





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61685031
Tội phạm hoàn thành, phạm tội chưa đạt, chuẩn bị phạm tội, tự ý nửa chừng chấm
dứ vc phạm tội I. Chuẩn Bị Tội Phạm 1. Khái niệm
- Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những
điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm trừ
trường hợp quy định tại Điều 109, điểm a khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2
Điều 299 của Bộ luật này. 2. Đặc điểm
- HV CBPT chưa phải HV KQ đc mô tả trong CTTP của tội định thực hiện.
VD: Mua súng để chuẩn bị phạm tội giết người
- HV CBPT là để thực hiện TP là thể thống nhất với HV thực hiện TP
- Người CBPT không thực hiện đc tội định phạm vi nguyên nhân ngoài ý muốn
3. Các HV chuẩn bị phạm tội
- Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội
VD: Mua, mượn, chế tọa ... súng giết người
- Tạo ra ĐK khác để thực hiện tội phạm
VD: Chuẩn bị kết hoạch phạm tội
- Thành lập hoặc tham gia nhóm TP mà không thuộc trường hợp QĐ tại Điều 109,
điểm a khoản 2 Điều 113, điểm a khoản 2 điều 299 BLHS
4. TNHS trong trường hợp CBPT
- Theo luật hình sự V, không phải HV CBPT nào cũng phải truy cứu TNHS
- Các BLHS năm 1985, năm 1999 và năm 2015 đều QĐ giới hạn những HV CBPTbị
truy cứu TNHS tuy nhiên có một số thay đổi *Chú ý:
Nếu HV CBPT đã cấu thành TP độc lập khác thì người có HV phải chịu TNHS về TP độc lập đó
VD: chiếm đoạt vũ khí quân dụng để CBPT giết người không chỉ phải chịu TNHS
về tội giết người (CBPT) mà còn phải chịu TNHS về tội chiếm đoạt vũ khí quân dụng II. Phạm Tội Chưa Đạt 1.Khái niệm lOMoAR cPSD| 61685031
- Điều 15 BLHS : Là cố ý thực hiện tội phạm chưa không thực hiện được đến cùng
vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
2. Các đặc điểm (dấu hiệu)
- Người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm (phân biệt PTCĐ VỚI CBPT). Sự
bắt đầu này thể hiện:
- Người phạm tội đã thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP
VD: Người phạm tội trộm cắp tài sản đã đột nhập vào cơ quan tổ chức
- Người phạm tội đã thực hiện hành vi “đi liền trước” hành vi được mô tả trong
CTTP (hành vi rất gần với hành vi phạm tội)
VD: Hành vi nhặt dao để đâm, lắp đạn để bắn…
- Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng về mặt pháp lý (tội phạm
chưa hoàn hành), nghĩa là hành vi đã thực hiện chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu
thuộc mặt khách quan cuả CTTP (đặc điểm phân biệt PTCĐ với TPHT)
- Các trường hợp hành vi chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu của CTTP có thể xảy ra là:
+ Chủ thể chưa thực hiện được hành vi mô tả trong CTTP mà mới thực hiện “hành vi đi liền trước “
+ Chủ thể đã thực hiện hành vi mô tả trong CTTP nhưng chưa gây ra hậu quả của tội phạm
VD: đã trộm được ví của nạn nhân nhưng trong ví không có tiền
+ Chủ thể đã thực hiện được hành vi nhưng chưa thực hiện hết hành vi mà CTTP đòi hỏi
VD: Tội lừa đảo cần có 2 hành vi hành vi gian dối và hành vi chiếm đỏa tài sản, mới
chỉ có hành vi gian dối => chưa CTPP tội phạm
Tội hiếp dâm: hành vi dùng vũ lực, hành vi giao cấu trái ý muốn nạn nhân
- Người phạm tội không thực hiện tội phạm được đến cùng là do nguyên nhân ngoài
ý muốn (đặc điểm phân biệt PTCĐ với trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt). Bản
thân người phạm tội vẫn mong muốn TPHT nhưng tội phạm không hoàn thành là do
+ Nạn nhân hoặc người bị hại đã chống lại hoặc đã tránh được
+ Người khác đã ngăn chặn được
+ Có những trở ngại khách quan khác lOMoAR cPSD| 61685031
VD: bắn không trúng, thuốc đầu độc không đủ liều hoặc là thuốc giả, không có đối
tượng – tác động lầm vào đối tượng người phạm tội tưởng là có…
3. Phân loại các trường hợp PTCĐ
- Căn cứ vào thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi mà họ thực hiện:
+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp PTCĐ, trong đó người phạm tội
vì nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây
ra hậu quả của tội phạm
+ Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp PTCĐ nhưng người phạm tội đã
thực hiện hết các hành vi cho là cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm nhưng do
nguyên nhân khách quan, hậu quả của tội phạm không xảy ra
*Chú ý: BLHS không phân biệt 2 loại PTCĐ tuy nhiên việc phân biệt này vẫn có ý
nghĩa đối với việc áp dụng một số quy định của LHS (Điều 16 BLHS)
*Căn cứ vào tính chất đặc biệt của nguyên nhân dẫn đến việc chưa đạt, LHS phân
biệt PTCĐ vô hiệu với các trường hợp PTCĐ khác
- PTCĐ vô hiệu là trường hợp PTCĐ mà nguyên nhân khách quan của việc chưa đạt
gắn với công cụ, phương tiện, với đối tượng tác động của tội, gồm 2 trường hợp:
+ Trường hợp 1: là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi nhằm gây thiệt hại nhưng
thực tế không gây thiệt hại được vì: không có “đối tượng” hoặc vì “đối tượng” không
có tính chất mà người phạm tội tưởng là có
VD: Hành vi trộm cắp tài sản: trộm két nhưng két không có tiền
Đưa hối lộ nhầm cho người có chức vụ - tưởng người đó có chức vụ, có thể
làm được điều người hối lộ muốn
+ Trường hợp 2: Là trường hợp phạm tội chưa đạt do chủ thể sử dụng nhầm phương
tiện phạm tội mà người đó muốn
VD: Mua thuốc ngủ đầu độc nhưng thuốc đầu độc giả nên nạn nhân không chết.
Trách nhiệm hình sự trong trường hợp PTCĐ
LHS VN quy định “người phạm tội chưa đạt phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt” (Điều 15)
Theo quy định này, BLHS không giới hạn những hành vi PTCĐ phải chịu TNHS
như trường hợp PTHT. Do vậy về nguyên tắc mọi trường hợp PTCĐ đều phải chịu TNHS
Vì: Về khách quan…, về chủ quan
III. Tội Phạm Hoàn Thành lOMoAR cPSD| 61685031 1. Khái niệm
- Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong CTTP
- Điều này có nghĩa hành vi phạm tội đã có đầy đủ các dấu hiệu khách quan của
tộiphạm được quy định trong điều luật về tội phạm cụ thể phần các tội phạm BLHS
và các dấu hiệu chung khác của tội phạm được quy định trong Phần chung cảu BLHS
- Với quy định như vậy, LHS VN xác định:
+ Thời điểm TPHT, không phụ thuộc vào việc người phạm tội đã đạt được mục đích phạm tội hay chưa
+ Khi TPHT cũng có thể người phạm tội đã đạt được mục đích nhưng cũng có thể
chưa đạt được mục đích (chủ yếu CTTP hình thức) của mình
VD: Tội trộm cắp tài sản, tội giết người – đã đạt được mục đích phạm tội
Tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản – chưa đạt được mục đích phạm tội
+ Nói TPHT là hoàn thành về mặt pháp lý – tội phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu CTTP
2. Khi TPHT về mặt pháp lý, có thể dừng lại không xảy ra nữa nhưng cũng có thể
tiếp tục xảy ra. Ngược lại, tội phạm tuy đã dừng lại nhưng có thể chưa hoàn thành
- Chú ý: từ “hoàn thành” nói chung khái niệm TPHT và từ “đến cùng” trong khái
niệm PTCĐ đều không gắn với mục đích phạm tội – có thể đạt được mục đích hay
chưa đạt được mục đích
3. Việc quy định thời điểm TPHT của từng tội phạm được quy định thực hiện qua
việc xây dựng các dấu hiệu khách quan của CTTP của Nhà làm luật
- Thời điểm TPHT sớm hay muộn là tùy thuộc vào việc xây dựng các dấu hiệu của
CTTP phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như với đặc điểm của tội phạm
4. Các tội phạm có cấu thành khác nhau, thời điểm tội phạm được coi là hoàn thành cũng khác nhau
- Đối với các tội có CTTP vật chất, người phạm tội gây ra hậu quả luật quy định
- Đối với các tội có CTTP hình thức
- Đối với các tội có CTTP cắt xén
*Phân biệt tội phạm hoàn thành với tội phạm kết thúc lOMoAR cPSD| 61685031
- Tội phạm kết thúc là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt, Từ khái
niệm này và khái niệm TPHT có thể rút ra một số kết luận: - Thời điểm TPHT và
TPKT có thể trùng hoặc không trùng nhau
- Hành vi phạm tội có thể dừng lại ở gia đoạn CB hoặc CĐ và ngược lại
*Ý nghĩa của việc phân biệt
- Có ý nghĩa đối với việc áp dụng một số quy định LHS như quy định Đồng phạm
(Điều 17), quy định Phòng vệ chính đáng (Điều 22), quy định Thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 27) …
- Việc áp dụng những quy định này không phụ thuộc vào thời điểm tội phạm kết thúc
IV. Tự Ý Nửa Chừng Chấm Dứt Hành Vi Phạm Tội 1. Khái niệm
- Điều 16 BLHS: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực
hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản” 2. Các dấu hiệu -
Về kết quả (thời điểm chấm dứt…) việc chấm dứt không thực hiện tội phạm
phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn CBPT hoặc PTCD chưa hoàn thành -
Về chủ quan, việc chấm dứt phải là “tự mình” và “không có gì ngăn cản” có
nghĩa là chấm dứt tự nguyện và chấm dứt dứt khoát
+ Chấm dứt tự nguyên có nghĩa là việc dừng lại không thực hiện tiếp tôi phạm hoàn
toàn do động lực bên trong thúc đẩy chứ không phải do trở ngại khách quan
+ Chấm dứt dứt khoát có nghĩa là việc chấm dứt phạm tội phải là sự thể hiện của
việc từ bỏ hẳn ý định và hành vi phạm tội chứ không phải là “tạm dừng” để tiếp tục thực hiện tội phạm
Chú ý: “Trong thực tế, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội có thể do những
động cơ khác nhau thúc đẩy như hối hận, sợ hãi, sợ bị phát hiện, sợ bị xử phạt,
không muốn thực hiện tội phạm với người quen… luật không đòi hỏi người tự ý nửa
chừng chấm dứt việc phạm tội phải hối hận, chỉ đòi hỏi họ chấm dứt một cách tự
nguyện và chấm dứt dứt khoát” (Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán QANDTC năm 2986)
3. Trách nhiệm hình sự trong trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội
“Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm”
(Điều 16). Vì: về khách quan… về chủ quan… lOMoAR cPSD| 61685031
- Trong thực tế, hành vi đã thực hiện của người tự ý nửa chừng có thể đã có đủ yếutố
CTTP của một tội phạm khác, do vậy luật quy định: “Nếu hành vi đã thực hiện có
đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì người đó phải bị chịu TNHS về tội này” (Điều 16)
- Tại sao TNHS trong chuẩn bị phạm tội chỉ đặt ra với 1 số tội
Vì: mức độ thực hiện tội phạm của chuẩn bị phạm tội còn hạn chế, tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi chuẩn bị phạm tội rất thấp so với trường hợp phạm tội hoàn
thành, khách thể chưa bị xâm phạm, đối tượng chưa bị tác động . Mà TNHS chỉ có
thể đặt ra đối với những hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội đáng kể.