











Preview text:
PHẦN I KHÁI QUÁT
VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM 1
CÁC ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN ---o0o---
I. ĐỊNH NGHĨA VÀ LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN
1.1. Định nghĩa “Văn học dân gian”
“Văn học dân gian là sáng tác tập thể, truyền miệng của nhân dân lao
động, ra đời từ thời kì công xã nguyên thuỷ, trải qua các thời kì phát triển
lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại trong thời đại
hiện nay.” (Văn học dân gian Việt Nam (2002), Đinh Gia Khánh-Chu
Xuân Diên-Võ Quang Nhơn, NXB Giáo dục, tr. 7)
* Nhiệm vụ học tập số 01:
Từ định nghĩa trên đây, anh/chị hãy điền những thông tin thuộc về văn học dân gian sau đây:
- chất liệu sáng tác:…………………….
- phương thức sáng tác:…………………….
- lực lượng sáng tác:…………………….
- thời đại ra đời:…………………….
- thời điểm kết thúc:…………………….
1.2. Lược sử nghiên cứu văn học dân gian
Có 03 thuật ngữ quốc tế dùng để chỉ văn học dân gian. Đó là các
thuật ngữ: Folklore, Folk literature, Verbal art. Ngay từ đầu, người ta coi
những sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng là một đối tượng nghiên
cứu của dân tộc học, nằm trong kho khi trức, sự hiểu biết (lore) của nhân
dân (folk), bên cạnh các lĩnh vực nghiên cứu khác có liên quan đến con
người. Do vậy, từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, nghiên cứu văn học dân
gian thuộc lĩnh vực dân tộc học. Về sau, khi những kết quả nghiên cứu về
sáng tác ngôn từ truyền miệng của nhân dân trở nên có chiều sâu và đạt
nhiều thành tựu thì người ta mới dành cho đối tượng này một tên gọi
riêng song song với những sáng tác ngôn từ thành văn, thuật ngữ Folk
literature (văn học dân gian) ra đời vào thập niên 50 của thế kỉ XX. Tuy
nhiên, nếu coi những tác phẩm văn chương truyền khẩu là một loại văn 2
học thì giới nghiên cứu lại thấy rằng hình như nó không phải hoàn toàn là
văn học. Vì người ta không thưởng thức nó trong trạng thái tách rời giữa
yếu tố ngôn từ nghệ thuật với các thành tố khác của diễn xướng như âm
nhạc, vũ đạo, hoá trang. Đơn giản là trong đời sống đích thực của nó, tác
phẩm được gọi là Folk literature (văn học dân gian) không được đọc mà
là xem, nghe, thậm chí đồng diễn xướng. Do đó, thuật ngữ nói trên bộc lộ
nhiều thiếu xót khi định danh đối tượng. Do vậy, nhiều người trong giới
nghiên cứu folklore đã dành thời gian nghiền ngẫm một thuật ngữ tối ưu
để bao quát được những đặc trưng của đối tượng. Năm 1955, nhà nghiên
cứu người Mỹ William Bascom (1912-1981) đã đề xuất thuật ngữ Verbal
art (nghệ thuật truyền miệng) để chỉ văn học dân gian. Từ những năm 50
của thế kỷ XX đến nay, người ta dùng thuật ngữ Folklore thường xuyên
nhưng trong ý thức của giới nghiên cứu thì họ hướng đến nội hàm của
thuật ngữ verbal art khi bàn về văn học dân gian.
Ở Việt Nam, từ năm 1950 trở về trước, lớp trí thức Nho học sử dụng
thuật ngữ Dân gian văn học, theo trật tự tiếng Hán. Từ 1950 trở về sau
thuật ngữ Văn học dân gian thịnh hành hơn. Hiện nay, giới nghiên cứu
dùng song song hai thuật ngữ folklore và văn học dân gian.
Như vậy, tương ứng với các giai đoạn nhận thức về bản chất của đối
tượng, lịch sử nghiên cứu văn học dân gian có thể được xem xét trên 03
giai đoạn. Trước thế kỷ XX văn học dân gian chưa được nghiên cứu độc
lập, là một bộ phận của dân tộc học. Từ đầu thế kỉ XX đến 1950, văn học
dân gian chủ yếu được nghiên cứu trên văn bản cố định hoá. Từ những
năm 1950 đến nay, văn học dân gian được soi rọi dưới lí thuyết nghiên
cứu bối cảnh (nghiên cứu tình huống giao tiếp mà trong đó tác phẩm văn
học dân gian đóng vai trò như một thành phần của hành động giao tiếp).
Ở Việt Nam, cho đến những năm đầu thế kỉ XXI, văn học dân gian
chủ yếu vẫn được khảo cứu văn bản. Trong khoảng 15 năm trở lại đây (từ
những năm 2005) mới xuất hiện vài ba công trình nghiên cứu theo hướng tiếp cận bối cảnh.
* Nhiệm vụ học tập số 02:
Điền thông tin chính xác vào chỗ trống về các hướng tiếp cận văn
học dân gian trên thế giới:
- Trước thế kỉ XX: …………………………………
- Từ 1900 đến 1950:……………………………… 3
- Từ 1950 đến nay:……………………………….
II. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
Nền văn học Việt Nam gồm 02 bộ phận: bộ phận văn học dân gian (hay
còn gọi là văn học bình dân, văn học truyền khẩu) và bộ phận văn học viết
(hay còn gọi là văn học bác học, văn học thành văn).
Văn học dân gian ra đời ki nào/trong những điều kiện nào?
Văn học dân gian ra đời khi loài người còn đang ở trong thời kì tồn tại
hình thái kinh tế xã hội Công xã Nguyên thuỷ, con người sống theo các
nhóm người, các thị tộc, bộ lạc. Người ta gọi thời kì này là buổi bình minh
của lịch sử, thời kì dã man, ăn lông ở lỗ nhằm nhấn mạnh tính chất sơ khai
của xã hội loài người, hoàn cảnh mà con người chưa có bất kì kinh nghiệm
và thành tựu khoa học nào để tồn tại, xây dựng và phát triển cộng đồng. Một
thời kì như vậy hẳn là đã kéo dài hàng triệu năm, con người sống trong
những điều kiện hết sức bấp bênh, nguy hiểm.
Không thể đưa ra một mốc thời gian chính xác cho sự ra đời của văn học
dân gian. Tuy nhiên, bằng những dữ kiện khác nhau, chúng ta có thể ước
đoán rằng không phải ngay khi con người xuất hiện thì xuất hiện văn học
dân gian. Bởi lẽ, văn học được sáng tác bằng chất liệu ngôn từ nghệ thuật.
Chỉ khi nào con người có ngôn ngữ để giao tiếp và hơn nữa, chỉ khả năng
cũng như hệ thống ngôn ngữ (ở đây nói đến tiếng nói, chưa có chữ viết) của
loài người đạt đến một trình độ nhất định có thể phản ánh thế giới bằng hình
tượng thì khi đó văn học mới có khả năng ra đời. Trong số các loại chất liệu
nghệ thuật dân gian, ngôn ngữ là loại chất liệu ra đời muộn hơn so với các
loại chất liệu thuộc các lĩnh vựuc nghệ thuật khác như màu sắc của hội hoạ
dân gian, âm thanh của âm nhạc dân gian, động tác cơ thể của vũ đạo dân
gian.v.v. Do đó, văn học dân gian có thể ra đời muộn hơn so với các loại
hình nghệ thuật dân gian khác. Đó là điều kiện thứ nhất của sự ra đời văn học dân gian.
Điều kiện thứ hai thúc đẩy sự ra đời của văn học dân gian là khi sự tích
luỹ về của cải vật chất đảm bảo phần nào sự an toàn về lương thực thực
phẩm cho con người. Khi đó, con người tạm thoát ra khỏi sự phụ thuộc trực
tiếp vào nhu cầu vật chất để tồn tại và hướng tới những phương diện của đời
sống tinh thần,. aKhi đó, con người dần mở rộng sang các nhu cầu khác như
giao tiếp, trao đổi, truyền bá kinh nghiệm, diễn đạt suy nghĩ, cảm xúc.v.v.
Ở đây, vấn đề sáng tác hay thưởng thức nghệ thuật có thể chỉ ở giai đoạn
manh nha, mầm mống, chưa thị hiện thành một nhu cầu rõ ràng, cụ thể. Dù 4
thế nào, nhu cầu phục vụ trực tiếp của đời sống sinh hoạt và lao động sản
xuất mới chính là nguồn gốc sản sinh văn học dân gian.
Điều kiện thứ ba làm cơ sở cho sự ra đời của văn học dân gian là trình
độ tư duy, cụ thể là tư duy hình tượng bằng ngôn từ, của loài người đạt đến
một mức độ nhất định có thể quan sát, chuyển hoá những hình ảnh của thế
giới hiện thực mà họ quan sát được thành những hình tượng nghệ thuật. Văn
học, về bản chất, chính là một loại nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình
tượng ngôn từ. Qui luật và cơ chế của quá trình sáng tác văn học khác với
qui luật vận hành và logich của tư duy đời sống. Do vậy, có thể nói, khi đủ
khả năng sáng tạo nên những sáng tác ngôn từ truyền miệng, trình độ tư duy
con người đã nâng lên một cấp độ mới. Hay nói cách khác, chỉ khi trình độ
tư duy của con người được nâng cao ở một mức độ nhất định thì con người
mới đủ khả năng sáng tạo nên những sản phẩm ngôn từ nghệ thuật.
Tóm lại, văn học dân gian ra đời trong một giai đoạn mà từ trong tiến
hoá về mặt sinh học cũng như trong đời sống vật chất và tinh thần của con
người thời Công xã Nguyên thuỷ đã có một bước phát triển nhất định, hội
đủ các điều kiện về khả năng tư duy, trình độ ngôn ngữ và sự đảm bảo cơ
bản về đời sống vật chất để tồn tại.
* Nhiệm vụ học tập số 03:
Anh/Chị hãy điền những thông tin về điều kiện ra đời của văn học dân gian ở các phương diện:
- Ngôn ngữ:…………………………………………………….
- Tư duy:…………………………………………………………
- Vật chất:……………………………………………………….
Tình hình di sản văn học dân gian ở Việt Nam như thế nào?
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời mà
không phải bất kì quốc gia nào cũng có được. Đây là một lợi thế để dân tộc
Việt Nam xây dựng một nền văn hoá theo một diễn trình có cả bề dày lẫn
chiều sâu về mặt thời gian cũng như các giá trị tinh hoa. Một trong những
tài sản quí báu ấy chính là kho tàng văn học dân gian. Kho tàng văn học dân
gian Viêt Nam có đầy đủ các thể loại từ tự sự dân gian như Thần thoại,
Truyện cổ tích, Truyền thuyết, Sử thi, Truyện ngụ ngôn, Truyện cười, các thể
loại trữ tình dân gian như Ca dao-dân ca, Truyện thơ đến các thể loại thuộc 5
về lời ăn tiếng nói hằng ngày như Tục ngữ, Câu đố, Vè và sân khấu dân gian
như Chèo sân đình.v.v…
Trong số các thể loại kể trên, Việt Nam có thế mạnh đặc biệt ở thể loại
Truyền thuyết, Truyện cổ tích, Truyện cười, Truyện thơ, Ca dao-dân ca và
Tục ngữ, Câu đố. Các thần thoại của người Việt không thực sự phong phú.
Sử thi chỉ là “đặc sản” của một số dân tộc ít người, hoàn toàn không có
trong vốn liếng văn học dân gian của người Kinh. Điều này xuất phát từ
những nguyên nhân lịch sử cũng như truyền thống sinh hoạt cộng đồng, tâm
lí và tính cách dân tộc.v.v… Mỗi thể loại vừa nêu có một khối lượng tác
phẩm khá đồ sộ và chứa đựng những giá trị văn học, văn hoá đặc sắc, thể
hiện được diện mạo và bản sắc, lối sống, nếp nghĩ truyền thống của con người Việt Nam.
* Nhiệm vụ học tập số 04:
Hãy trả lời câu hỏi: - Theo anh/chị, trong kho tàng văn học dân gian
Việt Nam, thể loại tự sự dân gian nào nổi trội nhất? Tại sao?
….…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………
III. CÁC ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
2.1. Tính ích dụng hay chức năng sinh hoạt thực hành
Văn học dân gian, từ trong bản chất, nằm trên lằn ranh giữa văn học và
văn hoá, vừa là văn học vừa không phải là văn học thuần tuý. Từ nguồn cội
sản sinh của mình, văn học dân gian vốn không phải được sáng tác để phục
vụ nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của nhân dân mà trước hết chính là để
đáp ứng nhu cầu của sinh hoạt đời sống xã hội. Do vậy, tính ích dụng hay
chức năng sinh hoạt thực hành của văn học dân gian là một trong những đặc
tính đầu tiên làm nên nét đặc thù của bộ phận văn học này.
Tính ích dụng hay chức năng sinh hoạt thực hành của văn học dân
gian là chức năng hay đặc tính đặc thù của VHDG mà ở đó tác phẩm văn
học dân gian được sáng tác do nhu cầu trực tiếp từ thực tiễn lao động sản
xuất, sinh hoạt, vui chơi, trao gửi tâm tình hay nhu cầu đấu tranh,… của
nhân dân và đến lượt mình, sau khi ra đời, tác phẩm văn học dân gian lại
tham gia vào hầu hết các sinh hoạt đời sống của nhân dân cũng như tham 6
gia vào chính quá trình sản sinh ra những tác phẩm cùng loại hình nghệ thuật với nó.
Tính ích dụng hay chức năng sinh hoạt thực hành của văn học dân gian
được thể hiện trên nhiều phương diện thuộc phạm trù hình thái ý thức xã hội
từ tôn giáo, đạo đức đến khoa học, triết học,.v.v. Chẳng hạn, triết học, trong
nhiệm vụ cơ bản của nó, đi tìm nguồn gốc của thế giới qua việc trả lời cho
câu hỏi thế giới này bị quyết định bởi vật chất hay ý thức. Từ ngàn xưa, con
người cũng đã chạm tới những vấn đề có liên quan đến nguồn gốc của thế
giới qua những truyện thần thoại suy nguyên. Để thể hiện niềm tin vào công
lí, đạo lí sống trong những thời kì xã hội loài người đã có sự phân chia và
bóc lột giai cấp, người xưa sáng tạo nên những câu chuyện cổ tích. Trí
tưởng tượng phong phú, bay bổng của người xưa qua ước mơ con người có
thể di chuyển trên những chiếc thảm bay hay những đôi hài vạn dặm, có thể
lên thiên đình, xuống thuỷ cung.v.v. chính là những mầm móng của khoa
học về sau. Nói tóm lại, văn học dân gian hầu như chạm vào tất cả các lĩnh
vực ý thức của xã hội, thoả mãn suy nghĩ, tình cảm của con người ở chừng
mực tối ưu nhất mà khả năng tư duy họ ở thời kì xa xưa có thể làm được.
Chức năng sinh hoạt thực hành cũng thể hiện qua tất cả các thể loại văn
học dân gian và các sinh hoạt lao động sản xuất và sinh hoạt văn hoá văn
nghệ của nhân dân. Ở Việt Nam, những thắc mắc liên quan đến nguồn gốc
của trời đất và con người được ông cha ta lí giải qua các câu chuyện: Thần
Trụ Trời, Thần Biển, Mười hai bà mụ,.v.v. Nói cách khác, những truyện
Thần thoại vốn không phải được tổ tiên ta sáng tác để thoả mãn nhu cầu
sáng tạo nghệ thuật mà chính từ nhu cầu được hiểu biết nguồn gốc của thế
giới. Truyện cổ tích đáp ứng được ước mơ công kí xã hội của người xưa
trong khi truyền thuyết thể hiện được niềm tin của con người vào quá khứ
vẻ vang của dân tộc. Tục ngữ được xem là túi khôn của nhân loại, một kho
kinh nghiệm truyền thống về tất cả các lĩnh vực của đời sống.v.v.
Văn học dân gian tham gia vào tất cả các sinh hoạt của con người, từ
sinh hoạt cá nhân đến sinh hoạt cộng đồng, từ lao động sản xuất đến đấu
tranh xã hội, từ truyền bá kinh nghiệm đến phô diễn tâm tình.v.v. Hát, nói,
kể, diễn là bốn hình thức diễn xướng cơ bản của văn học dân gian. Chúng
đáp ứng được hầu như toàn diện các nhu cầu thuộc về đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Những điệu hò lao động, theo logic thông thường,
người ta gán cho nó chức năng về tinh thần, giúp cho người ta lao động
hăng say, thực chất, tác dụng cộng hưởng và khuếch đại về lực trogn lao
động, một tác dụng trực tiếp thuộc về mặt vật lí, vật chất phải được tính đến
đầu tiên. Hát ru vốn không phải để kích thích sự hứng thú hay đáp ứng nhu 7
cầu thưởng thức cái hay, cái đẹp của ngôn từ và âm điệu nơi người nghe mà
vốn chỉ để gây nhự nhàm chán, đơn điệu làm mỏi trí nghĩ giúp đưa trẻ con vào giấc ngủ.v.v.
Như vậy, có thể thấy chức năng sinh hoạt thực hành là một trong những
thuộc tính bản chất của văn học dân gian.
* Nhiệm vụ học tập số 05:
- Hãy liệt kê 03 phương diện thể hiện tính ích dụng hay chức năng sinh
hoạt thực hành của văn học dân gian:
+ 01:………………………………………………………………….
+ 02:………………………………………………………………….
+ 03:………………………………………………………………….
- Cho 02 ví dụ về hoạt động trong sinh hoạt gia đình cho thấy tính ích
dụng của văn học dân gian:
+ 01:………………………………………………………………….
+ 02:………………………………………………………………….
2.2. Tính nguyên hợp
Theo nghĩa chiết tự, “nguyên” (trong “nguyên thuỷ”) chỉ nguồn gốc xuất
phát, cội nguồn sản sinh, sự khởi đầu, “hợp” là trộn lẫn, phối thuộc, đan xen.
Tính nguyên hợp của văn học dân gian là đặc trưng mà ở đó tác phẩm văn
học dân gian có sự trộn lẫn ngay từ khi mới ra đời các thành tố nghệ thuật
khác nhau và các hình thái ý thức xã hội khác nhau.
Khi một người nghệ nhân dân gian ứng tác (hứng tác) một tác phẩm văn
học dân gian thì các yếu tố thuộc về ngôn từ nghệ thuật, vũ đạo, âm
nhạc,.v.v. đồng thời xuất hiện và hoà quyện với nhau tạo nên một tiết mục
diễn xướng. Khi ứng tác một bài dân ca, đồng thời người hát sáng tạo lời thơ,
hát theo một làn điệu nhất định kèm theo những cử chỉ, điệu độ cơ thể, biểu
cảm nét mặt,.v.v. Khi ứng khẩu một truyện kể, người nghệ nhân dân gian
vừa tổ chức cấu trúc tự sự của ngôn từ, vừa nhập vai nhân vật thông qua
giọng điệu lời nói, hành động, sắc diện,v.v. Ở những cuộc hát đối đáp của
lễ hội hay sinh hoạt văn nghệ dân gian, các yếu tố như âm nhạc, trang phục,
vũ đạo hỗ trợ rất nhiều cho người diễn xướng. 8
Tác phẩm văn học dân gian vốn là sự tổng hợp nhiều lĩnh vực: triết học,
tôn giáo, văn học, đạo đức, thiên văn,.v.v. Vốn là những sản phẩm nghệ
thuật không tự giác, ngay từ đầu, tác phẩm văn học dân gian là nơi tích chứa
toàn bộ trí tuệ và tình cảm của nhân dân. Đó là một sự tổng hợp tự nhiên
trong hoàn cảnh con người cần một phương tiện để thể hiện tư tưởng và kết
nối các phương diện của đời sống, tương tác giữa các cá nhân trong cộng
đồng. Trong hoàn cảnh con người vốn hiểu biết của con người đối với thế
giới vả bản thân con người còn hạn chế, tác phẩm văn học dân gian chính là
điểm tựa quan trọng đầu tiên để con người xây dựng kho tri thức và là
phương tiện tương tác xã hội theo chiều rộng của không gian và chiều dài
của thời gian. Khi sáng tạo nên những sản phẩm ngôn từ nghệ thuật đầu tiên,
họ không ý thức rằng mình đang làm nghệ thuật. Tác phẩm văn học dân gian,
vì vậy, là những sản phẩm nghệ thuật không tự giác. Tính nhập nhằng giữa
yếu tố văn học và yếu tố phi văn học, giữa phạm trù nghệ thuật vừa phi nghệ
thuật cũng như sự nhập nhằng về ranh giới giữa các thể loại là một trong
những nét độc đáo của văn học dân gian so với văn học viết.
Vì lẽ đó, khi tiếp cận tác phẩm văn học dân gian, chúng ta phải chuẩn bị
một tâm thế cũng như trang bị những kiến thức nền tảng các loại hình nghệ
thuật, về thời đại sản sinh, đặc điểm tư duy và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật
của con người của thời đại sản sinh ra nó. Có như vậy, chúng ta mới ý thức
đầy đủ và có thể khám phá được những giá trị tiềm ẩn bên dưới và xung
quanh lớp vỏ ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm.
Đặc tính nguyên hợp gắn liền với hoạt động diễn xướng tác phẩm văn
học dân gian. Diễn xướng dân gian, với tính chất của một loại hình nghệ
thuật không chuyên, là hoạt động mang tính nửa nghệ thuật phô diễn một
tác phẩm văn học dân gian trong nhiều kiểu tình huống khác nhau, bàng
nhiều cách thức khác nhau, có thể diễn ra ở nhiều không gian khác nhau với
những người tham dự khác nhau, mang tính ngẫu nhiên hoặc được tổ chức
theo chu kì thời gian. Diễn xướng dân gian gắn liền với sinh hoạt thường
nhật của nhân dân, thực chất, chính là một hình thức giao tiếp mang tính
nghệ thuật của cộng đồng. Do đó, việc hiểu từ “diễn xướng” tương đương
với “biểu diễn” ở các loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp là không chính xác,
thậm chí có thể làm mất đi đặc trưng của văn học dân gian. Nói cách khác,
bất kì tình huống giao tiếp nào mà ở đó có sự tham gia của tác phẩm văn
học dân gian trong nội dung giao tiếp của nó đều có thể được xem là diễn
xướng dân gian. Phổ nghĩa của diễn xướng dân gian, vì thế, có phạm vi rộng
hơn rất nhiều so với nghĩa biểu diễn nghệ thuật như cách hiểu thông thường. 9
* Nhiệm vụ học tập số 06: Cho tình huống sau:
Hai bà mẹ gặp nhau nói chuyện về những đứa con của mình. Bà A nói:
- Thằng Út nhà tôi nghỉ học quá sớm, suốt ngày ăn chơi lêu lỏng, năm
nay 30 tuổi đời mà không có nghề ngỗng gì, cứ ăn bám cha mẹ. Tôi hết lời
khuyên nhủ cố gắng học cho có cái nghề mà nó chảng chịu nghe. Bà B thở dài nói:
- Đúng là cá không ăn muối cá ương, con cãi cha mẹ trăm đường con hư mà!”
=> Theo anh/chị, hoạt động lời nói của bà B có phải là một hình thức
diễn xướng văn học dân gian hay không? Tại sao?
….………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………… 2.3. Tính tập thể
Đặc tính tập thể là một đặc trưng của VHDG mà ở đó tác phẩm VHDG
được nhân dân lao động sáng tác và lưu truyền theo không gian và thời
gian, mang đậm dấu ấn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trở
thành tài sản chung của cộng đồng, được cộng đồng bảo lưu và phát triển
trong suốt tiến trình lịch sử.
Tính tập thể của văn học dân gian dường như khá quen thuộc đối với
chúng ta. Tuy nhiên, nếu đặt câu hỏi thế nào sáng tác tập thể ở văn học dân
gian, làm sao để phân biệt với hiện tượng sáng tác tập thể ở văn học viết thì
buộc phải đi sâu vào bản chất của đối tượng.
Tập thể sáng tác văn học dân gian là nhân dân lao động, thuộc đủ mọi
thành phần như nông dân, thợ thủ công, thương nhân, người dạy học, người
đi học, người tu hành, người đi ở.v.v. , trong đó, chiếm đa số là nông dân.
Tránh đồng nhất lực lượng sáng tác văn học dân gian chỉ là giới hạn trong tầng lớp nông dân.
Tập thể sáng tác văn học dân gian, xét về qui mô, không chỉ hạn định
trong phạm vi một nhóm người cùng giai cấp, cùng ngành nghề trong phạm 10
vi một địa phương, một quốc gia mà mở rộng ra cộng đồng quốc tế. Câu
chuyện Rùa và thỏ hay típ truyện Tấm Cám có phạm vi lưu hành trên toàn
cầu với hàng trăm dị bản khác nhau. Có thể nói, tác phẩm văn học dân gian,
vượt ra khỏi ranh giới quốc gia dân tộc và trở thành tài sản văn hoá của toàn nhân loại.
Tập thể sáng tác văn học dân gian là nhân dân lao động nói chung nên
nội dung của văn học dân gian mang dấu ấn đời sống vật chất và tinh thần
của quần chúng. Trong đó, từ cách thức làm ăn sinh sống đến thân phận giai
cấp, tâm tư tình cảm.v.v. đều phản ánh đặc điểm của người lao động. Và
bên cạnh những ưu điểm của chủ nhân sáng tác, văn học dân gian, đôi khi,
cũng bộc lộ những hạn chế trong tư tưởng và tình cảm của họ.
Tập thể sáng tác văn học dân gian mang tính tự phát, không được tổ
chức chặt chẽ với cương lĩnh sáng tác hẳn hoi. Tuy nhiên, tính thống nhất tự
nhiên của tập thể nhân dân lao động khá cao. Về bản chất, sáng tác tập thể
của văn học dân gian rất khác với hiện tượng tập thể sáng tác của văn học
viết. Mỗi một tác phẩm văn học dân gian thường do một cá nhân sáng tác,
thường đó là những người ưu tú, có khả năng văn chương và có nhiều hiểu
biết, kinh nghiệm. Tác phẩm sau khi ra đời, nếu nó phù hợp với tư tưởng,
tình cảm, đạo lí của nhân dân, có ngôn từ mộc mạc, trong sáng dễ đi vào
lòng người thì sẽ được lưu hành, truyền bá rộng rãi. Nó trở thành tài sản
chung của cộng đồng. Qua các không gian, thời gian khác nhau, nó sẽ được
thay đổi, bổ sung, tái tạo thánh các dị bản hoặc thành những đơn vị sáng tác mới.
Tính tập thể cho phép tác phẩm văn học dân gian ra đời có sự kế thừa
truyền thống, sự lặp lại trong sáng tạo, khác với quan điểm sáng tác trong văn học viết.
* Nhiệm vụ học tập số 07:
Anh/Chị hãy cho ví dụ về hiệng tượng tập thể sáng tác trong văn học
viết và chỉ ra sự khác biệt với tính tập thể trong sáng tác văn học dân gian.
….………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………. 11
2.4. Tính truyền miệng
Đặc tính truyền miệng là một đặc trưng của VHDG, trong đó, tác phẩm
VHDG được sáng tác và lưu truyền qua không qian và thời gian bằng lời ăn
tiếng nói, trong các sinh hoạt giao tiếp thường nhật mang tính nghệ thuật
của nhân dân như là một phương thức tồn tại sống còn, bất kể những thay
đổi của hoàn cảnh lịch sử-xã hội.
Truyền miệng là phương thức tồn tại (sống còn) của văn học dân gian,
bao gồm 02 bình diện: sáng tác và lưu truyền.
Có nhiều nguyên nhân phát sinh phương thức sáng tác và lưu truyền văn
học dân gian trên cửa miệng của nhân dân. Thời kì nguyên nguỷ, khi con
người chưa có chữ viết, họ đã có thể sáng tác những tác phẩm văn học dân
gian đầu tiền. Trước đây, hơn 90% dân số không có điều kiện học tập,
không biết chữ nhưng có nhiều người có thể ứng tác tác phẩm văn học dân
gian và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Do vậy, trình độ dân trí là
một trong những nguyên nhân có thể nghĩ tới khi bàn về đặc tính truyền
miệng của văn học dân gian.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tại sao khi xã hội đã phát triển ở một mức độ
cao hơn, trình độ dân trí được cải thiện, văn học dân gian chủ yếu vẫn duy
trì hình thức truyền miệng?
Như đã biết, văn học dân gian sản sinh trong môi trường lao động sản
xuất và sinh hoạt đời sống của nhân dân. Một bài hát dân ca hay một câu hò
có thể được cất lên trên ghe xuồng, trên nương rẫy hay dưới ruộng đồng.
Một câu chuyện cười có thể kể giữa rừng sâu hoặc bên dưới bóng râm cổ
thụ trong những giờ giải lao công việc. Với những môi trường sáng tác như
thế, truyền miệng là phương thức tối ưu. Văn học dân gian tham gia vào
giao tiếp, nói năng, ứng xử hằng ngày, quen thuộc như hơi thở của nhân dân,
không câu nệ bản quyền tác giả, tác phẩm trước làm nền cho tác phẩm sau
ra đời, tiếp nối. Do vậy, truyền miệng không đơn thuần là cách thức sáng tác
và lưu truyền tiện lợi mà nó mang ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại và
phát triển của văn học dân gian. Khi nào còn nhân dân lao động, khi đó còn
văn học dân gian, khi nào còn văn học dân gian, khi đó phương thức truyền
miệng vẫn được duy trì.
Đời sống đích thực của tác phẩm văn học dân gian chính là môi trường
giao tiếp xã hội của nhân dân. Chính trong môi trường diễn xướng, tác phẩm
văn học dân gian mới được phô diễn đầy đủ giá trị của nó. Văn bản cố định
hoá của tác phẩm văn học dân gian, vì thế, giống như một vật thể trưng bày, 12
một xác bướm ép trên trang giấy, trong khi các sinh hoạt đời sống của nhân
dân mới là môi trường để nó vỗ cánh khoe hết màu sắc và vẻ đẹp của nó.
Hệ quả tất yếu của đặc tính truyền miệng là việc sản sinh ra các dị bản
của cùng một đơn vị tác phẩm. Sự diễn hoá của tác phẩm văn học dân gian
qua không gian và thời gian thể hiện qua các dị bản của nó. Điều này rất
khác với tác phẩm văn hoc viết. Nếu như văn học dân gian chấp nhận sự lặp
lại thì ở văn học viết bị coi là đạo văn và việc một tác phẩm tồn tại những
văn bản sai khác một vài yếu tố nào đấy bị coi là tam sao thất bản.
* Nhiệm vụ học tập số 08:
Anh/Chị hãy cho 02 ví dụ về trường hợp sáng tác/lưu truyền bằng miệng
ở văn học viết và nêu 03 dị bản của một đơn vị tác phẩm ca dao.
….………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………… ………………
* Nhiệm vụ học tập số 09:
Bài tập tổng kết Phần 1: Khái quát văn học dân gian
Anh/Chị hãy lập một bảng đối sánh chi tiết giữa văn học dân dân và van
học viết the các tiêu chí: 1- Lực lượng sáng tác 2- Phương thức sáng tác 3- Nội dung phản ánh 4- Hình thức nghệ thuật 13
Document Outline
- I.ĐỊNH NGHĨA VÀ LƯỢC SỬ NGHIÊN CỨU VĂN HỌC DÂN GIAN
- 1.1.Định nghĩa “Văn học dân gian”
- 1.2.Lược sử nghiên cứu văn học dân gian
- II.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM
- III.CÁC ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN
- 2.1.Tính ích dụng hay chức năng sinh hoạt thực hành
- 2.2.Tính nguyên hợp
- * Nhiệm vụ học tập số 06:
- 2.3.Tính tập thể
- 2.4.Tính truyền miệng
