lOMoARcPSD| 61716317
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Câu 1: Phân biệt sự khác nhau về khái niệm, đối tượng, phương pháp điều chỉnh giữa luật hành
chính, luật hiến pháp, luật hình sự và luật dân sự:
Tiêu chí
Luật hình sự
Luật hành chính
Luật dân sự
Luật hiến pháp
Định
nghĩa
Luật Hình sự hệ
thống các quy phạm
pháp luật xác định về
các hành vi gây nguy
hiểm cho hội để quy
định tội phạm quy
định hình phạt áp dụng
đối với nhân
pháp nhân thương mại
thực hiện
các tội đó
Luật hành chính hệ
thống các quy phạm
pháp luật do nhà nước
ban hành điều chỉnh
những quan hệ hội
mang tính chất chấp
hành và điều hành phát
sinh trong hoạt động
của các quan nhà
nước hoặc tổ chức
hội khi được nhà nước
trao quyền thực hiện
chức năng quản nhà
nước.
Các quy phạm luật
hành chính quy định về
tổ chức hoạt động
của bộ máy nhà nước
trong trạng thái động
Luật hành chính quy
định về các vi phạm
hành chính, các hình
thức xử phạt vi phạm
hành chính các vấn
đề có liên quan tới việc
xử đối với nhân, tổ
chức vi phạm hành
chính.
Luật dân sự
ngành luật trong
hệ thống pháp
luật, là tổng hợp
những quy
phạm điều chỉnh
các quan hệ tài
sản một số
quan hệ nhân
thân trong giao
lưu dân sự trên
sở bình đẳng,
tự định đoạt
tự chịu trách
nhiệm của các
chủ thể tham gia
các quan hệ dân
sự.
Luật Hiến pháp
một ngành luật
gồm tổng thể các
quy phạm pháp
luật điều chỉnh
những quan hệ
bản về tổ chức
quyền lực Nhà
nước, về chế độ
chính trị, kinh tế,
văn hóa hội,
chế độ bầu cử,
quyền và nghĩa vụ
của công dân, về
quốc tịch…
Các quy phạm
luật hiến pháp quy
định về tổ chức
hoạt động của bộ
máy nhà nước
trong
trạng thái tĩnh
lOMoARcPSD| 61716317
Đặc trưng
Luật Hình smột ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Luật Hình sự bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ
hộiliên quan đến Nhà nước và người phạm tội;
Luật Hình sự ngành luật do quan nhà nước thẩm quyền ban hành quy
địnhtội phạm và hình phạt.
Đối tượng
điều chỉnh
Đối tượng điều chỉnh
của luật hình sự quan
hệ hội phát sinh
giữa Nhà nước
người phạm tội khi tội
phạm xảy ra.
Đây là căn cứ để phân
biệt Luật Hình sự với
các ngành luật khác
trong hệ thống pháp
luật.
Đối tượng điều chỉnh
luật nh chính các
quan hệ hội phát
sinh trong lĩnh vực
chấp hành – điều hành
Đối tượng điều
chỉnh của luật
dân sự những
quan hệ tài sản
mang tính chất
hàng hóa tiền
tệ các quan
hệ nhân thân
Luật hiến pháp
điều chỉnh những
quan hệ hội
quan trọng gắn
liền với việc xác
định chế độ chính
trị, kinh tế, văn
hóa hội,
chính sách đối
ngoại an ninh
quốc phòng, địa vị
pháp của công
dân, tổ chức
hoạt động của bộ
máy nhà nước,
v.v.. Như vậy,
phạm vi điều
chỉnh của luật
hiến pháp rộng
hơn phạm vi điều
chỉnh của luật
hành chính.
lOMoARcPSD| 61716317
Phương
pháp điều
chỉnh
Phương pháp điều
chỉnh của ngành luật
hình sự phương pháp
mệnh lệnh- phục tùng.
Theo đó, Nhà nước,
trong quan hệ pháp luật
hình sự, quyền buộc
người phạm tội phải
chịu TNHS, chịu hình
phạtbiện pháp cưỡng
chế
Phương pháp điều
chỉnh của luật hành
chính mệnh lệnh đơn
phương.
Phương pháp
điều chỉnh chủ
yếu của luật dân
sự bình đẳng,
thoả thuận
Phương pháp bắt
buộc, cho phép,
cấm đoán
Nhà nước nghiêm khắc
nhất, người phạm tội
không cách nào
khác ngoài nghĩa vụ
tuân thủ
Nguyên
tắc
Ngành luật hình sự cũng được xây dựng trên sở các nguyên tắc bản, trong đó
các nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật các nguyên tắc tính đặc thù. Ba
nguyên tắc chung bao gồm: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật,
nguyên tắc nhân đạo. Ba nguyên tắc đặc thù của ngành luật hình sự nguyên tắc hành
vi, nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc phân hoá TNHS.
Câu 2: Nội dung 6 nguyên tắc của luật hình sự:
1. Nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự
Nguyên tắc pháp chế là một nguyên tắc hết sức quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng và
đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật từ
phía Nhà nước, các tổ chức chính trị, hội của công dân. Nguyên tắc pháp chế nguồn gốc
từ nguyên lý không có tội nếu không có luật (La tinh: Nullum crimen sine lege”. Trong lĩnh vực
hình sự, nguyên tắc pháp chế được coi là nguyên tắc bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động
xây dựng áp dụng pháp Luật hình sự. Điều 2 Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
quy định:Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ Luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.“. Nghĩa là những thể sở của trách nhiệm hình sự, của việc áp dụng
hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cũng như việc áp dụng mọi hình thức
trách nhiệm hình sự với tính cách hậu quả pháp của hành vi phạm tội đều phải do pháp Luật
hình sự quy định.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế cụ thể là:
lOMoARcPSD| 61716317
– Về mặt lập pháp: việc sửa đổi, bổ sung, quy định tội phạm mới hay xoá bỏ một tội phạm phải
được tiến hành một cách hợp pháp, theo đúng thủ tục luật định. Theo chế này, mọi tội phạm
hình phạt phải được Luật hình sự quy định, “có luật, có tội”. Ngoài ra, nguyên tắc pháp chế
còn đòi hỏi pháp Luật hình sự phải được xây dựng trên những sở khoa học, được xây dựng
một cách hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa chống tội phạm. Các quy định
của Luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu hiệu của từng hành
vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó.
– Về mặt áp dụng pháp luật: Nhà nước không chấp nhận một bản án hình sự về một tội nào đó,
nếu như tội này không được quy định trong Luật nh sự hiện hành. Việc xét xử phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không để oan người tội. Hình phạt mà T
án tuyên cho người phạm tội phải phù hợp với các quy định của Luật hình sự. Các cơ quan tiến
hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo đúng
đầy đủ các thủ tục luật định. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự chính xác thống nhất trong
việc áp dụng Luật hình sự, trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho hội của tội
phạm và của bản thân người phạm tội. Điều đó có nghĩa trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam,
pháp Luật hình sự phải được áp dụng như nhau, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, thành phần
xã hội… của người phạm tội. Pháp luật phải được giải thích cụ thể bởi các cơ quan chuyên môn
thẩm quyền nhằm tránh sự hiểu vận dụng khác nhau đối với cùng một quy định nhưng
những điều kiện khác nhau. Một nội dung quan trọng không kém nữa là không áp dụng pháp
luật tương tự.
– Đối với công dân, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi người dân đều phải tuân thủ pháp luật một
cách triệt để, không ngừng tăng cường cảnh giác cao độ, nâng cao ý thức pháp luật, tích cực đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội”.
Tương tự như vậy, Áp dụng hiệu lực trở về trước đế truy cứu TNHS áp dụng một điều luật của
luật hình sự để truy cứu TNHS một người về hành vi người đó đã thực hiện trước khi điều
luật này hiệu lực thi hành, vấn đề này được trình bày tiếp Chương II, Điều 51 Hiến pháp
cũng khẳng định:
“Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,... ”.
Cụ thể hoá nguyên tắc hiến định này, Điều 3 BLHS Việt Nam quy định:
“Mọi người phạm tội đều bĩnh đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
Ngoài ra, điều luật này còn xác định, mọi pháp nhân thương mại, khi phải chịu TNHS đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế.
lOMoARcPSD| 61716317
Ngành luật hình sự với các quy định về tội phạm các quy định về hình phạt giá trị như
nhau đối với tất cả mọi người cũng như mọi pháp nhân thương mại nói chung và đặc biệt đối với
tất cả những người đã hành vi phạm tội nói riêng. Ngành luật hình sự không được phép quy
định đặc điểm nhân thân như đặc điểm về giới tính, về tôn giáo, về thành phần, địa vị hội
cơ sở để truy cứu TNHS. Trong áp dụng luật hình sự, đặc điểm về nhân thân cũng không được
phép ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS theo hướng định kiến hay thiên vị. đây cần phân biệt
giữa nguyên tắc này với việc quy định chủ thể đặc biệt cũng như việc quy định những đặc điểm
nhất định về nhân thân dấu hiệu định khung hình phạt hoặc dấu hiệu tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS (những vấn đề này được trình bày các chương tiếp theo). Cụ thể: Việc xử tội phạm
không bị chi phối bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị hội của người
phạm tội; việc truy cứu TNHS pháp nhân thương mại cũng không bị chi phối bởi hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế của pháp nhân thương mại. Tất cả các cá nhân pháp nhân thương
mại đều bình đẳng trước pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự pháp luật tố tụng
hình sự nói riêng. Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phải chịu TNHS đều phải
được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
3. Nguyên tắc nhân đạo
Nhân đạo là đạo làm người. Đạo làm người thể hiện ở lòng thương yêu, với ý thức tôn trọng các
giá trị danh dự, nhân phẩm của con người, không làm đau đớn con người. pháp Luật hình sự Việt
Nam phản ánh ý thức pháp luật các quan niệm đạo đức của dân tộc ta, mục đích, nội dung
nhân đạo sâu sắc và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp rất nhân đạo. Trước hết, trong
Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong các chính sách hình
sự của Nhà nước, trong các quy định của Bộ Luật hình sự. Nội dung này thể hiện cụ thể tại Điều
3 của Bộ Luật hình sự. Đối với kẻ phạm tội, việc áp dụng hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
chủ yếu là nhằm mục đích cải tạo, giáo dục kẻ phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam không nhằm gây đau đớn về thể xác không nhằm hạ thấp
phẩm giá của con người.
Cụ thể, nguyên tắc nhân đạo có các nội dung sau:
Luật hình sự Việt Nam khoan hồng với những người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng
bọn, lập công chuộc tội, ăn năn, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.
– Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người phạm tội mà nhằm tạo điều
kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện.
– Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự
cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quy định về miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo)…v.v…
– Trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt Nam có nhiều loại hình phạt không tước tự do
như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ…
lOMoARcPSD| 61716317
Mặt thứ hai của nguyên tắc nhân đạo là phải nghiêm trị đối với những người phạm tội là những
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố…Vì vậy, Bộ Luật hình sự đã quy định các hình phạt
nghiêm khắc như chung thân, tử hình. Tuy nhiên, các hình phạt này ng chỉ được phép áp
dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng phạm vi áp dụng cũng giới hạn nhất
định: hình phạt chung thân tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, hình phạt thình không được phép áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con nhỏ dưới 36 tháng tuổi…
4. Nguyên tắc hành vi
Xuất phát từ quan điểm: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là hành vi của con người
không thể ý nghĩ, tưởng của họ, ngành luật hình sự Việt Nam thừa nhận nguyên tắc
hành vi là nguyên tắc của ngành luật này. Theo đó, ngành luật hình sự không cho phép truy cứu
TNHS một người về tư tưởng của họ mà chỉ được truy cứu TNHS đối với hành vi của họ
khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự quy
định.
Thể hiện nguyên tắc hành vi, Điều 8 BLHS đã xác định tội phạm phải hành vi trong định nghĩa
về tội phạm. Từ đó, trong phần mô tcác tội danh cụ thể, BLHS khi tả tội phạm đều tả
hành vi của con người. Với nguyên tắc hành vi, ngành luật hình sự Việt Nam cấm truy cứu TNHS
tưởng của con người. khía cạnh này cũng thể coi “cấm truy cứu TNHS tưởng"
nguyên tắc của ngành luật hình sự.
5. Nguyên tắc có lỗi
Gắn liền với nguyên tắc hành vi nguyên tắc lỗi. Ngành luật hình sViệt Nam truy cứu
TNHS một người về hành vi gây thiệt hại cho hội chỉ khi người đó có lỗi. Hành vi gây thiệt
hại cho hội nhưng chthể thực hiện không lỗi (do những do khác nhau như họ bị mất
năng lực nhận thức ý nghĩa hội của hành vi hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của
xá hội vì mắc bệnh tâm thần hoặc do họ ở trong tình trạng bất khả kháng) thì hành vi đó không
bị coi tội phạm và chủ thể thực hiện không phải chịu TNHS. Với việc thừa nhận nguyên tắc
lỗi, luật hình sự Việt Nam cấm “truy tội khách quan (truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào hành
vi khách quan mà không xét đến lỗi (chủ quan) của chủ thể).
Thừa nhận nguyên tắc lỗi xuất phát từ chức năng giáo dục của ngành luật hình sự. Chức
năng này không thể thực hiện được khi truy cứu TNHS một người mà họ không có lỗi.
Thể hiện nguyên tắc lỗi, ngành luật hình sự Việt Nam khi định nghĩa tội phạm tại Điều 8
BLHS đã khẳng định tội phạm phải hành vi nguy hiểm cho hội được thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, có nghĩa là được thực hiện một cách có lỗi. Từ đó, các điều luật trong BLHS khi
mô tả tội cụ thể đều cần thể hiện dấu hiệu lỗi của tội phạm.
6. Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự
lOMoARcPSD| 61716317
Phân hóa trách nhiệm hình sự bao gồm hai nội dung không tách rời nhau cá thể hóa trách
nhiệm hình sự trong áp dụng Luật Hình sự và phân hóa trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự.
– Cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng Luật Hình sự
Trách nhiệm hình sự phải được xác định đúng cho từng người phạm tội, hình phạt áp dụng cho
người phạm tội cụ thể phải tương xứng với mức độ nguy hiểm cho hội của tội phạm đã gây
ra, phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người phạm tội.
– Phân hóa trách nhiệm hình sự thể hiện trong Luật Hình sự
+ Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để các quy định khác nhau về trách nhiệm
hình sự.
+ Đa dạng hoá hệ thống hình phạt.
+ Phân hoá chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau.
Câu 3: Nội dung nhiệm vụ (chức năng) của luật hình sự:
lOMoARcPSD| 61716317
Nội dung phân hóa trên đây đã được cụ thhoá tại các điều 51 52 BLHS (các tình tiết giảm
nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hoá ở dấu hiệu định khung hình
phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự
để cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
a. Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của Bộ luật hình sự
Chống tội phạm phòng ngừa tội phạm hai hoạt động tuy nội dung khác nhau nhưng
không tách rời nhau. Trong đó, chống tội phạm là hoạt động trực diện với tội phạm – hoạt động
phát hiện, điều tra, truy txét xử tội phạm. Phòng ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau nhằm ngăn n ngừa không để cho tội phạm xảy rađều có quan hệ mật thiết với hoạt
động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả không chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội
phạm mà còn có thể định hướng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
– Do vậy, hoạt động chống tội phạm cũng được coi là hoạt động phòng ngừa tội phạm đặc biệt.
Hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp chung hay nói cách khác
đều phải sử dụng công cụ pháp chung luật hình sự. Hiệu quả của chống phòng ngừa
tội phạm phụ thuộc một phần quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy, luật hình
sự đã được coi là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống
tội phạm.
– Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của luật hình sự được khẳng định rõ tại Điều 1 Bộ
luật hình sự : Bộ luật hình sự nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa
đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi
hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa đấu tranh chống
tội phạm”.
Bộ luật này quy định về tội phạm hình phạt. Để thực hiện tốt chức năng chống phòng
ngừa tội phạm đòi hỏi luật hình sự phải luôn luôn được hoàn thiện theo sát sự thay đổi của tình
hình tội phạm, đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm
b. Chức năng bảo vệ của Bộ luật hình sự
Qua chức năng chống phòng ngừa tội phạm, luật hình sự đồng thời chức năng bảo vệ
các quan hệ xã hội quan trọng cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội trước sự xâm hại
của tội phạm. Ngành luật hình sự là công cụ pháp lí “góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn hội,
trật tự quản kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sông trong một môi trường hội và sinh
thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao”
lOMoARcPSD| 61716317
– Đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự đều được xác định rõ ràng trong các Bộ luật hình sự:
Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015.
– Theo Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015:” Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự; Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được
xử lý bằng các biện pháp khác.”
Theo đó, đối đôi tượng bảo vệ của luật hình sự độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ
của mình, ngành luật hình sự cần phải xác định đúng, đây đủ và kịp thời những hành vi có hiểm
cho các đối thể gây nguy tượng bảo vệ đế quy định là tội phạm. Có như vậy ngành luật hình sự
mới thể trở thành công cụ pháp hữu hiệu bảo vệ các quan hệ hội đã được xác định qua
việc chống phòng ngừa một cách toàn diện tất cả các tội phạm, không hành vi nào nguy
hiểm (ở mức tội phạm) cho đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự bị bỏ qua. c. Chức năng
giáo dục của Bộ luật hình sự
Chống tội phạm qua việc xử phạt người phạm tội (cũng như pháp nhân thương mại trong
trường hợp nhất định) không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm mục đích giáo dục họ và giáo dục
mọi người nói chung. Do vậy, ngành luật hình : sự không chỉ là công cụ chống tội phạm mà còn
chức năng giáo dục. Cũng chính qua chức năng giáo dục mà ngành luật hình sự the thực
hiện được chức năng phòng ngừa tội phạm của mình.
– Ngành luật hình sự không chỉ là công cụ răn đe người phạm tội mà còn răn đe cả những người
khác qua đó giáo dục người phạm tội cũng như mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tránh
các hành vi phạm tội. Ngành luật hình sự cũng công cụ giáo dục ý thức tham gia chống
phòng ngừa tội phạm cho tất cả mọi người với vai trò là công dân cũng như với vai trò là thành
viên của cơ quan hay tổ chức.
Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự dựa trên sở chức năng chống tội phạm nhưng
đồng thời cũng sở cho chức năng phòng ngừa tội phạm và chức năng bảo vệ của ngành luật
này.
lOMoARcPSD| 61716317
– Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự được xác định cụ thể tại Điều 1 Điều 31 Bộ luật
hình sự, theo đó, Điều 31 quy định về hình phạt như sau: ” Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật các
quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác
tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”
(Điều 1. Nhiệm vụ của Bluật hình sự quy định: … giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm.”; Điều 31. Mục đích của hình phạt quy định: “…
còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật các quy tắc của cuộc sống, giáo dục người,
pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”).
d. Nhiệm vụ nào của Bộ luật hình sự là quan trọng nhất?
Trong các nhiệm vụ của Bộ luật hình sự, tất các các nhiệm vụ đều quan trọng không chỉ riêng
một nhiệm vụ nào là quan trọng nhất bởi lẽ, tất cả các nhiệm vụ của Bộ luật hình sự đều hướng
tới sự giáo dục, phòng ngừa tội phạm, chức năng bảo vệ đến quyền lợi ích của các nhân,
tổ chức, cơ quan, bảo vệ độc lập. chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa, bảo vlợi ích của Nhà nước, góp phần duy trì trật tự an toàn hội, trật tự quản
kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường hội sinh thái an toàn,
lành mạnh, mang tính nhân văn cao, giáo dục mọi người có ý thức tuân theo pháp luật và và các
quy tắc của cuộc sống, phòng ngừa và đấu tranh tội phạm.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61716317
VẤN ĐỀ 1: KHÁI NIỆM, NHIỆM VỤ, NGUYÊN TẮC CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
Câu 1: Phân biệt sự khác nhau về khái niệm, đối tượng, phương pháp điều chỉnh giữa luật hành
chính, luật hiến pháp, luật hình sự và luật dân sự: Tiêu chí Luật hình sự Luật hành chính Luật dân sự Luật hiến pháp Định Luật Hình sự là hệ
Luật dân sự là Luật Hiến pháp là nghĩa thống các quy phạm
ngành luật trong một ngành luật
pháp luật xác định về Luật hành chính là hệ hệ thống pháp gồm tổng thể các luật, là tổng hợp
các hành vi gây nguy thống các quy phạm những quy quy phạm pháp
hiểm cho xã hội để quy pháp luật do nhà nước phạm điều chỉnh luật điều chỉnh
định là tội phạm và quy ban hành điều chỉnh các quan hệ tài những quan hệ cơ
định hình phạt áp dụng những quan hệ xã hội sản và một số bản về tổ chức
đối với cá nhân và mang tính chất chấp quan hệ nhân quyền lực Nhà thân trong giao
pháp nhân thương mại hành và điều hành phát nước, về chế độ lưu dân sự trên thực hiện
sinh trong hoạt động cơ sở bình đẳng, chính trị, kinh tế, các tội đó
của các cơ quan nhà tự định đoạt và văn hóa – xã hội,
nước hoặc tổ chức xã tự chịu trách chế độ bầu cử,
hội khi được nhà nước nhiệm của các quyền và nghĩa vụ
trao quyền thực hiện chủ thể tham gia của công dân, về
chức năng quản lý nhà các quan hệ dân sự. quốc tịch… nước. Các quy phạm Các quy phạm luật luật hiến pháp quy hành chính quy định về định về tổ chức và
tổ chức và hoạt động hoạt động của bộ của bộ máy nhà nước máy nhà nước trong trạng thái động trong Luật hành chính quy trạng thái tĩnh định về các vi phạm hành chính, các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các vấn
đề có liên quan tới việc
xử lí đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. lOMoAR cPSD| 61716317
Đặc trưng – Luật Hình sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam; –
Luật Hình sự bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hộiliên quan đến Nhà nước và người phạm tội; –
Luật Hình sự là ngành luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy
địnhtội phạm và hình phạt.
Đối tượng Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều chỉnh Đối tượng điều
điều chỉnh của luật hình sự là quan luật hành chính là các chỉnh của luật
hệ xã hội phát sinh quan hệ xã hội phát dân sự là những
sinh trong lĩnh vực quan hệ tài sản Luật hiến pháp
giữa Nhà nước và chấp hành – điều hành mang tính chất điều chỉnh những
người phạm tội khi tội
hàng hóa – tiền quan hệ xã hội phạm xảy ra.
tệ và các quan quan trọng gắn hệ nhân thân liền với việc xác
Đây là căn cứ để phân định chế độ chính
biệt Luật Hình sự với trị, kinh tế, văn các ngành luật khác hóa – xã hội, trong hệ thống pháp chính sách đối luật. ngoại và an ninh quốc phòng, địa vị pháp lý của công dân, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, v.v.. Như vậy, phạm vi điều chỉnh của luật hiến pháp rộng hơn phạm vi điều chỉnh của luật hành chính. lOMoAR cPSD| 61716317 Phương
Phương pháp điều Phương pháp Phương pháp bắt pháp điều
chỉnh của luật hành điều chỉnh chủ buộc, cho phép, chỉnh
Phương pháp điều chính là mệnh lệnh đơn yếu của luật dân cấm đoán
chỉnh của ngành luật phương. sự là bình đẳng, hình sự là phương pháp thoả thuận mệnh lệnh- phục tùng. Theo đó, Nhà nước, trong quan hệ pháp luật
hình sự, có quyền buộc người phạm tội phải chịu TNHS, chịu hình phạtbiện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất, người phạm tội không có cách nào khác ngoài nghĩa vụ tuân thủ Nguyên tắc
Ngành luật hình sự cũng được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản, trong đó có
các nguyên tắc chung cho cả hệ thống pháp luật và các nguyên tắc có tính đặc thù. Ba
nguyên tắc chung bao gồm: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật,
nguyên tắc nhân đạo. Ba nguyên tắc đặc thù của ngành luật hình sự là nguyên tắc hành
vi, nguyên tắc có lỗi và nguyên tắc phân hoá TNHS.
Câu 2: Nội dung 6 nguyên tắc của luật hình sự:
1. Nguyên tắc pháp chế của Luật hình sự
• Nguyên tắc pháp chế là một nguyên tắc hết sức quan trọng và cơ bản của quá trình xây dựng và
đổi mới pháp luật ở Việt Nam. Nói đến pháp chế tức là nói đến sự triệt để tuân thủ pháp luật từ
phía Nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội và của công dân. Nguyên tắc pháp chế có nguồn gốc
từ nguyên lý không có tội nếu không có luật (La tinh: Nullum crimen sine lege”. Trong lĩnh vực
hình sự, nguyên tắc pháp chế được coi là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt toàn bộ các hoạt động
xây dựng và áp dụng pháp Luật hình sự. Điều 2 Bộ Luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017)
quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ Luật hình sự quy định mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
“. Nghĩa là những gì có thể là cơ sở của trách nhiệm hình sự, của việc áp dụng
hình phạt hoặc miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cũng như việc áp dụng mọi hình thức
trách nhiệm hình sự với tính cách là hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đều phải do pháp Luật hình sự quy định.
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc pháp chế cụ thể là: lOMoAR cPSD| 61716317
 – Về mặt lập pháp: việc sửa đổi, bổ sung, quy định tội phạm mới hay xoá bỏ một tội phạm phải
được tiến hành một cách hợp pháp, theo đúng thủ tục luật định. Theo cơ chế này, mọi tội phạm
và hình phạt phải được Luật hình sự quy định, “có luật, có tội”. Ngoài ra, nguyên tắc pháp chế
còn đòi hỏi pháp Luật hình sự phải được xây dựng trên những cơ sở khoa học, được xây dựng
một cách hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Các quy định
của Luật hình sự phải được xây dựng một cách cụ thể, chính xác với các dấu hiệu của từng hành
vi phạm tội và hậu quả pháp lý của nó.
 – Về mặt áp dụng pháp luật: Nhà nước không chấp nhận một bản án hình sự về một tội nào đó,
nếu như tội này không được quy định trong Luật hình sự hiện hành. Việc xét xử phải đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không để oan người vô tội. Hình phạt mà Toà
án tuyên cho người phạm tội phải phù hợp với các quy định của Luật hình sự. Các cơ quan tiến
hành tố tụng khi thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải tuân theo đúng
và đầy đủ các thủ tục luật định. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi sự chính xác và thống nhất trong
việc áp dụng Luật hình sự, trong việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm và của bản thân người phạm tội. Điều đó có nghĩa là trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam,
pháp Luật hình sự phải được áp dụng như nhau, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, thành phần
xã hội… của người phạm tội. Pháp luật phải được giải thích cụ thể bởi các cơ quan chuyên môn
có thẩm quyền nhằm tránh sự hiểu và vận dụng khác nhau đối với cùng một quy định nhưng ở
những điều kiện khác nhau. Một nội dung quan trọng không kém nữa là không áp dụng pháp luật tương tự.
 – Đối với công dân, nguyên tắc pháp chế đòi hỏi mỗi người dân đều phải tuân thủ pháp luật một
cách triệt để, không ngừng tăng cường cảnh giác cao độ, nâng cao ý thức pháp luật, tích cực đấu
tranh phòng và chống tội phạm.
2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
• Điều 16 Hiến pháp năm 2013 quy định:
• “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội”.
• Tương tự như vậy, Áp dụng hiệu lực trở về trước đế truy cứu TNHS là áp dụng một điều luật của
luật hình sự để truy cứu TNHS một người về hành vi mà người đó đã thực hiện trước khi điều
luật này có hiệu lực thi hành, vấn đề này được trình bày tiếp ở Chương II, Điều 51 Hiến pháp cũng khẳng định:
• “Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,... ”.
• Cụ thể hoá nguyên tắc hiến định này, Điều 3 BLHS Việt Nam quy định:
• “Mọi người phạm tội đều bĩnh đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội”.
• Ngoài ra, điều luật này còn xác định, mọi pháp nhân thương mại, khi phải chịu TNHS đều bình
đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế. lOMoAR cPSD| 61716317
• Ngành luật hình sự với các quy định về tội phạm và các quy định về hình phạt có giá trị như
nhau đối với tất cả mọi người cũng như mọi pháp nhân thương mại nói chung và đặc biệt đối với
tất cả những người đã có hành vi phạm tội nói riêng. Ngành luật hình sự không được phép quy
định đặc điểm nhân thân như đặc điểm về giới tính, về tôn giáo, về thành phần, địa vị xã hội là
cơ sở để truy cứu TNHS. Trong áp dụng luật hình sự, đặc điểm về nhân thân cũng không được
phép ảnh hưởng đến việc truy cứu TNHS theo hướng định kiến hay thiên vị. Ở đây cần phân biệt
giữa nguyên tắc này với việc quy định chủ thể đặc biệt cũng như việc quy định những đặc điểm
nhất định về nhân thân là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc dấu hiệu tăng nặng, giảm nhẹ
TNHS (những vấn đề này được trình bày ở các chương tiếp theo). Cụ thể: Việc xử lí tội phạm
không bị chi phối bởi giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội của người
phạm tội; việc truy cứu TNHS pháp nhân thương mại cũng không bị chi phối bởi hình thức sở
hữu và thành phần kinh tế của pháp nhân thương mại. Tất cả các cá nhân và pháp nhân thương
mại đều bình đẳng trước pháp luật nói chung cũng như pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự nói riêng. Người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại phải chịu TNHS đều phải
được các cơ quan tiến hành tố tụng đối xử bình đẳng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. 3. Nguyên tắc nhân đạo
• Nhân đạo là đạo làm người. Đạo làm người thể hiện ở lòng thương yêu, với ý thức tôn trọng các
giá trị danh dự, nhân phẩm của con người, không làm đau đớn con người. pháp Luật hình sự Việt
Nam phản ánh ý thức pháp luật các quan niệm đạo đức của dân tộc ta, có mục đích, nội dung
nhân đạo sâu sắc và được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp rất nhân đạo. Trước hết, trong
Luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc nhân đạo luôn được thể hiện rõ nét trong các chính sách hình
sự của Nhà nước, trong các quy định của Bộ Luật hình sự. Nội dung này thể hiện cụ thể tại Điều
3 của Bộ Luật hình sự. Đối với kẻ phạm tội, việc áp dụng hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
chủ yếu là nhằm mục đích cải tạo, giáo dục kẻ phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hình
phạt trong Luật hình sự Việt Nam không nhằm gây đau đớn về thể xác và không nhằm hạ thấp
phẩm giá của con người.
• Cụ thể, nguyên tắc nhân đạo có các nội dung sau:
 – Luật hình sự Việt Nam khoan hồng với những người tự thú, thật thà khai báo, tố giác đồng
bọn, lập công chuộc tội, ăn năn, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.
 – Luật hình sự không có mục đích trả thù, hạ thấp nhân phẩm người phạm tội mà nhằm tạo điều
kiện để họ được cải tạo trở thành người có ích cho xã hội, sống lương thiện.
 – Luật hình sự Việt Nam có nhiều quy định nhằm tạo điều kiện cho người phạm tội tự
 cải tạo như quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, quy định về miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện (án treo)…v.v…
 – Trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt Nam có nhiều loại hình phạt không tước tự do
như cảnh cáo, cải tạo không giam giữ… lOMoAR cPSD| 61716317
• Mặt thứ hai của nguyên tắc nhân đạo là phải nghiêm trị đối với những người phạm tội là những
người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố…Vì vậy, Bộ Luật hình sự đã quy định các hình phạt
nghiêm khắc như tù chung thân, tử hình. Tuy nhiên, các hình phạt này cũng chỉ được phép áp
dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và phạm vi áp dụng cũng có giới hạn nhất
định: hình phạt tù chung thân và tử hình không được phép áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội, hình phạt tử hình không được phép áp dụng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi
con nhỏ dưới 36 tháng tuổi… 4. Nguyên tắc hành vi
• Xuất phát từ quan điểm: Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể là hành vi của con người
mà không thể là ý nghĩ, tư tưởng của họ, ngành luật hình sự Việt Nam thừa nhận nguyên tắc
hành vi là nguyên tắc của ngành luật này. Theo đó, ngành luật hình sự không cho phép truy cứu
TNHS một người về tư tưởng của họ mà chỉ được truy cứu TNHS đối với hành vi của họ
khi hành vi đó thoả mãn các dấu hiệu của tội phạm cụ thể được quy phạm pháp luật hình sự quy định.
• Thể hiện nguyên tắc hành vi, Điều 8 BLHS đã xác định tội phạm phải là hành vi trong định nghĩa
về tội phạm. Từ đó, trong phần mô tả các tội danh cụ thể, BLHS khi mô tả tội phạm đều mô tả
hành vi của con người. Với nguyên tắc hành vi, ngành luật hình sự Việt Nam cấm truy cứu TNHS
tư tưởng của con người. Ở khía cạnh này cũng có thể coi “cấm truy cứu TNHS tư tưởng" là
nguyên tắc của ngành luật hình sự. 5. Nguyên tắc có lỗi
• Gắn liền với nguyên tắc hành vi là nguyên tắc có lỗi. Ngành luật hình sự Việt Nam truy cứu
TNHS một người về hành vi gây thiệt hại cho xã hội chỉ khi người đó có lỗi. Hành vi gây thiệt
hại cho xã hội nhưng chủ thể thực hiện không có lỗi (do những lí do khác nhau như họ bị mất
năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội của hành vi hoặc năng lực điều khiển hành vi theo đòi hỏi của
xá hội vì mắc bệnh tâm thần hoặc do họ ở trong tình trạng bất khả kháng) thì hành vi đó không
bị coi là tội phạm và chủ thể thực hiện không phải chịu TNHS. Với việc thừa nhận nguyên tắc
có lỗi, luật hình sự Việt Nam cấm “truy tội khách quan ’’ (truy cứu TNHS chỉ căn cứ vào hành
vi khách quan mà không xét đến lỗi (chủ quan) của chủ thể).
• Thừa nhận nguyên tắc có lỗi là xuất phát từ chức năng giáo dục của ngành luật hình sự. Chức
năng này không thể thực hiện được khi truy cứu TNHS một người mà họ không có lỗi.
• Thể hiện nguyên tắc có lỗi, ngành luật hình sự Việt Nam khi định nghĩa tội phạm tại Điều 8
BLHS đã khẳng định tội phạm phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện một cách
cố ý hoặc vô ý, có nghĩa là được thực hiện một cách có lỗi. Từ đó, các điều luật trong BLHS khi
mô tả tội cụ thể đều cần thể hiện dấu hiệu lỗi của tội phạm.
6. Nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự lOMoAR cPSD| 61716317
• Phân hóa trách nhiệm hình sự bao gồm hai nội dung không tách rời nhau là cá thể hóa trách
nhiệm hình sự trong áp dụng Luật Hình sự và phân hóa trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự.
• – Cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp dụng Luật Hình sự
 Trách nhiệm hình sự phải được xác định đúng cho từng người phạm tội, hình phạt áp dụng cho
người phạm tội cụ thể phải tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã gây
ra, phải phù hợp với nhân thân cũng như hoàn cảnh của người phạm tội.
• – Phân hóa trách nhiệm hình sự thể hiện trong Luật Hình sự
 + Phân loại tội phạm thành các nhóm tội khác nhau để có các quy định khác nhau về trách nhiệm hình sự.
 + Đa dạng hoá hệ thống hình phạt.
 + Phân hoá chế tài của mỗi tội thành nhiều khung hình phạt khác nhau.
Câu 3: Nội dung nhiệm vụ (chức năng) của luật hình sự: lOMoAR cPSD| 61716317 
Nội dung phân hóa trên đây đã được cụ thể hoá tại các điều 51 và 52 BLHS (các tình tiết giảm
nhẹ TNHS, các tình tiết tăng nặng TNHS) cũng như được cụ thể hoá ở dấu hiệu định khung hình
phạt của một số tội phạm. Nội dung phân hoá này cũng cần được chú ý khi áp dụng luật hình sự
để cá thể hoá trách nhiệm hình sự.
a. Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của Bộ luật hình sự
• – Chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động tuy có nội dung khác nhau nhưng
không tách rời nhau. Trong đó, chống tội phạm là hoạt động trực diện với tội phạm – hoạt động
phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử tội phạm. Phòng ngừa tội phạm bao gồm nhiều hoạt động
khác nhau nhằm ngăn n ngừa không để cho tội phạm xảy ra và đều có quan hệ mật thiết với hoạt
động chống tội phạm. Chống tội phạm có hiệu quả không chỉ có tác dụng răn đe, ngăn ngừa tội
phạm mà còn có thể định hướng cho các hoạt động phòng ngừa tội phạm.
• – Do vậy, hoạt động chống tội phạm cũng được coi là hoạt động phòng ngừa tội phạm đặc biệt.
Hoạt động chống và phòng ngừa tội phạm phải dựa trên cơ sở pháp lí chung hay nói cách khác
là đều phải sử dụng công cụ pháp lí chung là luật hình sự. Hiệu quả của chống và phòng ngừa
tội phạm phụ thuộc một phần quan trọng vào độ hoàn thiện của luật hình sự. Do vậy, luật hình
sự đã được coi là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
• – Chức năng chống và phòng ngừa tội phạm của luật hình sự được khẳng định rõ tại Điều 1 Bộ
luật hình sự : ” Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa
đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật, chống mọi
hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm”.
• – Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt. Để thực hiện tốt chức năng chống và phòng
ngừa tội phạm đòi hỏi luật hình sự phải luôn luôn được hoàn thiện theo sát sự thay đổi của tình
hình tội phạm, đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tội phạm
b. Chức năng bảo vệ của Bộ luật hình sự
• – Qua chức năng chống và phòng ngừa tội phạm, luật hình sự đồng thời có chức năng bảo vệ
các quan hệ xã hội quan trọng cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội trước sự xâm hại
của tội phạm. Ngành luật hình sự là công cụ pháp lí “góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội,
trật tự quản lí kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sông trong một môi trường xã hội và sinh
thái an toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao” lOMoAR cPSD| 61716317 
• – Đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự đều được xác định rõ ràng trong các Bộ luật hình sự:
Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015.
– Theo Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015:” Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự; Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội
phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được
xử lý bằng các biện pháp khác.”
• – Theo đó, đối đôi tượng bảo vệ của luật hình sự là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật. Để thực hiện tốt chức năng bảo vệ
của mình, ngành luật hình sự cần phải xác định đúng, đây đủ và kịp thời những hành vi có hiểm
cho các đối thể gây nguy tượng bảo vệ đế quy định là tội phạm. Có như vậy ngành luật hình sự
mới có thể trở thành công cụ pháp lí hữu hiệu bảo vệ các quan hệ xã hội đã được xác định qua
việc chống và phòng ngừa một cách toàn diện tất cả các tội phạm, không có hành vi nào nguy
hiểm (ở mức tội phạm) cho đối tượng bảo vệ của ngành luật hình sự bị bỏ qua. c. Chức năng
giáo dục của Bộ luật hình sự
• – Chống tội phạm qua việc xử phạt người phạm tội (cũng như pháp nhân thương mại trong
trường hợp nhất định) không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm mục đích giáo dục họ và giáo dục
mọi người nói chung. Do vậy, ngành luật hình : sự không chỉ là công cụ chống tội phạm mà còn
có chức năng giáo dục. Cũng chính qua chức năng giáo dục mà ngành luật hình sự có the thực
hiện được chức năng phòng ngừa tội phạm của mình.
• – Ngành luật hình sự không chỉ là công cụ răn đe người phạm tội mà còn răn đe cả những người
khác và qua đó giáo dục người phạm tội cũng như mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, tránh
các hành vi phạm tội. Ngành luật hình sự cũng là công cụ giáo dục ý thức tham gia chống và
phòng ngừa tội phạm cho tất cả mọi người với vai trò là công dân cũng như với vai trò là thành
viên của cơ quan hay tổ chức.
• – Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự dựa trên cơ sở chức năng chống tội phạm nhưng
đồng thời cũng là cơ sở cho chức năng phòng ngừa tội phạm và chức năng bảo vệ của ngành luật này. lOMoAR cPSD| 61716317 
• – Chức năng giáo dục của ngành luật hình sự được xác định cụ thể tại Điều 1 và Điều 31 Bộ luật
hình sự, theo đó, Điều 31 quy định về hình phạt như sau: ” Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị
người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các
quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác
tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”
(Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật hình sự quy định: … giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”; Điều 31. Mục đích của hình phạt quy định: “…
mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, giáo dục người,
pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.”).
d. Nhiệm vụ nào của Bộ luật hình sự là quan trọng nhất?
 – Trong các nhiệm vụ của Bộ luật hình sự, tất các các nhiệm vụ đều quan trọng không chỉ riêng
một nhiệm vụ nào là quan trọng nhất bởi lẽ, tất cả các nhiệm vụ của Bộ luật hình sự đều hướng
tới sự giáo dục, phòng ngừa tội phạm, và chức năng bảo vệ đến quyền và lợi ích của các cá nhân,
tổ chức, cơ quan, bảo vệ độc lập. chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam Xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý
kinh tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an toàn,
lành mạnh, mang tính nhân văn cao, giáo dục mọi người có ý thức tuân theo pháp luật và và các
quy tắc của cuộc sống, phòng ngừa và đấu tranh tội phạm.