Khái quát về giáo lý, giáo luật, l nghi của đạo
Phật
1. Khái quát về đạo phật
Người sáng lập ra đạo Phật Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624
trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn
Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ
Trung Ấn Độ lúc đó hoàng hậu Ma Da (Maya). sống trong cuộc đời
vương giả nhưng Thái t vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, thường
của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia m đạo nhằm tìm ra căn
nguyên của đau khổ phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh
tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương
pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ
được. Cuối cùng, Thái t đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đ thề rằng
Nếu Ta không thành đạo thì thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng
dậy khỏi chỗ này”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo
thượng, thành bậc Chánh đẳng chánh giác”, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đó ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.
tưởng chủ đạo của đạo Phật dạy con người hướng thiện, tri thức để
xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận
một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay
giáng hoạ cho ai trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân
- Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc làm việc ác thì phải chịu báo
ứng. Đạo Phật còn thể hiện một tôn giáo tiến bộ khi không thái độ phân
biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: Không đẳng cấp trong dòng máu
cùng đỏ như nhau, không đẳng cấp trong giọt nước mắt ng mặn”. Ngoài
ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết không phân biệt giữa người
tu hành tín đồ, quan điểm của đạo Phật Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng,
Ni, Phật tử nam Phật t nữ đều cùng được tu nếu ai quyết tâm đều
thể thành tựu như Đức Phật.
Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật ch trương không hệ
thống tổ chức thế giới hệ thống giáo quyền. Điều y xuất phát từ do
Đức Phật hiểu sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật
chủ trương không giao giáo quyền quản cho ai chỉ hướng dẫn đệ tử
nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì tồn tại theo h thống sơn môn (n
dòng họ thế tục ngoài đời).
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp
tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại phát triển, đạo Phật du nhập vào trên
100 nước trên thế giới, hầu khắp c châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn
hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh
chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật khoảng 350 triệu tín đồ hàng trăm
triệu người tình cảm, tín ngưỡng ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức
Phật giáo.
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
- Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn
gọi Khế kinh, nghĩa như một chân lý.
- Luật tạng: ch ghi chép những giới luật của Phật chế định dành
cho 2 chúng xuất gia 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh
hoạt tu học, đặc biệt c quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.
- Luận tạng: sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi một kho tàng đại.
Riêng Đại tạng kinh gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những
trước tác, bình luận, giải thích giáo rất nhiều các lĩnh vực khác, như:
Văn học, triết học, nghệ thuật, luân học được truyền khắp thế giới
được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản t chép bằng chữ Pali chữ
Phạn.
2. Giáo của đạo Phật
Giáo lý của đạo Phật rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống,
không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc
hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn
cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để tu theo cách nào trong 84.000 pháp
môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui,
ấm no hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình hội.
Giáo bản của đạo Phật 2 vấn đề quan trọng, đó là Nhân
duyên Tứ Diệu đế (4 chân lý).
Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong trụ luôn luôn vận
động biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi
sự vật đều quá trình hình thành, phát triển tồn tại một thời gian, rồi biến
chuyển đi đến huỷ hoại cuối cùng tan biến, như một làn sóng, khi mới
nhô lên gọi “thành”, khi nhô n cao nhất gọi “trụ”, khi h dần xuống gọi
“hoại”, đến khi tan lại trở về “không”) đều bị chi phối bởi quy luật nhân -
duyên, trong đó nhân năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả duyên
sự hỗ trợ, phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ o sự kết hợp
giữa nhân duyên tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. hay
không một hiện tượng, sự vật do sự kết hợp hay tan của nhiều nhân,
nhiều duyên. Nhân duyên cũng không phải tự nhiên được tạo ra
bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng quá trình hợp - tan của các
nhân - duyên trước để tạo ra nhân - duyên mới, Phật giáo gọi đó tính
“trùng trùng duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành -
Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật:
Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại,
thay đổi theo thời gian cuối cùng diệt vong). Khi con người mất đi thì
tinh thần cũng theo đó tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn
vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải sản phẩm
của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên có. Sự xuất hiện
của một người do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp người đó không còn
tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân - duyên đây được Phật giáo khái quát
thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối
tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) minh; 2) Hành; 3)Thức; 4)
Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12)
Lão tử. Trong đó, minh duyên của "Hành", Hành duyên của "Thức",
Thức duyên của "Danh sắc", Danh sắc duyên của "Lục nhập", Lục nhập
duyên của "Xúc", Xúc duyên của "Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái
duyên của "Thủ", Thủ duyên của "Hữu", Hữu duyên của "Sinh", Sinh
duyên của "Lão tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên quan hệ gắn
mật thiết với nhau, cái này quả của cái trước nhưng lại nhân, duyên
cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu
tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen một màn đêm u tối, không ánh sáng
dẫn đường, không biết lối đi; hiểu theo nghĩa bóng đó sự thiếu hiểu biết
của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện
tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao
cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên
“nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn
quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để thể thụ hưởng yên vui, an lạc
trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị
nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên
quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi
thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ thường. thường là không thường
xuyên, mãi mãi trong một trạng thái nhất định sẽ luôn biến đổi, tồn
tại hay không tồn tại, hay không đó chỉ vấn đề thời gian. Khi đầy đủ
nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi "có"; khi nhân duyên tan thì
sự vật biến diệt, lại trở về "không". Muôn vật t nhân duyên sinh
cũng do nhân duyên mà diệt. nhân duyên làm cho ta thấy con người
một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình,
làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não
đều do nhân duyên con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó,
Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu
thương chia sẻ, hạnh phúc của mọi người hạnh phúc của mình, sống
tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh
hưởng, chi phối bởi sự thường của cuộc sống.
Tứ diệu đế
Khi còn Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó
Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để giải sao con người ta lại đau kh
làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận căn nguyên
nguồn cội của sự khổ đau phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem
kiến thức của mình truyền hướng dẫn cho người xung quanh thực
hành.
Song giai đoạn đầu truyền không thành công l Đức Phật nói
ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ
không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó
Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ duy luận sang hướng
dẫn thực hành, đó pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển
Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Kh đế, Tập đế, Diệt đế Đạo đế.
- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống trên đời ai cũng
phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành
8 loại khổ (bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);
+ Lão (tuổi già sức yếu khổ);
+ Bệnh (đau ốm khổ);
+ Tử (chết khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người oán thù phải gặp g cũng khổ);
+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện khổ);
+ "Ngũ ấm thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được gọi thân n ấm,
đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm thức ấm. Thân ngũ đại của con
người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật thường, bởi thất nh, lục dục lôi
cuốn… làm cho khổ sở).
Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan
trái lại, làm cho mọi người nhìn về quy luật thực tế của cuộc sống để
trân trọng những mình có, khi gặp cảnh khổ ng không hoảng loạn
điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết
cho tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu đời, Đức
Phật gọi Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết
sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham lam),
sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp
ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), kiến (hiểu không đúng,
tín dị đoan…), kiến th (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm
theo lời răn cấm của giáo). 10 điều này đều thể chính ngay trong con
người gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham
- Sân - Si, Phật giáo gọi “Tam độc” nguyên nhân chính của sự kh đau.
- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con
người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó diệt
cái nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế: những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh
thực hành diệt khổ, được vui. Đây phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế,
khi biết đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ
để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không phương pháp hiệu nghiệm
để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đ càng thêm đau
khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn
của chúng sinh phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho
phù hợp với bản thân mình.
Đạo đế 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm xứ (bốn điều người tu hành thường xuyên nghĩ đến):
quán thân bất tịnh; quán m thường; quán pháp ngã; quán thọ th khổ.
- Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành):
tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều
ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn
tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
- Tứ như ý túc (bốn phép thiền định đ việc tu hành được phát triển):
Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc quán n ý túc.
- Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín
căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm năng lực để cùng n căn giúp người tu hành đạt
chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo
quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
- Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân Tứ đế để
tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy,
chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm chính
định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói trên, Bát chính đạo được coi
pháp môn chính quan trọng nhất, phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi
thời đại mọi người. Giá trị của Bát chính đạo giúp người ta tu dưỡng
thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con
đường giải thoát, an vui, tự tại.
3. Giáo luật của đạo Phật
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều
hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy t tổ chức tăng
đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả,
ngã, vị tha, biết làm lành lánh d để đạt tới giác ngộ giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo “Ngũ giới” “Thập thiện”.
- Ngũ giới 5 giới cấm:
+ Không sát sinh;
+ Không nói sai sự thật;
+ Không dâm;
+ Không trộm cắp;
+ Không uống rượu.
- Thập thiện mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều
ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không kiến.
Trên sở của quy định Ngũ giới Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi
tiết cụ thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
- Đối với hàng đệ t xuất gia còn bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài
ngũ giới n đã nói trên, người tu bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa
là:
+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.
+ Không xem ca hát nhảy múa cũng không được ca hát nhảy a.
+ Không giữ vàng bạc.
+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).
Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng
ngày.
- Đối với Phật tử tại gia:
Sau khi th Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử
cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những ởng niệm ác, hành động bất chính,
gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường
giải thoát, an lạc.
Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện th thụ Bát quan trai
giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm Ngũ giới thêm 3 điều quy
định nữa:
+ Không trang điểm
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát
xướng cũng không xem nghe ...).
+ Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người
trong ch sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, dụ như tinh thần
Lục hòa (6 điều hòa hợp):
+ Thân hòa đồng trụ
+ Giới hòa đồng tu
+ Khẩu hòa tranh
+ Ý hòa đồng duyệt
+ Kiến hoà đồng giải
+ Lợi hòa đồng quân
thể nói, giáo luật của Phật giáo nhiều điểm tương đồng với
truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là các nước phương Đông,
trong đó Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã đóng góp không nhỏ o
việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ
phận đông đảo nhân dân Việt Nam.
4. Lễ nghi của đạo Phật
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người
sáng lập ức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản đồng
nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông
phái du nhập vào các n tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng
của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần sự khác biệt giữa các
khu vực, vùng miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày
âm lịch):
- Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ t
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát
- Ngày 14/7: Lễ Tự tứ
- Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam ng Khmer còn một số ngày lễ theo truyền thống
người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết
dân tộc của người Khmer);
- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y
(hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).
Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu
nghị Phật giáo đóng góp cho hội, năm 1999, tại phiên họp th 54 Đại
hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền
thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên
gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo ngày
Phật nhập Niết bàn) lễ hội văn hoá - tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc.
Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc các trung tâm
Liên hợp quốc trên thế giới.
5. Tổ chức của Phật giáo
Phật giáo chủ trương không giáo quyền, không công nhận thần
quyền, không tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo ch
những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi Tăng già hoặc Tăng đoàn
hay Giáo đoàn. Tăng già từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể
Tăng già thể bao gồm cả 2 chúng xuất gia 2 chúng tại gia.
Đứng đầu đoàn thể Tăng già một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng
nhất trong đoàn thể được tập thể các suy tôn đ quản lý, điều hành Tăng
đoàn. Ngoài ra n một số vị trong hàng Trưởng lão đạo hạnh tài năng
đứng ra giúp việc.
Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập phát triển đến các quốc
gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế - Khế để những hình thức t
chức, sinh hoạt ng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như
truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.

Preview text:

Khái quát về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo Phật
1. Khái quát về đạo phật
Người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Tất Đạt Đa (Shidartha) sinh năm 624
trước công nguyên thuộc dòng họ Thích Ca (Sakyà), con vua Tịnh Phạn
Vương Đầu Đà Na (Sudhodana) trị vì nước Ca Tỳ La Vệ (Kapilavasu) xứ
Trung Ấn Độ lúc đó và hoàng hậu Ma Da (Maya). Dù sống trong cuộc đời
vương giả nhưng Thái tử vẫn nhận ra sự đau khổ của nhân sinh, vô thường
của thế sự nên Thái tử đã quyết tâm xuất gia tìm đạo nhằm tìm ra căn
nguyên của đau khổ và phương pháp diệt trừ đau khổ để giải thoát khỏi sinh
tử luân hồi. Sau nhiều năm tìm thày học đạo, Thái Tử nhận ra rằng phương
pháp tu hành của các vị đó đều không thể giải thoát cho con người hết khổ
được. Cuối cùng, Thái tử đến ngồi nhập định dưới gốc cây Bồ đề và thề rằng
Nếu Ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan, ta cũng quyết không đứng
dậy khỏi chỗ này
”. Sau 49 ngày đêm thiền định, Thái tử đã đạt được Đạo vô
thượng, thành bậc “Chánh đẳng chánh giác”, hiệu là Phật Thích Ca Mâu Ni.
Đó là ngày 08 tháng 12 năm Đức Phật 31 tuổi.
Tư tưởng chủ đạo của đạo Phật là dạy con người hướng thiện, có tri thức để
xây dựng cuộc sống tốt đẹp yên vui trong hiện tại. Đạo Phật không công nhận
có một đấng tối cao chi phối đời sống của con người, không ban phúc hay
giáng hoạ cho ai mà trong cuộc sống mỗi người đều phải tuân theo luật Nhân
- Quả, làm việc thiện thì được hưởng phúc và làm việc ác thì phải chịu báo
ứng. Đạo Phật còn thể hiện là một tôn giáo tiến bộ khi không có thái độ phân
biệt đẳng cấp. Đức Phật đã từng nói: “Không có đẳng cấp trong dòng máu
cùng đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn
”. Ngoài
ra, đạo Phật cũng thể hiện tinh thần đoàn kết và không phân biệt giữa người
tu hành và tín đồ, quan điểm của đạo Phật là “Tứ chúng đồng tu”, đó là Tăng,
Ni, Phật tử nam và Phật tử nữ đều cùng được tu và nếu ai có quyết tâm đều
có thể thành tựu như Đức Phật.
Khác với một số tôn giáo lớn trên thế giới, đạo Phật chủ trương không có hệ
thống tổ chức thế giới và hệ thống giáo quyền. Điều này xuất phát từ lý do
Đức Phật hiểu rõ sự ham muốn quyền lực của con người, do đó Đức Phật
chủ trương không giao giáo quyền quản lý cho ai mà chỉ hướng dẫn đệ tử
nương vào giáo lý, giáo luật để duy trì và tồn tại theo hệ thống sơn môn (như
dòng họ thế tục ngoài đời).
Một đặc điểm nổi bật của đạo Phật là một tôn giáo hoà bình, hữu nghị, hợp
tác. Trải qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển, đạo Phật du nhập vào trên
100 nước trên thế giới, ở hầu khắp các châu lục nhưng luôn với trạng thái ôn
hoà, chưa bao giờ đi liền với chiến tranh xâm lược hay xảy ra các cuộc thánh
chiến. Tính đến năm 2008, đạo Phật có khoảng 350 triệu tín đồ và hàng trăm
triệu người có tình cảm, tín ngưỡng và có ảnh hưởng bởi văn hoá, đạo đức Phật giáo.
Kinh sách của Phật giáo được chia làm 3 tạng (Tam tạng kinh điển):
- Kinh tạng: là những sách ghi chép lời Phật giảng dạy về giáo lý, còn
gọi là Khế kinh, có nghĩa như là một chân lý.
- Luật tạng: là sách ghi chép những giới luật của Phật chế định dành
cho 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia phải tuân theo trong quá trình sinh
hoạt và tu học, đặc biệt là các quy định đối với hàng đệ tử xuất gia.
- Luận tạng: là sách giảng giải ý nghĩa về kinh, luật.
Về số lượng, kinh sách của Phật giáo được coi là một kho tàng vĩ đại.
Riêng Đại tạng kinh có gần 10.000 pho sách, ngoài ra còn rất nhiều những
trước tác, bình luận, giải thích giáo lý và rất nhiều các lĩnh vực khác, như:
Văn học, triết học, nghệ thuật, luân lý học được truyền bá khắp thế giới và
được dịch ra nhiều thứ tiếng. Nguyên bản thì chép bằng chữ Pali và chữ Phạn.
2. Giáo lý của đạo Phật
Giáo lý của đạo Phật có rất nhiều nhưng đều xuất phát từ thực tế cuộc sống,
không trừu tượng, siêu hình, giáo điều hay khiên cưỡng, không ép buộc mà
hoàn toàn chỉ mang tính định hướng để cho mọi người tuỳ điều kiện, hoàn
cảnh, nhận thức áp dụng linh hoạt để dù tu theo cách nào trong 84.000 pháp
môn tu Đức Phật đã chỉ ra thì cuối cùng cũng đạt đến mục đích sống yên vui,
ấm no và hạnh phúc cho mỗi người, cho gia đình và xã hội.
Giáo lý cơ bản của đạo Phật có 2 vấn đề quan trọng, đó là Lý Nhân
duyên và Tứ Diệu đế (4 chân lý). Lý Nhân duyên
Phật giáo quan niệm các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng theo quy luật Thành - Trụ - Hoại - Không (mỗi
sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến
chuyển đi đến huỷ hoại và cuối cùng là tan biến, ví như một làn sóng, khi mới
nhô lên gọi là “thành”, khi nhô lên cao nhất gọi là “trụ”, khi hạ dần xuống gọi là
“hoại”, đến khi tan rã lại trở về “không”) và đều bị chi phối bởi quy luật nhân -
duyên, trong đó nhân là năng lực phát sinh, là mầm để tạo nên quả và duyên
là sự hỗ trợ, là phương tiện cho nhân phát sinh, nảy nở. Tuỳ vào sự kết hợp
giữa nhân và duyên mà tạo thành các sự vật, hiện tượng khác nhau. Có hay
không một hiện tượng, sự vật là do sự kết hợp hay tan rã của nhiều nhân,
nhiều duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên có mà nó được tạo ra
bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp - tan của các
nhân - duyên có trước để tạo ra nhân - duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính
“trùng trùng duyên khởi”.
Về con người, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật: Thành -
Trụ - Hoại - Không, hay nói cách khác bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật:
Sinh - Trụ - Dị - Diệt (đó là chu trình con người được sinh ra, lớn lên, tồn tại,
thay đổi theo thời gian và cuối cùng là diệt vong). Khi con người mất đi thì
tinh thần cũng theo đó mà tan biến. Phật giáo không công nhận một linh hồn
vĩnh cửu, tách rời thân thể để chuyển từ kiếp này sang kiếp khác.
Phật giáo quan niệm con người được sinh ra không phải là sản phẩm
của một đấng tối cao nào đó, càng không phải tự nhiên mà có. Sự xuất hiện
của một người là do nhiều nhân, nhiều duyên hội hợp và người đó không còn
tồn tại khi nhân duyên tan rã. Nhân - duyên ở đây được Phật giáo khái quát
thành một chuỗi 12 nhân duyên (thập nhị nhân duyên), là sợi dây liên tục nối
tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi: 1) Vô minh; 2) Hành; 3)Thức; 4)
Danh sắc; 5) Lục nhập; 6) Xúc; 7) Thụ; 8) Ái; 9) Thủ; 10) Hữu; 11) Sinh; 12)
Lão tử. Trong đó, Vô minh là duyên của "Hành", Hành là duyên của "Thức",
Thức là duyên của "Danh sắc", Danh sắc là duyên của "Lục nhập", Lục nhập
là duyên của "Xúc", Xúc là duyên của "Thụ", Thụ là duyên của "Ái", Ái là
duyên của "Thủ", Thủ là duyên của "Hữu", Hữu là duyên của "Sinh", Sinh là
duyên của "Lão tử". Phật giáo cho rằng 12 nhân duyên có quan hệ gắn bó
mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân, là duyên
cho cái sau. Trong chuỗi nhân duyên, Phật giáo chú trọng nhấn mạnh tới yếu
tố “vô minh”, hiểu theo nghĩa đen là một màn đêm u tối, không có ánh sáng
dẫn đường, không biết lối mà đi; hiểu theo nghĩa bóng đó là sự thiếu hiểu biết
của con người về thế giới khách quan, về bản chất chân thực của sự vật hiện
tượng dẫn tới nhìn nhận thiên kiến, thiển cận, phiến diện, chấp ngã, đề cao
cái “Ta”, từ đó dẫn dắt đến hành động sai trái, tạo nên nghiệp xấu, gây nên
“nhân” xấu, sinh ra “quả” xấu, làm cho con người phải chịu đau khổ, mãi quẩn
quanh trong vòng sinh tử luân hồi. Do đó, để có thể thụ hưởng yên vui, an lạc
trong cuộc đời con người phải học tập, lấy trí tuệ làm sự nghiệp (duy tuệ thị
nghiệp) để xoá bỏ “vô minh”, tạo ra những nhân, duyên tốt để gieo trồng nên quả ngọt.
Phật giáo quan niệm mọi sự vật luôn luôn biến chuyển, đổi thay, mọi
thứ ta có, ta nhìn thấy đều chỉ là vô thường. Vô thường là không thường
xuyên, mãi mãi ở trong một trạng thái nhất định mà nó sẽ luôn biến đổi, tồn
tại hay không tồn tại, có hay không có đó chỉ là vấn đề thời gian. Khi đầy đủ
nhân duyên hội hợp thì sự vật hiện hữu, gọi là "có"; khi nhân duyên tan rã thì
sự vật biến diệt, lại trở về là "không". Muôn vật từ nhân duyên mà sinh và
cũng do nhân duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm cho ta thấy con người là
một đấng tạo hoá tự tạo ra đời sống của mình, con người làm chủ đời mình,
làm chủ vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não
đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối. Từ cách nhìn nhận đó,
Đức Phật khuyên con người sống hướng thiện, thực hiện tâm từ bi, biết yêu
thương và chia sẻ, vì hạnh phúc của mọi người và hạnh phúc của mình, sống
tự tại an lạc, không cố chấp bám víu vào sự vật, hiện tượng, không bị ảnh
hưởng, chi phối bởi sự vô thường của cuộc sống.
Tứ diệu đế
Khi còn là Thái Tử, Đức Phật đã nhận ra cuộc đời đầy rẫy sự đau khổ, do đó
Ngài đã quyết chí ra đi tu hành để lý giải vì sao con người ta lại đau khổ và
làm sao để thoát khổ. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã nhận rõ căn nguyên
nguồn cội của sự khổ đau và phương pháp để diệt trừ nó, Đức Phật đã đem
kiến thức của mình truyền bá và hướng dẫn cho người xung quanh thực hành.
Song giai đoạn đầu truyền bá không thành công vì lý lẽ Đức Phật nói
ra quá cao siêu mà trình độ của những người nghe đa số còn hạn hẹp nên họ
không hiểu, dần dần rời bỏ khỏi những buổi thuyết pháp của Phật. Từ đó
Phật đã chuyển đổi phương pháp giảng đạo từ tư duy lý luận sang hướng
dẫn thực hành, đó là pháp môn Tứ diệu đế.
Tứ diệu đế đã trở thành giáo lý căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ kinh điển
Phật giáo. Tứ diệu đế bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế: Đức Phật chỉ ra rằng, con người ta sống ở trên đời ai cũng
phải gặp những điều đau khổ. Ngài đã khái quát cái khổ của con người thành 8 loại khổ (bát khổ):
+ Sinh (sinh ra đời và tồn tại cũng phải trải qua những đau khổ);
+ Lão (tuổi già sức yếu là khổ);
+ Bệnh (đau ốm là khổ); + Tử (chết là khổ);
+ Ái biệt ly khổ (những người thân yêu phải xa nhau là khổ);
+ Oán tăng hội khổ (những người có oán thù mà phải gặp gỡ cũng khổ);
+ Cầu bất đắc khổ (điều mong cầu không toại nguyện là khổ);
+ "Ngũ ấm xí thịnh khổ" (thân ngũ đại của con người được gọi là thân ngũ ấm,
đó là: sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Thân ngũ đại của con
người luôn bị chi phối, khổ sở bởi luật vô thường, bởi thất tình, lục dục lôi
cuốn… làm cho khổ sở).
Đức Phật nói Khổ đế không phải để làm cho con người buồn chán, bi quan
mà trái lại, làm cho mọi người nhìn rõ về quy luật và thực tế của cuộc sống để
trân trọng những gì mình có, khi gặp cảnh khổ cũng không hoảng loạn mà
điềm tĩnh đón nhận, không bị hoàn cảnh chi phối, tìm phương án giải quyết cho tốt đẹp.
- Tập đế: nguyên nhân tạo thành những nỗi khổ hiện hữu ở đời, Đức
Phật gọi là Tập đế. Đức Phật khái quát nguyên nhân nỗi khổ thành “Thập kết
sử” (mười điều cốt lõi làm cho con người bị khổ đau), đó là: tham (tham lam),
sân (giận dữ), si (si mê), mạn (kiêu ngạo), nghi (nghi ngờ), thân kiến (chấp
ngã), biên kiến (hiểu biết không đầy đủ, cực đoan), tà kiến (hiểu không đúng,
mê tín dị đoan…), kiến thủ (bảo thủ về ý kiến của mình), giới cấm thủ (làm
theo lời răn cấm của tà giáo). 10 điều này đều có thể ở chính ngay trong con
người và gây nên đau khổ, tuy nhiên Đức Phật nhấn mạnh đến 3 điều: Tham
- Sân - Si, Phật giáo gọi là “Tam độc” là nguyên nhân chính của sự khổ đau.
- Diệt đế: Đức Phật chỉ ra kết quả an vui, hạnh phúc đạt được khi con
người diệt trừ hết những nỗi khổ, muốn diệt khổ phải diệt tận gốc, đó là diệt
cái nguyên nhân gây ra đau khổ.
- Đạo đế: là những phương pháp Đức Phật hướng dẫn để chúng sinh
thực hành diệt khổ, được vui. Đây là phần quan trọng nhất trong Tứ diệu đế,
vì khi biết rõ đau khổ, nguyên nhân của đau khổ, mong muốn được thoát khổ
để đạt đến cảnh giới an vui nhưng nếu không có phương pháp hiệu nghiệm
để thực hiện ý muốn ấy thì không giải quyết được vấn đề và càng thêm đau
khổ. Do đó, Đạo đế đã được Đức Phật rất chú trọng, quan tâm để tuỳ căn cơ
của chúng sinh mà phân tích cụ thể để hướng dẫn mọi người thực hiện cho
phù hợp với bản thân mình.
Đạo đế có 37 phẩm chia làm 7 loại, đó là:
- Tứ niệm xứ (bốn điều mà người tu hành thường xuyên nghĩ đến):
quán thân bất tịnh; quán tâm vô thường; quán pháp vô ngã; quán thọ thị khổ.
- Tứ chánh cần (bốn phép siêng năng chân chính để tinh tấn tu hành):
tinh tấn ngăn ngừa những điều ác chưa phát sinh; tinh tấn dứt trừ những điều
ác đã phát sinh; tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh; tinh tấn
tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
- Tứ như ý túc (bốn phép thiền định để việc tu hành được phát triển):
Dục như ý túc, tinh tấn như ý túc, nhất tâm như ý túc và quán như ý túc.
- Ngũ căn (năm điều căn bản giúp người tu hành đạt chính quả): Tín
căn, tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn.
- Ngũ lực (năm năng lực để cùng ngũ căn giúp người tu hành đạt
chính quả): Tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực và huệ lực.
- Thất bồ đề phần (bảy pháp tu tập giúp người tu hành thành tựu đạo
quả đại giác): Trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả.
- Bát chính đạo (8 con đường chân chính hợp với chân lý Tứ đế để
tiến tới đạo Niết bàn, thoát khỏi khổ đau, đó là: Chính kiến, chính tư duy,
chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính niệm và chính
định). Trong 37 nội dung trợ đạo như đã nói ở trên, Bát chính đạo được coi là
pháp môn chính quan trọng nhất, nó phù hợp với mọi căn cơ, nhận thức, mọi
thời đại và mọi người. Giá trị của Bát chính đạo là giúp người ta tu dưỡng
thân tâm, cải thiện hoàn cảnh, thoát khỏi khổ đau, phiền não, bước lên con
đường giải thoát, an vui, tự tại.
3. Giáo luật của đạo Phật
Giáo luật Phật giáo được Đức Phật chế ra xuất phát từ thực tế trong khi điều
hành Tăng đoàn với những điều quy định, cấm nhằm duy trì tổ chức tăng
đoàn, hướng mọi người tới chân - thiện - mỹ, phát triển hạnh từ bi, hỷ xả, vô
ngã, vị tha, biết làm lành lánh dữ để đạt tới giác ngộ và giải thoát.
Cốt lõi của giáo luật Phật giáo là “Ngũ giới” và “Thập thiện”.
- Ngũ giới là 5 giới cấm: + Không sát sinh; + Không nói sai sự thật; + Không tà dâm; + Không trộm cắp; + Không uống rượu.
- Thập thiện là mười điều thiện nên làm, trong đó:
+ Ba điều thiện về thân: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm;
+ Bốn điều thiện về khẩu: không nói dối, không nói hai chiều, không nói điều ác, không nói thêu dệt;
+ Ba điều thiện về ý: không tham lam, không giận dữ, không tà kiến.

Trên cơ sở của quy định Ngũ giới và Thập thiện, Phật giáo đã quy định chi
tiết và cụ thể đối với từng loại xuất gia.
- Đối với hàng đệ tử xuất gia đã thụ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni:
Theo Luật Tứ phận thì kinh Giới bản quy định:
+ Tỳ kheo phải giữ 250 giới.
+ Tỳ kheo Ni phải giữ 348 giới.
Theo Nam truyền Luật tạng thì:
+ Tỳ kheo phải giữ 227 giới
- Đối với hàng đệ tử xuất gia còn ở bậc Sa di phải giữ 10 giới. Ngoài
ngũ giới như đã nói ở trên, người tu ở bậc Sa di còn phải giữ thêm 5 giới nữa là:
+ Không trang điểm, không bôi nước hoa hay xức dầu thơm.
+ Không nằm giường đệm cao sang, giường rộng dùng cho hai người.
+ Không xem ca hát nhảy múa và cũng không được ca hát nhảy múa. + Không giữ vàng bạc.
+ Không ăn phi thời (quá giờ quy định).

Tăng Ni phải nương vào giới luật để làm mực thước sinh hoạt hàng ngày.
- Đối với Phật tử tại gia:
Sau khi thụ Tam quy (quy Phật, quy Pháp, quy Tăng) người Phật tử
cần trì Ngũ giới để ngăn cấm những tưởng niệm ác, hành động bất chính,
gieo lòng từ bi, bình đẳng trong chúng sinh giúp họ được tiến trên con đường giải thoát, an lạc.
Ngoài ra người Phật tử tuỳ căn cơ, sở nguyện có thể thụ Bát quan trai
giới (8 giới). Nội dung Bát quan trai giới gồm có Ngũ giới và thêm 3 điều quy định nữa: + Không trang điểm
+ Không dùng đồ sang trọng (giường cao rộng; không ca múa hát
xướng và cũng không xem nghe ...).
+ Không ăn uống không đúng giờ.
- Đạo Phật cũng đưa ra những lời khuyên, hướng dẫn mọi người
trong cách sống chung, tu hành cùng giữ trọn vẹn hòa khí, ví dụ như tinh thần
Lục hòa (6 điều hòa hợp): + Thân hòa đồng trụ + Giới hòa đồng tu + Khẩu hòa vô tranh + Ý hòa đồng duyệt
+ Kiến hoà đồng giải + Lợi hòa đồng quân
Có thể nói, giáo luật của Phật giáo có nhiều điểm tương đồng với
truyền thống văn hoá của các dân tộc, đặc biệt là ở các nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam. Giáo luật của Phật giáo đã có đóng góp không nhỏ vào
việc điều chỉnh hành vi, hình thành nhân cách, đạo đức lối sống của một bộ
phận đông đảo nhân dân Việt Nam.
4. Lễ nghi của đạo Phật
Lễ nghi của Phật giáo thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính tới người
sáng lập (đức Bổn sư). Ban đầu, lễ nghi của Phật giáo khá đơn giản và đồng
nhất, song cùng với quá trình phát triển, Phật giáo phân chia thành nhiều tông
phái và du nhập vào các dân tộc khác nhau, hoà đồng cùng với tín ngưỡng
của người dân bản địa, lễ nghi của Phật giáo dần có sự khác biệt giữa các khu vực, vùng miền…
Một số ngày lễ, kỷ niệm lớn trong năm của Phật giáo (tính theo ngày âm lịch): - Tết Nguyên đán
- Rằm tháng giêng: lễ Thượng nguyên
- Ngày 08/02 : Đức Phật Thích Ca xuất gia
- Ngày 15/02: Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn
- Ngày 19/02: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ tát
- Ngày 21/02: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ tát
- Ngày 16/3: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ tát
- Ngày 04/4: Khánh đản Đức Văn Thù Bồ tát
- Ngày 15/4: Đức Phật Thích Ca đản sinh
- Ngày 13/7: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ tát - Ngày 14/7: Lễ Tự tứ - Ngày 15/7 : Lễ Vu lan
- Ngày 30/7: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ tát
- Ngày 30/9: Khánh đản Đức Phật Dược sư
- Ngày 17/11: Khánh đản Đức Phật A Di Đà
- Ngày 08/12: Đức Phật Thích Ca thành đạo
Đối với Phật giáo Nam tông Khmer còn có một số ngày lễ theo truyền thống người Khmer, như:
- Ngày 13 - 15/4 dương lịch: Lễ mừng năm mới (CholChơnam Thmây - Tết
dân tộc của người Khmer);

- Ngày 30/8 dương lịch: Lễ cúng ông bà tổ tiên (lễ Donta)…
- Đầu tháng 9 hoặc tháng 10 âm lịch (sau khi kết thúc khoá hạ): Lễ Dâng Y (hay lễ Dâng Bông);
- Ngày 15/10 âm lịch: Lễ cúng trăng (Okcombok).

Với những giá trị đạo đức, văn hóa, tư tưởng hòa bình, đoàn kết, hữu
nghị mà Phật giáo đóng góp cho xã hội, năm 1999, tại phiên họp thứ 54 Đại
hội đồng Liên hợp quốc đã công nhận Đại lễ Phật đản, tên gọi theo truyền
thống của Việt Nam (hay Đại lễ Vesak, Đại lễ Tam hợp Đức Phật - theo tên
gọi quốc tế để kỷ niệm ngày Phật đản sinh, ngày Phật thành đạo và ngày
Phật nhập Niết bàn) là lễ hội văn hoá - tôn giáo quốc tế của Liên hợp quốc.
Lễ hội này được tổ chức hàng năm tại trụ sở Liên hợp quốc và các trung tâm
Liên hợp quốc trên thế giới.
5. Tổ chức của Phật giáo
Phật giáo chủ trương không có giáo quyền, không công nhận thần
quyền, không có tổ chức theo hệ thống thế giới. Ban đầu Phật giáo chỉ có
những nhóm người cùng nhau đi truyền giáo, gọi là Tăng già hoặc Tăng đoàn
hay Giáo đoàn. Tăng già có từ 4 người trở lên. Thành phần của đoàn thể
Tăng già có thể bao gồm cả 2 chúng xuất gia và 2 chúng tại gia.
Đứng đầu đoàn thể Tăng già là một vị Trưởng lão đạo cao đức trọng
nhất trong đoàn thể được tập thể các sư suy tôn để quản lý, điều hành Tăng
đoàn. Ngoài ra còn một số vị trong hàng Trưởng lão có đạo hạnh và tài năng đứng ra giúp việc.
Tuy nhiên, sau này trong quá trình du nhập và phát triển đến các quốc
gia, Phật giáo đã theo tinh thần Khế lý - Khế cơ để có những hình thức tổ
chức, sinh hoạt tăng đoàn cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cũng như
truyền thống, văn hoá của mỗi nơi.
Document Outline

  • Khái quát về giáo lý, giáo luật, lễ nghi của đạo P
    • 1. Khái quát về đạo phật
    • 2. Giáo lý của đạo Phật
    • 3. Giáo luật của đạo Phật
    • 4. Lễ nghi của đạo Phật
    • 5. Tổ chức của Phật giáo