CNTB
( quan hệ xã hội giai cấp, quan hệ dân tộc , kinh tế chính trị ,…).Các quan hệ xã hội
đó là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo CNXH. Sự phát triển của CNTB
mới chỉ tạo ra những điều kiện, tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH.
Quan hệ xã hội của CNXH gồm có 3 quan hệ sở hữu, tổ chức , quản lí phân phối.
Quan hệ sở hữu dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất , không thể tự sinh ra
trong CNTB. Bản chất của chủ nghĩa tư bản là dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân –
tư hữu , CNXH dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ xã hội con
người là quan hệ bình đẳng, công bằng, tự do. Sự hình thành và phát triển của
CNTB có sự tác động rất lớn của quần chúng nhân dân lao động trong chủ nghĩa tư
bản , từ sức ép của CNXH , buộc CNTB phải thay đổi. Điều đó có lợi cho người lao động.
CNTB dưới hình thức hiện đại nhất của nó là chủ nghĩa tự do mới, đã bị phê phán
quyết liệt ngay từ bên trong và ở quy mô toàn cầu. Đảng ta hoàn toàn có căn cứ khi
khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công.
Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB, nhất là mẫu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.
Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của
những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ
quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản", đó là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự biến đổi và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng
định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế bằng phương thức
sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật khách quan của lịch sử và thời đại ngày
này chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
=>Sở dĩ nói thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ lên CNXH trên toàn thế giới là vì,
thực tiễn lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành
công ở nước Nga năm 1917, nhân loại đã thực sự bước vào một giai đoạn phát triển
mới – giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, mặc dù hệ thống chủ nghĩa
xã hội thế giới đã bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa nhìn chung đang trong giai
đoạn thoái trào ". .nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có
Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được
những thắng lợi to lớn, tiếp tục trỗi dậy, phát triển mạnh mẽ; phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có những bước phục hồi. . Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm
năng phát triển nhưng về bản chất vẫn là chế độ áp bức bóc lột và bất công. Những
mẫu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc.
Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của
những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động quyết định
vận mệnh của chủ nghĩa tư bản".
Thứ tư, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc khó khăn, phức tạp
và mới mẻ, phải cần có thời gian để giai cấp công nhân từng bước làm quen với
những công việc đó. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi
lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền
kinh tế rất phát triển. Bởi lẽ, ở các nước này tuy lực lượng sản xuất đã phát triển
cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng
nền văn hóa mới. Đối với những nước thuộc loại này, có nhiều thuận lợi hơn, do vậy
thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, từ một nước nông nghiệp
lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thì càng phải trải
qua thời kỳ quá độ lâu dài.
=> Chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa có
đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên chủ nghĩa xã
hội một cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải
qua quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản thì, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội, nhất thiết phải thực hiện thời kỳ quá độ một cách lâu dài với những bước đi
thích hợp và với một khối lượng công việc to lớn bao gồm trong đó không chi những
nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà
hơn thế, còn phải đồng thời đạt được cả những thành tựu căn bản mà chủ nghĩa tư
bản phải mất hàng trăm năm mới có được. C. Mác cho rằng thời kì này bao gồm
những cơn đau đẻ kéo dài có nghĩa là tiến trình quá độ không dễ dàng, nhanh chóng
và có thể phải trải qua nhiều khúc quanh; những quãng cách mới đi đến kết quả
cuối cùng. Điều đó cũng được Lênin khẳng định rằng: Trong thời kì quá độ, sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội có khi phải “ làm lại nhiều lần" mới xong và
trong thực tế diễn biển của tiến trình quá độ trong gần chín mươi năm qua với
những thất bại thăng trầm cũng đã chứng minh điều đó. Như vậy, chắc chắn thời kỳ
quá độ không chỉ vô cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển rất
lâu dài đối với những nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2. Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại
những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối
quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất
yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay
kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình
độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên
cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình
thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức
phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ
vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời
kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những
người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng
điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công
khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng
thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra
cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị
và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân
dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân
đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc
đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị,
kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội + Trong lĩnh vực kinh tế:
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển
cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất địnk không thể theo ý
muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh
tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu
phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá
độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau
với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể
và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong
việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến trình công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức chính trị - xã
hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng
Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng
của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có
ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn
hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên thế giới. + Trong lĩnh vực xã hội:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước
khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền
đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỹ lịch sử tất yếu trên con đường
phát triển của hình chái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc
điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn
xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
3. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
CNXH là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nó có sự
khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với Chủ nghĩa tư bản. Dựa vào cơ sở
lý luận khoa học của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội như sau:
- Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội là nền sản xuất
công nghiệp hiện đại.
Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa năng suất lao động lên cao, tạo ra ngày
càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo đáp ứng những nhu cầu về vật chất và
văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công
nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao. Ở những
nước thực hiện sự quá độ “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó
có Việt Nam thì đương nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng
bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội.
- Đặc trưng thứ hai: Chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thủ tiêu chế độ tư hữu là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc
cải tạo xã hội theo lập trường của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, không phải xóa bỏ chế
độ tư hữu nói chung mà là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa xã hội được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiết lập chế độ sở hữu xã hội
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ sở hữu
này được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần những mâu
thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội ngày càng gắn bó với
nhau vì những lợi ích căn bản.
- Đặc trưng thứ ba: Chủ nghĩa xã hội tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới.
Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một quá trình
hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính
bản chất và mục đích đó, cần phải tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới phù hợp với
địa vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng lao
động bị tha hóa trong xã hội cũ.
- Đặc trưng thứ tư: Chủ nghĩa xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
– nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Chủ nghĩa xã hội bảo đảm cho mọi người có quyển bình đẳng trong lao động sáng tạo và
hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có việc làm và được hưởng thù lao theo
nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Đó là một trong những cơ sở của
công bằng xã hội ở giai đoạn này.
- Đặc trưng thứ năm: Chủ nghĩa xã hội có Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước
kiểu mới, nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thông qua nhà nước, Đảng lãnh
đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích của mình
trên mọi mặt của xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc nhà nước. Đây
là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác, tự quản của nhân dân rất cao, thể hiện
các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày càng rõ hơn.
- Đặc trưng thứ sáu: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực
hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội, tạo những điều kiện cơ bản để con người
phát triển toàn diện.
Mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức về
kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn diện cá nhân, hình thành và
phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phát huy tính tích cực của mình
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhờ xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ tình trạng người bóc lột người, tình
trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện được sự công bằng, bình đẳng xã hội.
=>Những đặc trưng trên phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội, nói lên tính ưu
việt của chủ nghĩa xã hội. Và do đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội tốt đẹp, lý tưởng,
ước mơ của toàn thể nhân loại. Những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải quan tâm đầy đủ
tất cả các đặc trưng này.
4. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Căn cứ vào tình hình cụ thể của đất nước và những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội
theo quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Đảng ta đã xác định những đặc trưng của chủ
nghĩa xã hội ở VIệt Nam mà chúng ta sẽ xây dựng là:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ
công hữu về các tự liệu sản xuất chủ yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực,
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
=>Những đặc trưng trên đều mang tính dự báo. Với sự phát triển về kinh tế và xã
hội của đất nước, thời đại, những đặc trưng sẽ được tiếp tục bổ sung, phát triển
trong tiến trình phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.