





Preview text:
Khái quát về cơ quan lập pháp thời Lý? Tìm
hiểu về Bộ luật Hình thư? 1. Vua Lý Thái Tông
Lý Thái Tông (1000 – 1054) là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Nhà Lý, cai trị
trong 26 năm (1028–1054). Ông được đánh giá là một vị hoàng đế tài giỏi,
thời đại của ông được xem là khởi đầu sự thịnh vượng của Nhà Lý.
Lý Thái Tông tên thật là Lý Phật Mã, là con trưởng của Lý Thái Tổ, được mô
tả uy dũng hơn người, bách chiến bách thắng, trải qua Loạn Tam vương mà
lên ngôi, công danh rạng rỡ. Đế củng cố quyền lực cho Nhà Lý, bên trong
dùng chính sách hòa thân, gả công chúa cho các quan Châu mục, bên cạnh
đó còn dẹp loạn đảng làm phản như loạn họ Nùng; bên ngoài đánh được
Chiêm Thành, công tích đánh dẹp uy nghi, tiền đề cho các đời sau phát triển phồn thịnh.
Đối với quần thần, Thái Tông thường tỏ ra nhân từ, không xử tội các Vương
tham gia vụ loạn tam vương, cho tha tội mà còn phục chức. Đối với kẻ thù
như Chiêm Thành, vua còn ra lệnh không tùy tiện chém giết, lệnh cho binh
lính không được làm bậy. Sử gia Ngô Sĩ Liên nhận định: “Tấm lòng ấy của
vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng?! Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm”.
Lý Thái Tông lên làm vua đã hơn 15 năm, mà nước Chiêm Thành láng giềng
không chịu thông sứ và lại cứ quấy nhiễu ở mặt bể. Thấy vậy, năm 1044, vua
Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm dàn trận ở phía nam sông
Ngũ Bồ. Lý Thái Tông truyền thúc quân đánh tràn sang, quân Chiêm thua
chạy. Quân Lý bắt được hơn 5.000 người và 30 con voi. Tướng Chiêm là
Quách Gia Di chém chết vua Sạ Đẩu đem đầu sang xin hàng.
Bấy giờ quân Chiêm Thành và dân bản xứ bị giết rất nhiều. Vua Thái Tông
trông thấy động lòng thương, ra lệnh cấm không được giết người Chiêm, hễ
ai trái lệnh thì theo phép quân mà trị tội.
Ông tiến binh đến quốc đô Phật Thệ (nay ở làng Nguyệt Hậu, huyện Hương
Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế), vào thành bắt được vương phi Mỵ Ê và các cung
nữ đem về. Mỵ Ê giữ tiết không chịu lấy vua, nhảy xuống sông tự tử. Mỵ Ê
được ông khen là trinh tiết, phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng
trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng
về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ
vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng
bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu (nay là Quy Hóa), đặt
hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành.
2. Khái quát về cơ quan lập pháp thời Lý
Nhà Lý được xác định là nhà nước đầu tiên ở Việt Nam chính thức có hệ
thống pháp luật từ khi giành độc lập sau thời Bắc thuộc mà thời nhà Ngô, nhà
Đinh và nhà Tiền Lê trước đó chưa có. Cơ quan pháp luật
Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện.
Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường
hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử.
Khi có dịp lễ hội, cầu đảo hay thay đổi thời tiết hoặc vua mới lên ngôi…
thường có lệnh chẩn tế hoặc tha tù.
Năm 1077, Lý Nhân Tông tổ chức thi lại viên để tuyển chọn quan lại với 3
môn: thư (viết chữ), toán và hình luật.
Thời Lý Anh Tông, triều đình đặt ra hòm bằng đồng để tiếp nhận thư kêu oan của dân. 3. Ban hành Hình thư
Thái Tông Hoàng đế còn chủ trương sửa lại luật pháp, định các bậc hình phạt,
các cách tra hỏi. Kẻ nào ban đêm vào nhà gian dâm vợ cả, vợ lẽ người ta,
người chủ đánh chết ngay lúc bấy giờ thì không bị tội. Những người từ 70
tuổi trở lên, 80 tuổi trở xuống, từ 10 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những
người ốm yếu cho đến các thân thuộc Đế từ hạng đại công trở lên phạm tội
thì cho chuộc bằng tiền, nếu phạm tội thập ác thì không được theo lệ này.
Xuống chiếu về việc phú thuế của trăm họ, cho phép người thu, ngoài 10
phần phải nộp quan được lấy thêm một phần nữa, gọi là “hoành đầu”. Lấy
quá thì xử theo tội ăn trộm, trăm họ có người tố cáo được tha phú dịch cho cả
nhà trong 3 năm, người ở kinh thành mà cáo giác thì thưởng cho bằng hiện
vật thu được. Nếu quản giáp, chủ đô và người thu thuế thông đồng nhau thu
quá lệ, tuy xảy ra đã lâu, nhưng có người tố cáo thì quản giáp, chủ đô và
người thu thuế cũng phải tội như nhau.
Cơ quan chuyên trách pháp luật của nhà Lý là Bộ Hình và Thẩm hình viện.
Đảm nhận chức vụ này thường là á tướng kiêm nhiệm. Trong một số trường
hợp, vua đích thân xử án như vụ kiện năm 1065 được vua Lý Thánh Tông thân hành xét xử.
Năm 1042, Thái Tông Hoàng đế ban Hình thư. Trước kia, việc kiện tụng trong
nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc
nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai
Trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra
môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư, để cho người xem
dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây
phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo và đúc tiền Minh Đạo.
Bộ luật Hình thư năm 1042 được xem là bộ luật đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam. Việc ban hành bộ luật Hình thư được đánh giá là một cột mốc quan
trọng trong lịch sử lập pháp nước ta. Về mặt văn bản, Bộ luật này không còn
bản gốc nhưng nội dung của nó còn được ghi chép lại trong sử cũ. Căn cứ
vào những ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư thì Hình thư là một sưu tập
luật lệ có tính pháp điển. Về quy mô, theo Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến
chương loại chí, Hình thư gồm 3 quyển. Về nội dung, qua những ghi chép còn
lại trong sử cũ, bộ luật có những quy định về tổ chức của triều đình, quân đội
và hệ thống quan lại; quy định biện pháp trừng trị đối với những hành vi nguy
hiểm cho xã hội; quy định một số vấn đề về sở hữu và mua bán đất đai, tài
sản; quy định về thuế… Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bộ luật Hình
thư được ban hành để khẳng định quyền lợi, địa vị của nhà nước phong kiến
và giai cấp quý tộc quan liêu, đồng thời là công cụ để ổn định xã hội, giữ gìn
kỷ cương, bảo vệ sản xuất nông nghiệp… (Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn –
Lịch sử Chế độ Phong kiến Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1960, tr 272, 273)
Ngay sau khi ban hành luật, nhà Lý cho ban hành thể lệ chuộc tội, trừ khi
người đó phạm phải những tội trong thập ác:
1.Mưu phản: làm nguy xã tắc
2.Mưu đại nghịch: làm nguy tông miếu, cung khuyết
3.Mưu bạn nghịch: nổi loạn theo giặc
4.Ác nghịch: đánh giết ông bà cha mẹ
5.Bất đạo: giết người vô tội
6.Đại bất kính: dùng những đồ dành riêng cho vua, trộm và giả mạo ấn vua
7.Bất hiếu: mắng chửi hay không để tang ông bà cha mẹ
8.Bất mục: đánh giết những người thân thuộc gần
9.Bất nghĩa: dân giết quân, trò giết thầy, lính giết tướng, con giết cha
10.Nội loạn: thông dâm với họ hàng thân thiết, thiếp của ông hay cha.
Năm 1043, Lý Thái Tông đặt thêm quy định: Ai trộm lúa của dân sẽ bị đánh
100 trượng; nếu không lấy được mà làm bị thương người khác sẽ bị tội lưu.
Quân lính lấy của cải của dân sẽ bị đánh 100 trường và thích 30 chữ.
Năm 1043, tháng 8, vua xuống chiếu rằng kẻ nào đem bán hoàng nam trong
dân gian làm gia nô cho người ta, đã bán rồi thì đánh 100 trượng, thích vào
mặt 20 chữ, chưa bán mà đã làm việc cho người thì cũng đáng trượng như
thế, thích vào mặt 10 chữ; người nào biết chuyện mà cũng mua thì xử giảm
một bậc. Xuống chiếu rằng quân sĩ bỏ trốn quá 1 năm xử 100 trượng, thích
vào mặt 50 chữ, chưa đến 1 năm thì xử theo mức tội nhẹ, kẻ nào quay lại thì
cho về chỗ cũ. Quân sĩ không theo xa giá cũng xử trượng như thế và thích vào mặt 10 chữ.
Bộ luật này có đề cập tới vấn đề xét xử tội tham ô, hối lộ. Đại Việt sử ký toàn
thư ghi chép: Vào năm Quý Mùi (1043), vua đã xuống chiếu cho Quyến khố ty
(ty coi việc kho lụa) “ai nhận riêng một thước lụa của người thì xử 100 trượng,
từ 1 tấm đến 10 tấm trở lên thì phạt trượng theo số tấm, gia thêm khổ sai 10 năm”.
Việc ra đời của Hình thư cũng như các cơ quan Bộ Hình và Thẩm hình được
xem là bước tiến trong việc tổ chức quản lý của nhà nước thời Lý, tuy hiệu lực vẫn còn hạn chế.
Hình thư hiện đã bị thất truyền.
4. Đề cao sự khoan hồng
Lý Thái Tông còn được lịch sử ghi nhớ vì quy định về tuyên thệ như một nghi
thức của triều đình. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, hàng năm, vua cùng quần
thần đến đền Đồng Cổ (Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội ngày nay) để cùng phát
thệ: “Kẻ nào làm con bất hiếu, làm tôi bất trung, thần minh tru diệt”. Lễ thức
này được duy trì qua nhiều triều vua đời Lý và sang cả đời Trần.
Nhiều lần dùng binh từ Nam chí Bắc nhưng Lý Thái Tông tỏ ra là vị hoàng đế
bao dung, nhân hậu. Các sử gia cho rằng Lý Thái Tông cũng như nhiều
hoàng đế Nhà Lý khác có lượng khoan hồng vì ảnh hưởng của quốc giáo là
đạo Phật. Trừ người em Vũ Đức vương làm loạn bị giết, với những vương
tôn phản loạn khác ông đều tha tội. Trong cuộc phản loạn của các vương tôn,
nhờ người em thứ hai của Thái Tông là Khai Quốc vương đem quân giải vây
cho Thăng Long và Trường Yên (kinh đô Hoa Lư) giúp ông chống lại quân nổi
loạn và chính Khai Quốc vương vận động quần thần tôn ông lên ngôi. Nùng
Trí Cao nhiều lần làm phản nhưng ông vẫn đối đãi khá rộng lượng. Vì vậy
nhà sử học Ngô Sĩ Liên theo quan điểm Nho giáo chê ông “mê hoặc theo
thuyết từ ái của đạo Phật mà tha tội cho bề tôi phản nghịch”.
Có thể nói, nhà Lý trường tồn trên 200 năm lịch sử, đưa đất nước vào giai
đoạn cường thịnh có phần đóng góp to lớn của Hình thư, cai trị đất nước
bằng pháp luật. Dẫu cũng có những quy định khắc nghiệt nhưng nhìn chung
đó là bộ luật chặt chẽ nhưng nhân đạo, vua Lý Thái Tông xứng đáng là vị vua
anh minh, cả về võ công và văn trị, nhìn từ góc độ xét xử, ông là một nhân vật
tiêu biểu cho tinh thần nghiêm minh kết hợp với nhân đạo, khoan dung.
5. Kinh tế và đẳng cấp xã hội thời Lý
5.1. Trong lĩnh vực kinh tế
Pháp luật nhà Lý phản ánh và chấp nhận sự xuất hiện của chế độ tư hữu
ruộng đất. Lý Anh Tông quy định ra phép chuộc ruộng và nhận ruộng, theo đó
ruộng cầm đợi trong 20 năm được chuộc; tranh nhau ruộng đất trong vòng 5
năm hay 10 năm thì được quyền kiện. Ruộng đã bán có khế ước thì không
được chuộc, ai trái lệnh sẽ bị đánh 80 trượng. Nếu khi tranh chấp ruộng ao
mà dùng binh khí đánh người gây tử thương thì cũng bị xử đánh 80 trượng,
bị tội đồ và phải trả ruộng cho người bị tử thương.
Pháp luật nhà Lý bảo vệ nguồn thu nhập của triều đình, đảm bảo dân đinh là
sức lao động chủ yếu mà triều đình sử dụng. Năm 1146, Lý Anh Tông ra lệnh
cho bách quan, quản giáp, chủ đô khi tuyển lính để bổ sung cho cấm quân thì
phải chọn những hộ lớn là những hộ nhiều người, không được lấy người cô
độc. Ai làm trái sẽ bị trị tội.
Thể lệ thu thuế cũng được định rõ: các quan lại thu thuế của dân, ngoài
khoản phải nộp cho triều đình, được thu riêng một phần gọi là "hoành đầu"
làm tiền giấy bút. Những người thu quá số sẽ bị ghép vào tội ăn trộm. Nhân
dân có ai tố cáo việc đó được miễn dịch 3 năm. Nếu quản giáp, chủ đô và
người trưng thu thuế thông đồng với nhau thu quá quy định, tuy lâu ngày
nhưng có người phát giác thì tất cả cùng bị tội như nhau.
Khố ti thu thuế lụa, nếu ăn lụa của nhân dân thì cứ mỗi thước lụa phạt 100
trượng, mỗi tấm lụa đến trên 10 tấm phạt thêm phối dịch 10 năm.
Để đảm bảo sản xuất nông nghiệp, việc giết trâu bò được quy định chặt chẽ.
Người giết trâu bò bừa bãi không theo quy định bị xử tội nặng.
5.2. Với đẳng cấp xã hội
Pháp luật nhà Lý phản ánh rõ sự phân biệt đẳng cấp xã hội. Đẳng cấp của
quý tộc quan liêu được hưởng đặc quyền, từ trang phục, nhà cửa cũng có sự
phân biệt giữa vua quan và dân.
Thợ thuyền làm công cho triều đình không được chế các đồ dùng kiểu nhà
quan mang ra bán cho nhà dân. Con cái nhà dân không được bắt chước theo cách trang sức trong cung.
Pháp luật nhà Lý coi nô tỳ là những người thấp kém nhất. Nô tỳ không được
lấy con gái nhà dân. Tư nô không được xem mình như cấm quân xăm
mình rồng, người nào phạm tội sẽ bị sung công.
Nô tỳ nhà vương hầu và các quan lại không được cậy thế đánh đập quân dân,
nếu phạm tội thì chủ nô phải tội đồ, còn nô bộc bị sung công.
Document Outline
- Khái quát về cơ quan lập pháp thời Lý? Tìm hiểu về
- 1. Vua Lý Thái Tông
- 2. Khái quát về cơ quan lập pháp thời Lý
- 3. Ban hành Hình thư
- 4. Đề cao sự khoan hồng
- 5. Kinh tế và đẳng cấp xã hội thời Lý
- 5.1. Trong lĩnh vực kinh tế
- 5.2. Với đẳng cấp xã hội