lOMoARcPSD| 61527594
Đến Thơ mới, trong thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ nh cá thể. Mỗi thi
Thơ mới êu biểu một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể lẫn” 1.Giải
thích :
1.1 Giải thích thuật ngữ :
Thơ mới: Thuật ngữ được Phan Khôi dùng đầu ên, để chmột lối thơ tự
do, phân biệt với Thơ ththơ cách luật , chặt chẽ về niêm luật. Sau
đó, thuật ngữ này được dùng để chỉ một phong trào thơ ca lãng mạn Việt Nam
(1932 1945). Cái tôi trữ nh: sthhiện cách nhận thức và cảm xúc đi
với thế giới con người thông qua việc tổ chức các phương ện của thơ trữ
nh, tạo ra một thế giới nh thần độc đáo, mang nh thẩm mĩ. Cái tôi trữ nh
thống nhất chứ không đồng nhất với cái tôi tác giả.
Ý nghĩa nhận định: Nhận định được tạo nên bởi hai mệnh đề quan hệ
bổ sung ý nghĩa cho nhau nhằm khẳng định: Thơ mới một cuộc cách mạng
trong lịch sử thi ca Việt Nam với đóng góp nổi bật sự xuất hiện của từng cái
tôi trữ nh thể. Mỗi thi êu biểu một gương mặt, một điệu tâm hồn riêng
cùng góp phần làm nên phong cách một trào lưu văn học.
1.2 sở hình thành nên phong trào Thơ mới và cái tôi trữ nh cá thể trong Thơ
mới
Văn học dân tộc ềm tàng một sức sống mạnh mẽ. Suốt ến trình của thơ
ca trung đại, đặc biệt là giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, nhiều
nhà thơ phá vỡ nh qui phạm, không còn sáng tác thơ ca để nói chí tỏ lòng
đề cập những khát khao đời thường bình dị, nhân bản.
Đầu thế kỉ XX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hộiViệt Nam
có nhiều biến chuyển kéo theo đó là sự chuyển biến của văn học. Một lớp công
chúng đời sống nh thần thị hiếu mới hình thành đòi hỏi một thứ văn
chương mới.
Nhân vật trung tâm của văn học bộ phận trí thức Tây học, chịu nh
ởng của văn hóa phương tây. Đó các trí thức trmun bứt phá, đạp tung
xiềng xích để khẳng định cái tôi nhân. Cái tôi nhân này một trrong những
động lực tạo nên một thời đại mới trong thi ca.
Nằm trong mạch vận động y, Thơ mới ra đời như một tất yếulich sử. Sự
thoát khỏi hệ thống thi pháp trung đại cùng với sự thc tỉnh của ý thức cá nhân
đã giải phóng sự sáng tạo của người nghệ sĩ.
1.3. Vì sao nói đến Thơ mới, thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ nh cá thể,
mỗi thi sĩ Thơ mới êu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể lẫn
Thơ ca trung đại thơ của cái ta, thơ nói chí tỏ lòng. Các nhà thơ trung
đại chưa ly con người cá nhân làm đối tượng phô bày và bộc lcảm xúc, cũng
chưa nhìn thế giới bằng con mắt của nhân mình. Toàn bộ thế giới nh thần
của thơ trung đại nằm trong vòng chữ ta, thể hiện ý thức, cảm xúc của con người
cộng đồng.
lOMoARcPSD| 61527594
Thơ mới thoát khỏi hệ thống thi pháp trung đại, tập trung thểhiện nh
cảm, cảm xúc của dòng chảy nội tâm. Đối tượng trung tâm của Thơ mới thế
giới nội cảm của con người. Cho nên, nếu thơ trung đại thơ hướng ngoại thì
thơ mới là thơ hướng nội. Đó là cái tôi nội cảm, cái tôi cá thể với muôn vàn cảm
xúc vừa tự nhiên, vừa độc đáo.
Thơ mới là thơ giải phóng nh sáng tạo của người nghệ sĩ, mỗi nhà thơ
đều nhìn thế giới bằng con mắt của cá nhân mình. Mỗi nhà thơ mới một chủ
thsáng tạo độc đáo trong nghệ thuật với việc thể hóa trong cách cảm thụ
thế giới và cách biểu hiện thế gii.
Vì vậy, thi đàn Thơ mới xuất hiện những gương mặt êu biểu mang điệu tâm hồn
không thể lẫn: Thế Lữ rộng mở, Lưu Trọng
mơ màng, Huy Thông hùng tráng, Nguyễn Bính quê mùa,
Chế Lan Viên kỳ dị…
2. Chứng minh sự thhiện của cái tôi trữ nh cá thể, với điệu tâm hồn không
thlẫn trong các bài thơ trong chương trình Ngữ Văn 11 : * Vội vàng của Xuân
Diệu :
Cái tôi diển hình cho thời đại Thơ mới đồng thời mang đậm bản sắc riêng.
Đó cái tôi ch cực, mãnh liệt. Cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy đua với
thời gian, lúc nào cũng thèm yêu, khát sống. Cái tôi ấy lúc nào cũng khao khát
tận hưởng tận hiến ngay trên thiên đường trần thế này; không chỉ giãi y
cảm xúc mà còn thhiện quan niệm, triết lý về con người, về cuc đi.
Cái tôiy nhìn cuộc sống vừa như mảnh vườn nh ái (xuân sắc, xuân nh,
quyến rũ) vừa như sa mạc liêu ( tàn phai, rơi rụng ,mất mát). Vì vậy, dòng
cảm xúc được vận động từ khát khao mãnh liệt sang niềm vui sướng ngất ny
đến lo sợ ếc nuối và vội vàng cuống quýt.
Cái tôi độc đáo cá thể hóa trong cách biểu đạt : sự kết hợp giữa mạch cm
xúc mạch luận , những sáng tạo độc đáo về hình ảnh ttân kỳ, mới lạ,
chiuh ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp, những sáng tạo độc đáo về ngôn
từ, nhịp điệu….
* Tràng giang của Huy Cận :
Cái tôi Huy Cận là cái tôi cô đơn được hình dung như một klữthứ bơ vơ
trong không gian vô cùng thời gian thủy vô chung. Đó cái tôi khao khát hòa
điệu (được đồng điệu được hòa nhập giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên và thiên nhiên tạo vật với nhau) nhưng không m thấy sự
hòa điệu. Đó ếng nói sầu tui của một cái tôi không được hòa điệu đang
vơ trong cõi người.
Cái tôi y nhìn thế giới một cõi trời đất mênh mang, trống vắng, với
không gian cùng tận, thời gian thủy chung. Đó một thế gii phi hòa
điệu trong đó thiên nhiên, con người, tạo vật rơi vào trạng thái phân li,lạc lõng,
rời rạc, không giao cảm. Vì vậy, cảm xúc bao trùm nỗi buồn mà Huy Cận gọi đó
lOMoARcPSD| 61527594
nỗi sầu vạn kỉ, nỗi buồn sầu trthế nhân. Đó nỗi sầu của cái tôi đơn
trước vũ trụ rộng lớn, trong đó còn phảng phất nỗi buồn sông núi.
Cái tôi độc đáo trong cách biểu đạt : Sử dụng nhuần nhuyễn những yếu
thơ cđiển trong một bài thơ mới, vể đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ.
* Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc T
Cái tôi Hàn Mặc Tyêu đời, ham sống mãnh liệt đầy uẩn khúc. Một
hồn thơ quằn quại yêu và đau. Đó là lời bày tỏ nh yêu đối với cuộc đời của một
tâm nh tuyệt vọng
Cái tôi ấy chia thế giới thành hai không gian đối lập: trong này (là địa ngục
bóng tối, là mất mát, khổ đau…) và ngoài kia (là trần gian tràn đầy thanh sắc, là
ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc…). Thôn Vĩ là hình ảnh thu nhỏ của ngoài kia
mà Hàn Mặc Tkhao khát hướng về bằng nh yêu tuyệt vọng. Càng tuyệt vọn,
thế gii y hiện lên càng đẹp, càng đẹp càng khiến thi nhân tuyệt vọng. Vì vậy,
cảm xúc của bài thơ vận động từ nỗi nhớ thôn Vĩ đến mặc cảm chia lìa nh
yêu tuyệt vng.
Cái tôi độc đáo trong cách biểu đạt : Hình ảnh sáng tạo, gắn với trí tưởng
ợng phong phú, vừa thực vừa ảo, chu ảnh hưởng của duy tượng trưng siêu
thực, ngôn ngữ thơ cực t….
3. Đánh giá
Đây một nhận định chính xác, mang nh khoa học. Sxuất hiện của cái tôi
trnh thể với gương mặt, điệu tâm hồn riêng, với sự cách tân trên phương
diện nội dung và nghệ thuật đã tạo nên bước ngoặt mới trong ến trình phát
triển của thơ ca dân tộc.
Mang nh thần chung của thời đại Thơ mới nhưng mỗi tác giả, mỗi bài thơ
mới có nét riêng độc đáo không lặp lại. Cái riêng kết hợp với cái chung tạo nên
sự đa dạng, phong phú, độc đáo của Phong trào Thơ mới. Thơ Mới làm nên
thành tựu hết sức đại nhưng không quay lưng đoạn tuyệt kết nh
bám rễ sâu sắc với thơ ca dân tộc
Sxuất hiện của cái tôi với ý thức cá nhân mạnh mẽ mang nh cách mạng đã
đem lại thành tựu rực rỡ cho phong trào Thơ mới. Tuy nhiên, cái tôi Thơ mi
mang bi kịch về nỗi cô đơn, sự bế tắc nên càng đi sâu càng lạnh…
Từ đó đặt ra bài học cho người sáng tạo và ếp nhận : bản chất của lao động
nghệ thuật sáng tạo, người nghẹ phải tạo được dấu ấn riêng trong tác
phẩm của mình. Người đọc khi đến với tác phẩm biết khám phá, trân trọng
những sáng to y, lấy hồn ta để hiểu hồn người….
Sự khẳng định mạnh mẽ cái “Tôi” trong Thơ mới.
Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu một nền
văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá m đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện
trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi
ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính
lOMoARcPSD| 61527594
sự ếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó một sự lựa
chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.
Ý thức vcái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện.
Cái Tôi với cách một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ
ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người nh, con người bản
năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra
“trình làng(chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ êu biểu của Phong
trào thơ mới lên ếng trước:
Tôi là con chim đến từ núi lạ …”,
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…
Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:
Anh nhớ ếng, anh nhớ hình, anh nhớ nh Anh nhớ
em, anh nhớ lắm em ơi!” Thoảng hoặc khi lại
Ta”:
Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.
Thơ mới thơ của cái Tôi”. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối
cùng đê khăng định bản ngã của mình mong được đóng góp vào “văn mạch
dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
Nỗi buồn cô đơn.
Trong bài “Vẽ cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới
buồn, buồn nhiều”, Cái buồn của Thơ mới không phải cái buồn ủy mị, bạc
nhược cái buồn của những người tâm huyết, đau buồn bị bế tắc
chưa m thay lòi
Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều neo đường khác nhau, đâu cũng thấy
buồn đơn. Nỗi buồn đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình
ảnh: “Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”.
(Lưu Trọng Lư )
Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ ếc dân Hời” (tức dân Chàm):
“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chmột tôi”
Nghe một ếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao
xác gà trưa gáy não nùngcòn Xuân Diệu lại thấy Tiếng gà gáy buồn nghe như
máu ứa”. Vđiều y, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải người buồn nhiều,
đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
lOMoARcPSD| 61527594
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi
bun y còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời
với chính mình.
Cảm hứng về thiên nhiên và nh yêu.
Ngay từ khi ra đời, Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới
trước cuộc đời trước thiên nhiên, trụ”. Cảm hứng về thiên nhiên và nh
yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vđẹp tươi mới, đầy hương sắc,
âm thanh, tràn trề sự sống.
Đây cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính: “Bữa y
mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lp rụng rơi đầy.
Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:
“Buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao cu
gáy và bướm vàng nữa chứ(Huy Cận).
Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:
“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành”
Tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.
Những cung bậc của nh yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông
hoàng của thơ nh” Xuân Diệu bc bạch một cách hồn nhiên:
Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá Chỉ biết yêu
thôi chẳng biết gì”.
Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi nh yêu như một tôn giáo” nhưng là một
“thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ . Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan
Viên cảm nhận thân phận bàng nỗi cô đơn sầu não:
“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho ràng “Cái đẹp bao
gicũng buồn” {Kinh cầu tự) cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn đơn
“sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết về điều này một cách sâu
sắc:
“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.
Một số đặc sắc về nghệ thuật trong thơ mới.
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong ến trình hiện đại hóa nền văn
học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu
sắc.
Vthế loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần
trvề với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn,
thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình
Liên), Em đi chùa ơng (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính,
lOMoARcPSD| 61527594
Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v… Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú,
ít sử dụng một vần ộc vận) dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường
thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên ếp, vần gián cách hoặc không theo
một trật tự nhất định:
Tiếng địch thổi đâu đây
Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
y bay… gió quyến, mây bay
Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may
(Thế Lữ)
Sự kết hợp giữa vần thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng.
Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
(Xn Diệu) hay
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng
rơi!
Thu mênh mông
(Bích Khê)
Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh
hot:
Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!”
(Xn Diệu)
một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rm
rộ. Thoát khỏi nh quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cữ\
Thơ mới mang đến cho người đọc một thế gii nghệ thuật giàu giá trị tạo hình
gợi cảm sâu săc:
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trchiu”
(Xn Diệu) hay:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vng
Đò biếng lười nằm mc dưới sông trôi”
(Anh Thơ)
Sự phong phú về thloại, vần và nhạc điệu cùng với nh hình tượng, cảm xúc
của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt nh tế, bằng cảm giác, bàng
màu sắc hội họa của thơ mới. Dây ỉà bức tranh Mừa xuân chín’’’ được Hàn Mặc
T cảm nhận qua màu sắc và âm thanh: ‘Trong làn nắng ửng, khói mơ tan
lOMoARcPSD| 61527594
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang.
Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp trong Thơ mới.
Thơ mới nh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gp ggiữa thơ Đường và Thơ
mới chủ yếu thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ ếp thu và gilại những mặt
ch cực, ến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch
Dị,… Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ tcủa Thôi Hiệu đbày tỏ lòng
yêu nước:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ ếng Việt càng phong phú giàu
thêm, nh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới
sáng tạo về thi hứng, bút pháp cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong
những nhà thơ đầu ên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy
Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc T,…
Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng của
thơ ca lãng mạn Pháp đại biểu Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng
ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt.
Ta có thể m thấy điều này ở các bài Nguyệt cầm, Đâv mừa thu tới (Xuân Diệu),
Đi giữa đường thơm (Huy Cận), Màu thời gian (Đoàn Phú T).
Một số bài thơ trong tập Tinh huyết (Bích Khê), Thơ điên (Hàn Mặc Tử), Thơ say
(Vũ Hoàng Chương) chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp
(các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp của Budelaire …).
Trong bài Thơ mới, cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về h
thống ngôn từ Thơ mới Thơ mới bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời
vợi, bản giao hưởng cổ hiện đại”. Đó sgiao thoa ếng Việt với thơ
Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX.
Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới
không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động ảnh hưởng từ nhiều phía đi
với Thơ mới một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp
Đông Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc sức hấp dẫn riêng của Thơ
mới.
Sau 75 năm, ktừ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã chỗ đứng
vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trtốt đẹp
của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và sc
sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.
Đề bài : C ý kiến cho rằng: Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời
đại mới. Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm điều m nên
dấu ấn của “thời đại mới” qua một sbài tmới đã học trong chương trình.
lOMoARcPSD| 61527594
Bài làm:
người vẫn thường nói: “Xã hội nào thì văn học đó, thời đại xã hội luôn yếu
tố ảnh hưởng sâu sắc đến văn học, những đặc điểm của thời đại đó sẽ là những
chủ đề, nội dung để các nhà văn, nhà thơ đề cập đến trong tác phẩm của mình.
Trong suốt cả một chặng đường dài của nền văn học nước nhà, đã có những đổi
thay, những sự cách tân làm nên những dấu ấn văn học. Nhưng có lẽ, một thời
đại văn học tạo nên Văn học Việt Nam đó thời của phong trào thơ mới từ
đầu thế kỉ XX đến 1945, đúng như ý kiến: Với thơ Mới, thi ca Việt Nam bước
vào một thời đại mới”.
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lăm le xâm lược nước ta, chúng biến lãnh thổ
ớc ta thành thuộc địa của chúng. Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam
đã được một làn gió văn hóa mới tràn vào. Một dân tộc có một nền văn hóa n
định suốt mấy nghìn năm đã bị xáo trn bi lối sống của con người phương Tây.
những nơi thành thị, con người bắt đầu mặc những bộ quần áo Tây, đội
Tây, đi xe Tây, nhà theo phong cách Tây, kcả lời ăn ếng i, hành vi x
cũng theo phong cách Tây. Họ chạy theo lối sống mới, bắt đầu có những suy nghĩ
khác mà đa phần là sự băng hoại đạo đức và nhân phẩm với lối sống của xã hội
lai căng. Ở những vùng nông thôn nghèo, người dân lao động phải chịu những
áp lực, bóc lột trực ếp và gián ếp đến từ giai cấp thống trị nửa thực dân nửa
phong kiến. Trước cảnh một xã hội hỗn loạn như vy, các nhà văn đã sáng tác về
những hiện thực cuộc sống bấy giờ. Còn các thi nhân, ai cũng mang trong mình
những tâm sự, những nỗi buồn, họ muốn thoát khỏi thực tại nghiệt ngã, muốn
quên đi những nỗi đau trong cảnh đất nước bị xâm lăng vậy những nhà thơ
trong giai đoạn này họ đã viết về những cảm xúc riêng của mình bằng bút
pháp lãng mạn bay bổng nhất.
Làn gió văn hóa Tây học đã mang đến nhiều sự đổi mới cho nền văn học Việt
Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã viết: “Tình chúng ta đã đổi mới
thơ chúng ta cũng vậy. Chưa bao gitrong một khoảng thời gian ngắn ngủi
(năm, sáu mươi năm) nền thơ ca Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt
êu biểu và xuất sắc như thế. Họ đã cùng nhau tạo nên “phong trào Thơ Mới”
khác với “thơ với những bài thơ viết theo thể loại độc đáo, những cảm xúc
suy tư, thầm kín khác nhau, nội dung, tư tưởng khác xa so với thơ cũ và lối quy
phạm, ước lệ “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc mọt hồn thơ
rộng mở như Thế Lữ, màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kì dị như Chế Lan Viên…, và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”.
Phong trào Thơ Mới đã trở thành một dấu ấn, một bước ngoặt trong lịch sử thơ
ca dân tộc, với nhiều tài năng nổi tri, nhiều tác phẩm đắt giá. Nói rằng Với Thơ
Mới, thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới” quả không sai bởi khi phong trào
thơ mới nổi lên, các thi nhân mới dịp giải bày lòng mình thể hiện tài năng,
lOMoARcPSD| 61527594
phong cách cá nhân theo một xu hướng mới mà trước đó các nhà thơ Trung đại
không có được.
Thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới”, một thời đại với sự thay đổi sâu sắc v
nội dung về tưởng trong mỗi thi phẩm nếu trong thơ xưa, thi nhân chỉ sáng
tác về qhương đất nước, về hoàn cảnh lịch svới vua, với tướng, tác phẩm
nào cũng phải thể hiện rõ ràng đạo nghĩa vua tôi, yêu nước, thvua hoặc theo
lối tưởng cũ tức thơ tả cảnh, nếu viết về người phải ngư, ều, canh, mục;
viết về con phải long, ly, quy, phụng; nam nhi phải mạnh mẽ, đầu đội trời, chân
đạp đất, hùng dũng, dẻo dai; còn nữ nhi tphải công, dung, ngôn, hạnh, thủy
chung son sắt. Tất cả như đặt người thi nhân vào một khuôn khổ. Ngoài ra, thơ
cũ còn theo một niêm luật của nh phi ngã, miêu tả trong thơ là miêu tả ước lệ
lấy thiên nhiên chuẩn mực cho vẻ đẹp. Nhưng đối với Thơ Mới, những
ởng đó đã dược phá bỏ thi nhân viết về nỗi niềm con người trước dòng chảy
của thời gian diễn biến của hội. Họ dành ngôn tbay bổng để viết cho
những tâm sự khó giãi y của bản thân mình trước hoàn cảnh trái ngang của
cuc đi:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân nh
Ai nh ai có đậm đà?”
(“Đây thôn Vĩ Dạ– Hàn Mặc Tử)
Không phải là nỗi lòng bị gò bó theo lối “Tả cảnh ngụ nh”, nhà thơ Hàn Mạc T
đã trực ếp thể hiện sự băn khoăn tuyệt vọng của mình bằng một câu hỏi kết
thúc bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ”. Đó là những trạng thái mơ hồ, hoài nghi của một
con người sắp giã tcuộc đời khi trong lòng còn nhiều vấn vương với cuộc sống.
Một sự ảo Áo em trắng quá nhìn không ra”, thi nhân khiến người đọc phải
băn khoăn, suy nghĩ về hình ảnh được đề cập đến trong bài thơ. Nhờ đó mà bài
thơ tạo đưc ấn tượng trong lòng độc giả.
Thơ Mới đã phá bỏ mọi nh quy phạm, ước lệ trong thơ cũ. Đại thi hào Nguyễn
Du đã miêu tả vẻ đẹp con người rằng:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp của con người được đo bằng vẻ đẹp chuẩn mực thiên nhiên. Nhưng với
Xuân Diệu, thiên nhiên không còn chuẩn mực nữa, con người mới chuẩn
mực của cái đẹp. Trong bài thơ “Vi Vàng, ông viết:
“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
lOMoARcPSD| 61527594
Người đọc cảm nhận được sự tràn đầy sức sống ngọt ngào của mùa xuân,
nồng nàn, ấm áp nhưng đôi môi gần gũi nhau cảu cặp nh nhân.
Với thơ xưa mùa thu đến qua mặt nước trong, với nền trời cao trong xanh:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Nhưng với phong cách “rất Tâycủa mình, Xuân Diệu miêu tả mùa thu không
phải mặt nước, nền trời, mà đó là:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ giữa màu xanh”
(“Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu)
“Hơn mộttức nhiều loài hoa, nhà không chỉ loài hoa nào, chỉ biết rất
nhiều hoa. Cũng không phải một màu sắc nhất định như thơ cổlà một màu
được pha giữa hai màu đỏ và xanh. Ngoài ra với cách sdụng từ “giữa” ta thấy
được tài năng sử dụng từ của Xuân Diệu, sắc đỏ giữa màu xanh” ý muốn nói
màu đỏ đang lấn át dần, mùa thu đã đến mang theo sự tàn úa cho cảnh vật. Ấy
mới thấy được i năng những thay đổi trong tưởng nội dung của các
thi nhân trong phong trào thơ mới.
Gọi là Thơ Mớinên không những có sự thay đổi nội dung mà còn thay đổi cả
về hình thức nghthuật. Nếu như thơ xưa bị trong một lối thơ Đường luật
với niêm luật khắt khe thì lúc bấy giờ, các thi nhân Việt Nam đã sáng tạo ra những
ththơ độc đáo nngũ ngôn, thơ bảy chữ, tám chữ, thơ tự do,…hoặc những
lối thơ viết đầy sáng tạo:
“Lá bàng Như lá vàng Rụng.
Ô! Đìu hiu Cảnh chiều Đông!”
(“Mùa Đông” – Nam Trân)
Ththơ độc đáo ấy xuất phát từ cảm xúc chênh vênh, hụt hẫng, trơ trọi, trống
vắng của tác giả nên những dòng thơ có vẻ rất hẫng. Dòng cảm xúc của thi nhân
được thể hiện một phần qua thể thơ, câu thơ càng dài, càng nhiều tức cảm xúc
của thi nhân rất dạt dào. Như trong tác phẩm “Vội Vàng, Xuân Diệu đã thể hin
niềm khát khao giao cảm với cuộc đời của mình qua những câu thơ dài:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với nh yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
(“Vội vàng” – Xuân Diệu)
lOMoARcPSD| 61527594
Nhịp thơ dồn dập những ngôn từ nối ếp nhau tạo nên cảm giác vội vàng, gấp
gáp. Đó cũng chính trạng thái của thi nhân khi nhận ra shữu hạn của một
kiếp người trong vũ trụ bao la. Vì thế mà thi nhân muốn “riết” mây và gió, muốn
saycánh bướm với nh yêu, muốn “thâu” trong một cái hôn nhiều… Các từ
say, “riết, “thâu” đều là những động từ mạnh, thể hiện sự thèm khát sự sống
đến cháy bỏng, cuồng nhiệt. Ở đây ta còn thấy được nghệ thuật sử dụng từ ng
hình ảnh của Xuân Diệu. Đó những từ ngchỉ hành động bạo dạn những
hình ảnh thể hiện sự tươi mới, đẹp đẽ, rực rỡ nhất của cuộc sống. Thi như một
con ong say sưa thưởng thức mật ngọt và hương thơm của hoa trái cho đến lúc
chếnh choáng, “no nê”, “đã đầy. Điệp từ “muốn” được nhắc đi nhắc lại ba lần
giúp người đọc cảm nhận được niềm mong muốn mãnh liệt của thi nhân với
cuc sống tươi đẹp.
Nếu thơ văn trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng, thường
viết vnhng hình ảnh tùng, cúc, trúc, mai hay trăng, hoa, tuyết, nguyệt thì trong
thơ mới các thi nhân đã sdụng nhiều biện pháp nghệ thuật mới với những hình
ảnh khác lạ. Ta thường nhớ đến những vần thơ trong bài “Hai lòng” của Nguyn
Bính:
“Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”
Lòng người con gái nquán bán hàng, là nơi nhiều người qua lại, chỉ ghé chốc
lát rồi đi. Chẳng ai mãi mãi, duy nhất. Còn lòng của người con trai lại được
ví như “mảng bè trôi, “Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”, trước sau như một,
luôn thủy chung với nh yêu của mình. Vi cách so sánh nhiều hình ảnh đó,
người con trai như muốn trách móc người con gái không thủy chung, sống “hai
lòng.
Phong trào thơ mới xuất hiện khi hội Việt Nam đang nửa Tây, nửa ta, nhố
nhăng, lộn xộn. Vì vậy, mỗi nhà thơ sẽ có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng v
cuộc sống và con người. Chính lẽ đó mà Cái Tôi với ý nghĩa đích thực đã xuất
hiện. Người đọc không thể nào quên cái tôi cuồng nhiệt, đắm say, khát khao s
giao hòa, giao cảm với cuộc đời của Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu luôn mang đến
cho người đọc một ngọn lửa sống mạnh mẽ, mãnh liệt:
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Khác với sự vội vã, cuồng nhiệt của Xuân Diệu, Huy Cận lại mang trong mình cái
tôi u sầu “su vn cổ”, “buồn thiên thu”, vần thơ nào của ông cũng u sầu:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
lOMoARcPSD| 61527594
Lặng lẽ bờ xanh ếp bãi vàng”
Đoạn thơ không hề một chữ buồn nhưng người đọc vẫn cảm nhận được
một nỗi buồn rất sâu, rất ghê gớm. Nỗi buồn đó bủa vây thi khiến cho Huy Cận
nhìn đâu cũng thấy cảnh chia lìa, tan tác. Đọc thơ Huy Cận ta luôn cảm giác
“buồn lây, chính điều đó đã tạo nên sthành công cho các tác phẩm của Huy
Cận nhờ cái tôi độc đáo của mình.
Ta không thể thừa nhận rằng, “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời
đại mới.Thi đại đó không những mới còn hoàn toàn khác so với thời đại
thơ do ảnh hưởng của thời đại, của hoàn cảnh hội và văn hóa mới du nhập
từ phương Tây. Mặc thời đại xã hội đó đã lùi xa nhưng đã mang đến cho
văn học Việt Nam một diện mạo mới với nhiều gương mặt mới những tác
phẩm giá trị. Thơ mới đã thành công nhờ vào sự đổi mới về tưởng, nội
dung sáng tác, hình thức nghệ thuật cái tôi ở mỗi nhà thơ.
phát triển từ thơ ca trung đại nhưng thơ mới đã tạo nên một dấu ấn quan
trọng trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngày nay, chúng ta vẫn đọc say sưa và yêu quý
những tác phẩm của phong trào thơ mới. Đó chính là sự thành công lớn nhất đối
với một thời đại thi ca.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61527594
Đến Thơ mới, trong thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ tình cá thể. Mỗi thi
sĩ Thơ mới tiêu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể lẫn”
1.Giải thích :
1.1 Giải thích thuật ngữ :
Thơ mới: Thuật ngữ được Phan Khôi dùng đầu tiên, để chỉ một lối thơ tự
do, phân biệt với Thơ cũ – thứ thơ cách luật gò bó, chặt chẽ về niêm luật. Sau
đó, thuật ngữ này được dùng để chỉ một phong trào thơ ca lãng mạn Việt Nam
(1932 – 1945). – Cái tôi trữ tình: là sự thể hiện cách nhận thức và cảm xúc đối
với thế giới và con người thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ
tình, tạo ra một thế giới tinh thần độc đáo, mang tính thẩm mĩ. Cái tôi trữ tình
thống nhất chứ không đồng nhất với cái tôi tác giả. –
Ý nghĩa nhận định: Nhận định được tạo nên bởi hai mệnh đề có quan hệ
bổ sung ý nghĩa cho nhau nhằm khẳng định: Thơ mới là một cuộc cách mạng
trong lịch sử thi ca Việt Nam với đóng góp nổi bật là sự xuất hiện của từng cái
tôi trữ tình cá thể. Mỗi thi sĩ tiêu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn riêng
cùng góp phần làm nên phong cách một trào lưu văn học.
1.2 Cơ sở hình thành nên phong trào Thơ mới và cái tôi trữ tình cá thể trong Thơ mới
Văn học dân tộc tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ. Suốt tiến trình của thơ
ca trung đại, đặc biệt là giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX, nhiều
nhà thơ phá vỡ tính qui phạm, không còn sáng tác thơ ca để nói chí tỏ lòng mà
đề cập những khát khao đời thường bình dị, nhân bản. –
Đầu thế kỉ XX, cùng với sự xâm lược của thực dân Pháp, xã hộiViệt Nam
có nhiều biến chuyển kéo theo đó là sự chuyển biến của văn học. Một lớp công
chúng có đời sống tinh thần và thị hiếu mới hình thành đòi hỏi một thứ văn chương mới. –
Nhân vật trung tâm của văn học là bộ phận trí thức Tây học, chịu ảnh
hưởng của văn hóa phương tây. Đó là các trí thức trẻ muốn bứt phá, đạp tung
xiềng xích để khẳng định cái tôi cá nhân. Cái tôi cá nhân này là một trrong những
động lực tạo nên một thời đại mới trong thi ca. –
Nằm trong mạch vận động ấy, Thơ mới ra đời như một tất yếulich sử. Sự
thoát khỏi hệ thống thi pháp trung đại cùng với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân
đã giải phóng sự sáng tạo của người nghệ sĩ.
1.3. Vì sao nói đến Thơ mới, thơ ca Việt Nam mới có từng cái tôi trữ tình cá thể,
mỗi thi sĩ Thơ mới tiêu biểu là một gương mặt, một điệu tâm hồn không thể lẫn
Thơ ca trung đại là thơ của cái ta, thơ nói chí tỏ lòng. Các nhà thơ trung
đại chưa lấy con người cá nhân làm đối tượng phô bày và bộc lộ cảm xúc, cũng
chưa nhìn thế giới bằng con mắt của cá nhân mình. Toàn bộ thế giới tinh thần
của thơ trung đại nằm trong vòng chữ ta, thể hiện ý thức, cảm xúc của con người cộng đồng. lOMoAR cPSD| 61527594 –
Thơ mới thoát khỏi hệ thống thi pháp trung đại, tập trung thểhiện tình
cảm, cảm xúc của dòng chảy nội tâm. Đối tượng trung tâm của Thơ mới là thế
giới nội cảm của con người. Cho nên, nếu thơ trung đại là thơ hướng ngoại thì
thơ mới là thơ hướng nội. Đó là cái tôi nội cảm, cái tôi cá thể với muôn vàn cảm
xúc vừa tự nhiên, vừa độc đáo. –
Thơ mới là thơ giải phóng cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ, mỗi nhà thơ
đều nhìn thế giới bằng con mắt của cá nhân mình. Mỗi nhà thơ mới là một chủ
thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật với việc cá thể hóa trong cách cảm thụ
thế giới và cách biểu hiện thế giới.
Vì vậy, thi đàn Thơ mới xuất hiện những gương mặt tiêu biểu mang điệu tâm hồn
không thể lẫn: Thế Lữ rộng mở, Lưu Trọng
mơ màng, Huy Thông hùng tráng, Nguyễn Bính quê mùa,
Chế Lan Viên kỳ dị…
2. Chứng minh sự thể hiện của cái tôi trữ tình cá thể, với điệu tâm hồn không
thể lẫn trong các bài thơ trong chương trình Ngữ Văn 11 : * Vội vàng của Xuân Diệu :
Cái tôi diển hình cho thời đại Thơ mới đồng thời mang đậm bản sắc riêng.
Đó là cái tôi tích cực, mãnh liệt. Cái tôi ấy bám riết lấy trần gian, chạy đua với
thời gian, lúc nào cũng thèm yêu, khát sống. Cái tôi ấy lúc nào cũng khao khát
tận hưởng và tận hiến ngay trên thiên đường trần thế này; không chỉ giãi bày
cảm xúc mà còn thể hiện quan niệm, triết lý về con người, về cuộc đời. –
Cái tôi ấy nhìn cuộc sống vừa như mảnh vườn tình ái (xuân sắc, xuân tình,
quyến rũ) vừa như sa mạc cô liêu ( tàn phai, rơi rụng ,mất mát). Vì vậy, dòng
cảm xúc được vận động từ khát khao mãnh liệt sang niềm vui sướng ngất ngây
đến lo sợ tiếc nuối và vội vàng cuống quýt. –
Cái tôi độc đáo cá thể hóa trong cách biểu đạt : sự kết hợp giữa mạch cảm
xúc và mạch luận lý, những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ tân kỳ, mới lạ,
chiuh ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn Pháp, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ, nhịp điệu….
* Tràng giang của Huy Cận : –
Cái tôi Huy Cận là cái tôi cô đơn được hình dung như một kẻ lữthứ bơ vơ
trong không gian vô cùng thời gian vô thủy vô chung. Đó là cái tôi khao khát hòa
điệu
(được đồng điệu và được hòa nhập giữa con người với con người, con
người với thiên nhiên và thiên nhiên tạo vật với nhau) nhưng không tìm thấy sự
hòa điệu. Đó là tiếng nói sầu tui của một cái tôi không được hòa điệu đang bơ vơ trong cõi người. –
Cái tôi ấy nhìn thế giới là một cõi trời đất mênh mang, trống vắng, với
không gian vô cùng vô tận, thời gian vô thủy vô chung. Đó là một thế giới phi hòa
điệu
trong đó thiên nhiên, con người, tạo vật rơi vào trạng thái phân li,lạc lõng,
rời rạc, không giao cảm. Vì vậy, cảm xúc bao trùm là nỗi buồn mà Huy Cận gọi đó lOMoAR cPSD| 61527594
là nỗi sầu vạn kỉ, nỗi buồn sầu vũ trụ và thế nhân. Đó là nỗi sầu của cái tôi cô đơn
trước vũ trụ rộng lớn, trong đó còn phảng phất nỗi buồn sông núi. –
Cái tôi độc đáo trong cách biểu đạt : Sử dụng nhuần nhuyễn những yếu
thơ cổ điển trong một bài thơ mới, vể đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại của bài thơ.
* Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
Cái tôi Hàn Mặc Tử yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn khúc. Một
hồn thơ quằn quại yêu và đau. Đó là lời bày tỏ tình yêu đối với cuộc đời của một tâm tình tuyệt vọng –
Cái tôi ấy chia thế giới thành hai không gian đối lập: trong này (là địa ngục
bóng tối, là mất mát, khổ đau…) và ngoài kia (là trần gian tràn đầy thanh sắc, là
ánh sáng, là niềm vui, là hạnh phúc…). Thôn Vĩ là hình ảnh thu nhỏ của ngoài kia
mà Hàn Mặc Tử khao khát hướng về bằng tình yêu tuyệt vọng. Càng tuyệt vọn,
thế giới ấy hiện lên càng đẹp, càng đẹp càng khiến thi nhân tuyệt vọng. Vì vậy,
cảm xúc của bài thơ vận động từ nỗi nhớ thôn Vĩ đến mặc cảm chia lìa và tình yêu tuyệt vọng. –
Cái tôi độc đáo trong cách biểu đạt : Hình ảnh sáng tạo, gắn với trí tưởng
tượng phong phú, vừa thực vừa ảo, chịu ảnh hưởng của tư duy tượng trưng siêu
thực, ngôn ngữ thơ cực tả…. 3. Đánh giá
Đây là một nhận định chính xác, mang tính khoa học. Sự xuất hiện của cái tôi
trữ tình cá thể với gương mặt, điệu tâm hồn riêng, với sự cách tân trên phương
diện nội dung và nghệ thuật đã tạo nên bước ngoặt mới trong tiến trình phát
triển của thơ ca dân tộc.
Mang tinh thần chung của thời đại Thơ mới nhưng mỗi tác giả, mỗi bài thơ
mới có nét riêng độc đáo không lặp lại. Cái riêng kết hợp với cái chung tạo nên
sự đa dạng, phong phú, độc đáo của Phong trào Thơ mới. Thơ Mới làm nên
thành tựu hết sức vĩ đại nhưng không quay lưng đoạn tuyệt mà kết tinh và
bám rễ sâu sắc với thơ ca dân tộc
Sự xuất hiện của cái tôi với ý thức cá nhân mạnh mẽ mang tính cách mạng đã
đem lại thành tựu rực rỡ cho phong trào Thơ mới. Tuy nhiên, cái tôi Thơ mới
mang bi kịch về nỗi cô đơn, sự bế tắc nên càng đi sâu càng lạnh…
Từ đó đặt ra bài học cho người sáng tạo và tiếp nhận : bản chất của lao động
nghệ thuật là sáng tạo, người nghẹ sĩ phải tạo được dấu ấn riêng trong tác
phẩm của mình. Người đọc khi đến với tác phẩm biết khám phá, trân trọng
những sáng tạo ấy, lấy hồn ta để hiểu hồn người….
Sự khẳng định mạnh mẽ cái “Tôi” trong Thơ mới.
Nền văn học trung đại trong khuôn khổ chế độ phong kiến chủ yếu là một nền
văn học phi ngã. Sự cựa quậy, bứt phá tìm đến bản ngã đã ít nhiều xuất hiện
trong thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,… Đến Phong trào thơ mới, cái Tôi
ra đời đòi được giải phóng cá nhân, thoát khỏi luân lí lễ giáo phong kiến chính là lOMoAR cPSD| 61527594
sự tiếp nối và đề cao cái bản ngã đã được khẳng định trước đó. Đó là một sự lựa
chọn khuynh hướng thẩm mỹ và tư duy nghệ thuật mới của các nhà thơ mới.
Ý thức về cái Tôi đã đem đến một sự đa dạng phong phú trong cách biểu hiện.
Cái Tôi với tư cách là một bản thể, một đối tượng nhận thức và phản ánh của thơ
ca đã xuất hiện như một tất yếu văn học. Đó là con người cá tính, con người bản
năng chứ không phải con người ý thức nghĩa vụ, giờ đây nó đàng hoàng bước ra
“trình làng” (chữ dùng của Phan Khôi). Xuân Diệu, nhà thơ tiêu biểu của Phong
trào thơ mới lên tiếng trước:
“Tôi là con chim đến từ núi lạ …”,
“Tôi là con nai bị chiều đánh lưới”…
Có khi đại từ nhân xưng “tôi” chuyển thành “anh”:
“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh Anh nhớ
em, anh nhớ lắm em ơi!” Thoảng hoặc có khi lại là “Ta”:
“Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta”.
“Thơ mới là thơ của cái Tôi”. Thơ mới đề cao cái Tôi như một sự cố gắng cuối
cùng đê khăng định bản ngã của mình và mong được đóng góp vào “văn mạch
dân tộc”, mở đường cho sự phát triển của thi ca Việt Nam hiện đại.
Nỗi buồn cô đơn.
Trong bài “Vẽ cái buồn trong Thơ mới”, Hoài Chân cho rằng “Đúng là Thơ mới
buồn, buồn nhiều”, Cái buồn của Thơ mới không phải là cái buồn ủy mị, bạc
nhược mà là cái buồn của những người có tâm huyết, đau buồn vì bị bế tắc chưa tìm thay lòi
Cái Tôi trong Thơ mới trốn vào nhiều neo đường khác nhau, ở đâu cũng thấy
buồn và cô đơn. Nỗi buồn cô đơn tràn ngập trong cảm thức về Tiếng thu với hình
ảnh: “Con nai vàng ngơ ngác Đạp trên lá vàng khô”. (Lưu Trọng Lư )
Với Chế Lan Viên đó là “Nỗi buồn thương nhớ tiếc dân Hời” (tức dân Chàm):
“Đường về thu trước xa xăm lắm
Mà kẻ đi về chỉ một tôi”
Nghe một tiếng gà gáy bên sông, Lưu Trọng Lư cảm nhận được nỗi buồn “Xao
xác gà trưa gáy não nùng” còn Xuân Diệu lại thấy “Tiếng gà gáy buồn nghe như
máu ứa”. Về điều này, Hoài Chân cho rằng “Xuân Diệu phải là người buồn nhiều,
đau buồn nhiều mới viết được những câu thơ nhức xương như: “Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tối Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”. lOMoAR cPSD| 61527594
Nỗi buồn cô đơn là cảm hứng của chủ nghĩa lãng mạn. Với các nhà thơ mới, nỗi
buồn ấy còn là cách giải thoát tâm hồn, là niềm mong ước được trải lòng với đời và với chính mình.
Cảm hứng về thiên nhiên và tình yêu.
Ngay từ khi ra đời, “Thơ mới đã đổi mới cảm xúc, đã tạo ra một cảm xúc mới
trước cuộc đời và trước thiên nhiên, vũ trụ”. Cảm hứng về thiên nhiên và tình
yêu đã tạo nên bộ mặt riêng cho Thơ mới. Đó là vẻ đẹp tươi mới, đầy hương sắc,
âm thanh, tràn trề sự sống.
Đây là cảnh mưa xuân trong thơ Nguyễn Bính: “Bữa ấy
mưa xuân phơi phới bay Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy”.
Và đây là hình ảnh buổi trưa hè:
“Buổi trưa hè nhè nhẹ trong ca dao Có cu
gáy và bướm vàng nữa chứ” (Huy Cận).
Trong thơ Chế Lan Viên có không ít những hình ảnh như:
“Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành”
Tất cả gợi lên hình ảnh quê hương bình dị, thân thuộc với mỗi người Việt Nam.
Những cung bậc của tình yêu đã làm thăng hoa cảm xúc các nhà thơ mới. “Ông
hoàng của thơ tình” Xuân Diệu bộc bạch một cách hồn nhiên:
“Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá Chỉ biết yêu thôi chẳng biết gì”.
Chu Văn Sơn cho rằng “Xuân Diệu coi tình yêu như một tôn giáo” nhưng là một
“thứ tôn giáo lãng mạn, tôn giáo nghệ sĩ”. Khác với Xuân Diệu, nhà thơ Chế Lan
Viên cảm nhận thân phận bàng nỗi cô đơn sầu não:
“Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”.
Cảm xúc ấy không phải là một ngoại lệ. Nhà thơ Huy Cận cho ràng “Cái đẹp bao
giờ cũng buồn” {Kinh cầu tự) và cảm nhận được sự tận cùng của nỗi buồn cô đơn
“sầu chi lắm, trời ơi, chiều tận thế”. Nhà thơ triết lý về điều này một cách sâu sắc:
“Chân hết đường thì lòng cũng hết yêu”.
Một số đặc sắc về nghệ thuật trong thơ mới.
Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn
học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.
Về thế loại, ban đầu Thơ mới phá phách một cách phóng túng nhưng dần dần
trở về với các thể thơ truyền thống quen thuộc như thơ ngũ ngôn, thất ngôn,
thơ lục bát. Các bài thơ ngũ ngôn có Tiếng thu (Lưu Trọng Lư), Ông Đồ (Vũ Đình
Liên), Em đi chùa Hương (Nguyễn Nhược Pháp)… Các nhà thơ Huy Cận, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên, T.T.KH chủ yếu viết theo thể thơ thất ngôn, còn Nguyễn Bính, lOMoAR cPSD| 61527594
Thế Lữ lại dùng thể thơ lục bát v.v… Cách hiệp vần trong Thơ mới rất phong phú,
ít sử dụng một vần (độc vận) mà dùng nhiều vần như trong thơ cổ phong trường
thiên: vần ôm, vần lưng, vần chân, vần liên tiếp, vần gián cách hoặc không theo
một trật tự nhất định:
“Tiếng địch thổi đâu đây Cớ sao nghe réo rắt
Lơ lửng cao đưa tận chân trời xanh ngắt
Mây bay… gió quyến, mây bay
Tiếng vi cút như khoan như dìu dặt
Như hắt hiu cùng hơi gió heo may” (Thế Lữ)
Sự kết hợp giữa vần và thanh điệu tạo nên cho Thơ mới một nhạc điệu riêng.
Đây là những câu thơ toàn thanh bằng:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng lòng lên chơi vơi” (Xuân Diệu) hay
“Ô hay! Buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông” (Bích Khê)
Ngoài việc sử dụng âm nhạc, Thơ mới còn vận dụng cách ngắt nhịp một cách linh hoạt:
“Thu lạnh / càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn ghê như nước / lạnh / trời ơi!” (Xuân Diệu)
Ở một phương diện khác, cuộc cách tân về ngôn ngữ Thơ mới diễn ra khá rầm
rộ. Thoát khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ dày đặc của “Thơ cữ\
Thơ mới mang đến cho người đọc một thế giới nghệ thuật giàu giá trị tạo hình và gợi cảm sâu săc:
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều” (Xuân Diệu) hay:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc dưới sông trôi” (Anh Thơ)
Sự phong phú về thể loại, vần và nhạc điệu cùng với tính hình tượng, cảm xúc
của ngôn ngữ đã tạo nên một phong cách diễn đạt tinh tế, bằng cảm giác, bàng
màu sắc hội họa của thơ mới. Dây ỉà bức tranh Mừa xuân chín’’’ được Hàn Mặc
Tử cảm nhận qua màu sắc và âm thanh: ‘Trong làn nắng ửng, khói mơ tan lOMoAR cPSD| 61527594
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên dàn thiên lý. Bóng xuân sang”.
Sự ảnh hưởng của thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp trong Thơ mới.
Thơ mới ảnh hưởng thơ Đường khá đậm nét. Sự gặp gỡ giữa thơ Đường và Thơ
mới chủ yếu ở thi tài, thi đề. Các nhà thơ mới chỉ tiếp thu và giữ lại những mặt
tích cực, tiến bộ của thơ Đường trong các sáng tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư
Dị,… Trong bài Tràng giang, Huy Cận mượn tứ thơ của Thôi Hiệu để bày tỏ lòng yêu nước:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
Nếu sự ảnh hưởng thơ Đường làm cho thơ tiếng Việt càng phong phú giàu có
thêm, tinh tế hơn thì sự ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp góp phần cho Thơ mới
sáng tạo về thi hứng, bút pháp và cách diễn đạt mới lạ, độc đáo. Một trong
những nhà thơ đầu tiên chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Pháp là Thế Lữ, Huy
Thông, về sau là Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử,…
Hầu hết các nhà thơ mới chịu ảnh hưởng khá sâu sắc chủ nghĩa tượng trưng của
thơ ca lãng mạn Pháp mà đại biểu là Budelaire, Verlaine, Rimbaud. Sự ảnh hưởng
ấy diễn ra trên nhiều bình diện: từ cách gieo vần, ngắt nhịp đến cách diễn đạt.
Ta có thể tìm thấy điều này ở các bài Nguyệt cầm, Đâv mừa thu tới (Xuân Diệu),
Đi giữa đường thơm (Huy Cận), Màu thời gian (Đoàn Phú Tứ).
Một số bài thơ trong tập Tinh huyết (Bích Khê), Thơ điên (Hàn Mặc Tử), Thơ say
(Vũ Hoàng Chương) chịu ảnh hưởng sâu sắc trường phái suy đồi của thơ ca Pháp
(các bài thơ Những nguyên âm của Rimbaud, Tương hợp của Budelaire …).
Trong bài “Thơ mới, cuộc nổi loạn ngôn từ” Đỗ Đức Hiểu nêu nhận xét về hệ
thống ngôn từ Thơ mới “Thơ mới là bản hòa âm của hai nền văn hóa xa nhau vời
vợi, là bản giao hưởng cổ và hiện đại”. Đó là sự giao thoa tiếng Việt với thơ
Đường và thơ ca lãng mạn Pháp thế kỷ XIX.
Sự ảnh hưởng thơ Đường và thơ ca lãng mạn Pháp đối với Phong trào thơ mới
không tách rời nhau. Điều này cho thấy tác động và ảnh hưởng từ nhiều phía đối
với Thơ mới là một tất yếu trong quá trình hiện đại hóa thơ ca. Chính sự kết hợp
Đông – Tây nói trên đã tạo nên bản sắc dân tộc và sức hấp dẫn riêng của Thơ mới.
Sau 75 năm, kể từ khi ra đời cho đến nay, Phong trào thơ mới đã có chỗ đứng
vững chắc trong đời sống văn học dân tộc. Qua thời gian, những giá trị tốt đẹp
của Phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1945 càng được thử thách và có sức
sống lâu bền trong lòng các thế hệ người đọc.
Đề bài : Có ý kiến cho rằng: “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời
đại mới” . Anh/ chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm rõ điều làm nên
dấu ấn của “thời đại mới” qua một số bài thơ mới đã học trong chương trình.
lOMoAR cPSD| 61527594 Bài làm:
Có người vẫn thường nói: “Xã hội nào thì văn học đó”, thời đại xã hội luôn là yếu
tố ảnh hưởng sâu sắc đến văn học, những đặc điểm của thời đại đó sẽ là những
chủ đề, nội dung để các nhà văn, nhà thơ đề cập đến trong tác phẩm của mình.
Trong suốt cả một chặng đường dài của nền văn học nước nhà, đã có những đổi
thay, những sự cách tân làm nên những dấu ấn văn học. Nhưng có lẽ, một thời
đại văn học tạo nên Văn học Việt Nam đó là thời kì của phong trào thơ mới từ
đầu thế kỉ XX đến 1945, đúng như ý kiến: “Với thơ Mới, thi ca Việt Nam bước
vào một thời đại mới”.

Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp lăm le xâm lược nước ta, chúng biến lãnh thổ
nước ta thành thuộc địa của chúng. Những năm đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam
đã được một làn gió văn hóa mới tràn vào. Một dân tộc có một nền văn hóa ổn
định suốt mấy nghìn năm đã bị xáo trộn bởi lối sống của con người phương Tây.
Ở những nơi thành thị, con người bắt đầu mặc những bộ quần áo Tây, đội mũ
Tây, đi xe Tây, ở nhà theo phong cách Tây, kể cả lời ăn tiếng nói, hành vi cư xử
cũng theo phong cách Tây. Họ chạy theo lối sống mới, bắt đầu có những suy nghĩ
khác mà đa phần là sự băng hoại đạo đức và nhân phẩm với lối sống của xã hội
lai căng. Ở những vùng nông thôn nghèo, người dân lao động phải chịu những
áp lực, bóc lột trực tiếp và gián tiếp đến từ giai cấp thống trị nửa thực dân nửa
phong kiến. Trước cảnh một xã hội hỗn loạn như vậy, các nhà văn đã sáng tác về
những hiện thực cuộc sống bấy giờ. Còn các thi nhân, ai cũng mang trong mình
những tâm sự, những nỗi buồn, họ muốn thoát khỏi thực tại nghiệt ngã, muốn
quên đi những nỗi đau trong cảnh đất nước bị xâm lăng vì vậy những nhà thơ
trong giai đoạn này họ đã viết về những cảm xúc riêng tư của mình bằng bút
pháp lãng mạn bay bổng nhất.
Làn gió văn hóa Tây học đã mang đến nhiều sự đổi mới cho nền văn học Việt
Nam. Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” đã viết: “Tình chúng ta đã đổi mới
thơ chúng ta cũng vậy”. Chưa bao giờ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi
(năm, sáu mươi năm) mà nền thơ ca Việt Nam lại xuất hiện nhiều gương mặt
tiêu biểu và xuất sắc như thế. Họ đã cùng nhau tạo nên “phong trào Thơ Mới”
khác với “thơ cũ” với những bài thơ viết theo thể loại độc đáo, những cảm xúc
suy tư, thầm kín khác nhau, nội dung, tư tưởng khác xa so với thơ cũ và lối quy
phạm, ước lệ “Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lúc mọt hồn thơ
rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông,
trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn
Bính, kì dị như Chế Lan Viên…, và thiết tha, rạo rực băn khoăn như Xuân Diệu”.
Phong trào Thơ Mới đã trở thành một dấu ấn, một bước ngoặt trong lịch sử thơ
ca dân tộc, với nhiều tài năng nổi trội, nhiều tác phẩm đắt giá. Nói rằng “Với Thơ
Mới, thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới” quả không sai bởi khi phong trào
thơ mới nổi lên, các thi nhân mới có dịp giải bày lòng mình thể hiện tài năng, lOMoAR cPSD| 61527594
phong cách cá nhân theo một xu hướng mới mà trước đó các nhà thơ Trung đại không có được.
“Thi ca Việt Nam bước vào thời đại mới”, một thời đại với sự thay đổi sâu sắc về
nội dung về tư tưởng trong mỗi thi phẩm nếu trong thơ xưa, thi nhân chỉ sáng
tác về quê hương đất nước, về hoàn cảnh lịch sử với vua, với tướng, tác phẩm
nào cũng phải thể hiện rõ ràng đạo nghĩa vua tôi, yêu nước, thờ vua hoặc theo
lối tư tưởng cũ tức thơ tả cảnh, nếu viết về người phải là ngư, tiều, canh, mục;
viết về con phải là long, ly, quy, phụng; nam nhi phải mạnh mẽ, đầu đội trời, chân
đạp đất, hùng dũng, dẻo dai; còn nữ nhi thì phải công, dung, ngôn, hạnh, thủy
chung son sắt. Tất cả như đặt người thi nhân vào một khuôn khổ. Ngoài ra, thơ
cũ còn theo một niêm luật của tính phi ngã, miêu tả trong thơ là miêu tả ước lệ
lấy thiên nhiên là chuẩn mực cho vẻ đẹp. Nhưng đối với Thơ Mới, những tư
tưởng đó đã dược phá bỏ thi nhân viết về nỗi niềm con người trước dòng chảy
của thời gian và diễn biến của xã hội. Họ dành ngôn từ bay bổng để viết cho
những tâm sự khó giãi bày của bản thân mình trước hoàn cảnh trái ngang của cuộc đời:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai tình ai có đậm đà?”
(“Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử)
Không phải là nỗi lòng bị gò bó theo lối “Tả cảnh ngụ tình”, nhà thơ Hàn Mạc Tử
đã trực tiếp thể hiện sự băn khoăn tuyệt vọng của mình bằng một câu hỏi kết
thúc bài thơ “Đây Thôn Vĩ Dạ”. Đó là những trạng thái mơ hồ, hoài nghi của một
con người sắp giã từ cuộc đời khi trong lòng còn nhiều vấn vương với cuộc sống.
Một sự mơ ảo “Áo em trắng quá nhìn không ra”, thi nhân khiến người đọc phải
băn khoăn, suy nghĩ về hình ảnh được đề cập đến trong bài thơ. Nhờ đó mà bài
thơ tạo được ấn tượng trong lòng độc giả.
Thơ Mới đã phá bỏ mọi tính quy phạm, ước lệ trong thơ cũ. Đại thi hào Nguyễn
Du đã miêu tả vẻ đẹp con người rằng:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Vẻ đẹp của con người được đo bằng vẻ đẹp chuẩn mực thiên nhiên. Nhưng với
Xuân Diệu, thiên nhiên không còn là chuẩn mực nữa, con người mới là chuẩn
mực của cái đẹp. Trong bài thơ “Vội Vàng”, ông viết:
“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần” lOMoAR cPSD| 61527594
Người đọc cảm nhận được sự tràn đầy sức sống và ngọt ngào của mùa xuân,
nồng nàn, ấm áp nhưng đôi môi gần gũi nhau cảu cặp tình nhân.
Với thơ xưa mùa thu đến qua mặt nước trong, với nền trời cao trong xanh:
“Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non khơi bóng vàng”
(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)
Nhưng với phong cách “rất Tây” của mình, Xuân Diệu miêu tả mùa thu không
phải mặt nước, nền trời, mà đó là:
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ giữa màu xanh”
(“Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu)
“Hơn một” tức là nhiều loài hoa, nhà không chỉ rõ loài hoa nào, chỉ biết là rất
nhiều hoa. Cũng không phải một màu sắc nhất định như thơ cổ mà là một màu
được pha giữa hai màu đỏ và xanh. Ngoài ra với cách sử dụng từ “giữa” ta thấy
được tài năng sử dụng từ của Xuân Diệu, “sắc đỏ giữa màu xanh” ý muốn nói
màu đỏ đang lấn át dần, mùa thu đã đến mang theo sự tàn úa cho cảnh vật. Ấy
mới thấy được tài năng và những thay đổi trong tư tưởng và nội dung của các
thi nhân trong phong trào thơ mới.
Gọi là “Thơ Mới” nên không những có sự thay đổi ở nội dung mà còn thay đổi cả
về hình thức nghệ thuật. Nếu như thơ xưa bị gò bó trong một lối thơ Đường luật
với niêm luật khắt khe thì lúc bấy giờ, các thi nhân Việt Nam đã sáng tạo ra những
thể thơ độc đáo như ngũ ngôn, thơ bảy chữ, tám chữ, thơ tự do,…hoặc có những
lối thơ viết đầy sáng tạo:
“Lá bàng Như lá vàng Rụng.
Ô! Đìu hiu Cảnh chiều Đông!”
(“Mùa Đông” – Nam Trân)
Thể thơ độc đáo ấy xuất phát từ cảm xúc chênh vênh, hụt hẫng, trơ trọi, trống
vắng của tác giả nên những dòng thơ có vẻ rất hẫng. Dòng cảm xúc của thi nhân
được thể hiện một phần qua thể thơ, câu thơ càng dài, càng nhiều tức cảm xúc
của thi nhân rất dạt dào. Như trong tác phẩm “Vội Vàng”, Xuân Diệu đã thể hiện
niềm khát khao giao cảm với cuộc đời của mình qua những câu thơ dài:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
(“Vội vàng” – Xuân Diệu) lOMoAR cPSD| 61527594
Nhịp thơ dồn dập – những ngôn từ nối tiếp nhau tạo nên cảm giác vội vàng, gấp
gáp. Đó cũng chính là trạng thái của thi nhân khi nhận ra sự hữu hạn của một
kiếp người trong vũ trụ bao la. Vì thế mà thi nhân muốn “riết” mây và gió, muốn
“say” cánh bướm với tình yêu, muốn “thâu” trong một cái hôn nhiều… Các từ
“say”, “riết”, “thâu” đều là những động từ mạnh, thể hiện sự thèm khát sự sống
đến cháy bỏng, cuồng nhiệt. Ở đây ta còn thấy được nghệ thuật sử dụng từ ngữ
và hình ảnh của Xuân Diệu. Đó là những từ ngữ chỉ hành động bạo dạn và những
hình ảnh thể hiện sự tươi mới, đẹp đẽ, rực rỡ nhất của cuộc sống. Thi sĩ như một
con ong say sưa thưởng thức mật ngọt và hương thơm của hoa trái cho đến lúc
“ chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy”. Điệp từ “muốn” được nhắc đi nhắc lại ba lần
giúp người đọc cảm nhận được niềm mong muốn mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp.
Nếu thơ văn trung đại thường sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng, thường
viết về những hình ảnh tùng, cúc, trúc, mai hay trăng, hoa, tuyết, nguyệt thì trong
thơ mới các thi nhân đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật mới với những hình
ảnh khác lạ. Ta thường nhớ đến những vần thơ trong bài “Hai lòng” của Nguyễn Bính:
“Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”
Lòng người con gái như “quán bán hàng”, là nơi nhiều người qua lại, chỉ ghé chốc
lát rồi đi. Chẳng có ai là mãi mãi, là duy nhất. Còn lòng của người con trai lại được
ví như “mảng bè trôi”, “Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều”, trước sau như một,
luôn thủy chung với tình yêu của mình. Với cách so sánh nhiều hình ảnh đó,
người con trai như muốn trách móc người con gái không thủy chung, sống “hai lòng”.
Phong trào thơ mới xuất hiện khi xã hội Việt Nam đang nửa Tây, nửa ta, nhố
nhăng, lộn xộn. Vì vậy, mỗi nhà thơ sẽ có một cách nhìn, cách cảm nhận riêng về
cuộc sống và con người. Chính vì lẽ đó mà Cái Tôi với ý nghĩa đích thực đã xuất
hiện. Người đọc không thể nào quên cái tôi cuồng nhiệt, đắm say, khát khao sự
giao hòa, giao cảm với cuộc đời của Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu luôn mang đến
cho người đọc một ngọn lửa sống mạnh mẽ, mãnh liệt:
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Khác với sự vội vã, cuồng nhiệt của Xuân Diệu, Huy Cận lại mang trong mình cái
tôi u sầu “sầu vạn cổ”, “buồn thiên thu”, vần thơ nào của ông cũng u sầu:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật lOMoAR cPSD| 61527594
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Đoạn thơ không hề có một chữ buồn nhưng người đọc vẫn cảm nhận được có
một nỗi buồn rất sâu, rất ghê gớm. Nỗi buồn đó bủa vây thi sĩ khiến cho Huy Cận
nhìn đâu cũng thấy cảnh chia lìa, tan tác. Đọc thơ Huy Cận ta luôn có cảm giác
“buồn lây”, chính điều đó đã tạo nên sự thành công cho các tác phẩm của Huy
Cận nhờ cái tôi độc đáo của mình.
Ta không thể thừa nhận rằng, “Với Thơ Mới, thi ca Việt Nam bước vào một thời
đại mới”.Thời đại đó không những mới mà còn hoàn toàn khác so với thời đại
thơ cũ do ảnh hưởng của thời đại, của hoàn cảnh xã hội và văn hóa mới du nhập
từ phương Tây. Mặc dù thời đại xã hội đó đã lùi xa nhưng nó đã mang đến cho
văn học Việt Nam một diện mạo mới với nhiều gương mặt mới và những tác
phẩm có giá trị. Thơ mới đã thành công nhờ vào sự đổi mới về tư tưởng, nội
dung sáng tác, hình thức nghệ thuật và cái tôi ở mỗi nhà thơ.
Dù phát triển từ thơ ca trung đại nhưng thơ mới đã tạo nên một dấu ấn quan
trọng trong lịch sử thơ ca dân tộc. Ngày nay, chúng ta vẫn đọc say sưa và yêu quý
những tác phẩm của phong trào thơ mới. Đó chính là sự thành công lớn nhất đối
với một thời đại thi ca.