MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhiều lần chỉ rõ, với Việt Nam con đường cứu nước, giải
phong dân tộc không thể là con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô
sản, cách mạng hội chủ nghĩa; rằng để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc, giải phóng hội và giải phóng con người đi đến thành công, để xây dựng
chủ nghĩa hội trên đất nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng phải dựa trên chủ
nghĩa Mác-Lênin, học thuyết khoa học cách mạng dẫn dắt nhân loại đi đến
một xã hội không còn áp bức bóc lột, bất công bất bình đẳng
Điều đó đòi hỏi Việt Nam vừa phải kiên định định hướng hội chủ
nghĩa, vừa phải cụ thể hóa hình xã hội chủ nghĩa để mọi người dân thấy
và cảm nhận được tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩanhân dân ta đang
xây dựng. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới và đạt được nhiều thành tựu phát
triển kinh tế - hội quan trọng. Một trong những thành quả đó sự đổi mới nhận
thức về CNXH con đường đi lên CNXH. Đảng ta khẳng định, từ một nước kinh tế
còn lạc hậu đi lên CNXH, chúng ta phải thực hiện bước quá độ gián tiếp để thực
hiện bước quá độ gián tiếp này, việc tìm ra những hình thức kinh tế trung gian để tiến
lên CNXH là vấn đề quan trọng, cấp thiết.
Trong thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, việc
tiếp tục nghiên cứu về khâu trung gian và sự vận dụng nó vào quá trình đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay là một yêu cầu tất yếu, có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, tác giả chọn đề i nghiên cứu: “Khâu
trung gian trong sự phát triểnhội vận dụng khâu trung gian trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”.
1
NỘI DUNG
1. Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
Khâu trung gian là một trạng thái tồn tại tất yếu của sự vật trong quá trình
chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới, trong đó chất cũ và chất mới đan xen, xâm
nhập vào nhau, đấu tranh với nhau, thông qua đó cái cũ bị loại bỏ và chuyển hoá
thành cái mới.
1.1 Khâu trung gian có những đặc trưng sau:
- Trong khâu trung gian, sự vật trong trạng thái “vừa cái này, vừa
cái kia”, nghĩa là về đặc điểm kết cấu bên trong của sự vật đan xen tồn tại những
mặt, những yếu tố, những bộ phận khác nhau, đối lập với nhau, không cùng bản
chất, của cả svật sự vật mới… đây, sự vật chưa mất ngay, còn sự
vật mới đang thoát dần khỏi sự vật nhưng vẫn bị cản trở nên chưa thể khẳng
định được vị trí chi phối sự vật. vậy, chúng còn phải lien kết, thâm nhập vào
nhau đấu tranh và chuyển hoá sang chất mới.
2
- Trong khâu trung gian có các yếu tố chất mới và chất cũ mặc dù còn tồn
tại đan xen, kếp hợp với nhau trong một chỉnh thể, nhưng sự đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, giữa các mặt đối lập trở nên gay gắt hơn.
- Trong khâu trung gian sự thống nhất giữa quá trình định hướng
quá trình định hình, trong đó do tính tất yếu của cái mới bao giờ cũng thể hiện ra
như là nhân tố định hướng cho sự phát triển của sự vật ở khâu trung gian.
1.2 Vai trò của khâu trung gian trong sự phát triển:
Vấn đề khâu trung gian là một trong những nội dung quan trọng của phép
biện chứng duy vật, liên quan đến các quy luật của phép biện chứng duy vật.
1.2.1 Vai trò của khâu trung gian trong quy luật chuyển hoá từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Trước hết là quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại, liên quan trực tiếp đến phạm trù nhảy vọt.
Phép biện chứng vạch ra rằng: chất và lượng là hai mặt không thể tách rời
của một sự vật, lượng là lượng của một chất nhất định. Sự thay đổi về lượng đến
giới hạn độ sẽ sự thay đổi về chất của sự vật, thông qua bước nhạy vọt…
bước nhảy vọt bằng con đường biến đổi dần dần chất cũ thay thế dần bằng chất
mới hay nhảy vọt đột biến, làm sự vật biến đổi nhanh chóng… thì đều là chuyển
hoá phức tạp, diễn ra biến đổi sâu sắc trong hệ thống cấu trúc của sự vật do
đó một quá trình khởi đầu kết thúc trong thời gian. đây, chế
thực hiện bước nhảy vọt liên quan trực tiếp đến vai trò của khâu trung gian.
Mọi sự thay đổi chất đều thông qua bước nhảy vọt. Nếu thời kỳ biến đổi về
lượng nói lên sự biến hoá dần dần, liên tục thì sự biến đổi về chất là sự đứt đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật. vậy, nhảy vọt kết thúc một
giai đoạn biến đổi về lượng, sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục
của sự vật. Đó là sự thống nhất giữa gián đoạnliên tục, giữa tiệm tiếnđột
biến.
3
Nhảy vọt giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của sự vật
đó “chất cũ bị phá vỡ nhưng chưa hoàn toàn mất đi và chất mới đang hình thành
nhưng chưa trọn vẹn”. Nhảy vọt chính quá trình chuyển hoá nội tại giữa chất
và lượng, giữa chất cũ và chất mới. Nghĩa là nhảy vọt được thực hiện bằng khâu
trung gian, thông qua khâu trung gian.
Nhảy vọt khâu trung gian mối quan hệ mật thiết với nhau song lại
có vai trò không giống nhau đối với quá trình thay đổi chất của sự vật. Nhảy vọt
quá trình tất yếu để chuyển hoá chất thành chất mới trên sở đã tích đủ
lượng. Nhảy vọt sự đứt đoạn về chất. Còn khâu trung gian với tính cách
trạng thái tồn tại của sự vật đang trong quá trình nhảy vọt, sự thống nhất biện
chứng giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất, là sự liên tục của sự đứt
đoạn ấy.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, có thể thấy tính chất phong phú,
đa dạng của những khâu trung gian trong quá trình thực hiện bước nhảy vọt từ
chất này sang chất khác. Bởi vì:
-Thứ nhất: sự vật không phải chỉ một chất, vàn chất, tương
ứng với tính nhiều chất của sự vật, sẽ có nhiều quá trình lượng - chất khác nhau.
Do đó, trong quá trình phát triển các sự vật sẽ diễn ra những bước nhảy vọt khác
nhau, có bước nhảy vọt lớn, có những bước nhảy vọt nhỏ. Vì vậy, quá trình phát
triển từ chất này sang chất khác sẽ phải thông qua nhiều khâu trung gian khác
nhau.
- Thứ hai: nhảy vọt là một quá trình, điều đó nghĩa, chúng sẽ phải trải
qua nhiều giai đoạn quá độ, những nấc thang phát triển khác nhau, còn qua
những nấc thang nào, điều đó tuỳ thuộc vào bản chất, điều kiện cụ thể của mỗi
sự vật. như vậy, về nguyên tắc giữa sự vật mới sự vật cũ càng khác xa nhau
về trình độ phát triển thì càng phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ và phải thong
qua nhiều khâu trung gian khác nhau để chuyển tiếp.
1.2.2 Khâu trung gian trong quy luật mâu thuẫn
4
Mỗi sự vật, hiện tượng một thể thống nhất biện chứng của các mặt đối
lập, trong đó, chúng vừa nương tựa vừa gắn bó với nhau, giả định lẫn nhau, mặt
này lấy mặt kia làm điều kiện tồn tại cho mình, đồng thời vừa triển khai theo
hướng ngược chiều nhau, đấu tranh theo hướng gạt bỏ lẫn nhau. Sự thống nhất
đấu tranh của các mặt đối lập sẽ dẫn đến chỗ mâu thuẫn được giải quyết, sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
sở khách quan cho sự tồn tại khâu trung gian trong sự tác động,
chuyển hoá giải quyết mâu thuẫn. Đặc điểm của quá trình giải quyết mâu
thuẫn của các mặt đối lập khi đã trở nên chín muồi chỗ “có sự chuyển
hoá từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia”, chúng lại không thể tồn tại tách
rời nhau, phải “dung hợp” với nhau trong những hình thức nhất định,thể
coi khâu trung gian những thực thể mang mâu thuẫn, trong đó sự dung hợp
của các mặt đối lập đấu tranh với nhau, thực hiện “môi giới” cho sự chuyển hoá
giữa chúng. vậy, nếu sự chuyển hoá của các mặt đối lập phương thức để
giải quyết mâu thuẫn của sự vật, thì khâu trung gian đóng vai trò những điều
kiện tất yếu để giải quyết mâu thuẫn.
1.2.3 khâu trung gian trong quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định, theo quan điểm biện chứng không phải là sự xoá bỏ giản đơn
cái này để cái khác phủ định sự liên hệ, sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa cái cũ và cái mới, cái mới ra đời không phải từ hư vô mà trên cơ sở kế thừa,
lọc bỏ cái cũ để phát triển, còn cái cũ không phải biến mất một cách ngẫu nhiên.
vậy, khâu trung gian đóng vai trò “mắt khâu” tất yếu trong quá trình cái
mới phủ định cái cũ, đây cả cái lẫn cái mới, cả cái khẳng định cái phủ
định đều tồn tại đan xen nhau, làm thành vòng khâu của những “liên hệ”, những
“vòng khâu của sự phát triển”.
Sự phủ định của phủ định quá trình thay đổi chất chất mới, sự
thay đổi ấy tất yếu phải qua những khâu trung gian. Trong quá trình phủ định và
phủ định, sự phủ định thứ nhất sẽ khâu trung gian giữa cái khẳng địnhcái
5
phủ định của phủ định. Bởi vì, về bản chất, cái phủ định lần thứ nhất vừa
những yếu tố của cái phủ định của phủ định dưới dạng mầm mống, cái đang
phát triển, đồng thời còn cả những yếu tố cái cũ, cái bị phủ định đang bị lọc
bỏ, đang bị mất đi, thông qua đó, cái cũ và cái mới tác động qua lại lẫn nhau, kế
thừa và lọc bỏ, chuyển hoá cho nhau, để sự vật mới thay thế sự vật cũ.
Sự thay thế giữa sự vật cũ và sự vật mới thông qua quá trình phủ định của
phủ định không phải bằng vứt bỏ mặt này để mặt kia, quá trình tổng
hợp cả cái khẳng định và cái phủ định trong khâu trung gian, để thực hiện sự kế
thừa, lọc bỏ.
Như vậy, khâu trung gian hoàn toàn sở khách quan trong quá trình
vận động phát triển của các svật hiện tượng trong thế giới khách quan.
vậy, khâu trung gian không chỉ tồn tại phổ biến trong tự nhiên, trong hội
trong ý thức tư tưởng mà còn có vai trò không thể thiếu được trong sự vận động
và phát triển của chúng. Chính điều đó làm cho các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đặc biệt chú ý đến vấn đề khâu trung gian trong sự phát triển.
Khẳng định vai trò, tính tất yếu của khâu trung gian trong sự phát triển, chủ
nghĩa Mác - Lênin không chỉ phát triển và hoàn thiện thế giới quan duy vật biện
chứng, mà còn vận dụng nó vào trong hoạt động thực tiễn để thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình cải tạo thế giới hiện thực.
1.3. Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
1.3.1 Đặc điểm của khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
Theo quan điểm của mác xít, xã hội là bộ phận đặc thủ của thế giới khách
quan, vừa có sự thống nhất với thế giới tự nhiên, vừa có sự khác biệt với thế giới
đó. vậy, khâu trung gian trong sự phát triển hội bộ phận đặc thù của
khâu trung gian trong sự phát triển của thế giới nói chung.
Xã hội phát triển không ngừng, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều mặt có quan
hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Sự tác động qua lại giữa các
mặt, những yếu tố vốn có, tạo thành những quan hệ có tính quy luật, chi phối sự
6
vận động thường xuyên của chúng. Trong những mối quan hệ ấy nổi lên là quan
hệ giữa LLSX QHSX. Khi QHSX phù hợp với tính chất trình độ của
LLSX sẽ thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển
của LLSX, do đó tất yếu phải thay đổi QHSX bằng QHSX mới phù hợp.
QHSX thay đổi sớm muộn cũng kéo theo một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Hệ quả tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn trên một hình thái KT-XH mới
ra đời thay hình thái KT-XH cũ đã lỗi thời. Sự chuyển hoá từ hình thái này sang
hình thái khác của lịch sử xã hội là một quá trình thống nhất giữa tính liên tục và
tính gián đoạn. Đặc tính ấy được thực hiện bởi những khâu trung gian.
Xét theo tiêu chí mô, hội tồn tại trong thời quá độ từ hình thái
KT-XH này lên hình thái KT-XH khác về bản chất là một khâu trung gian. Bởi
vì, xét về kết cấu kinh tế - xã hội của nó có sự đan xen kết hợp và đấu tranh giữa
những lực lượng hội, những quá trình hội xu hướng phát triển khác
nhau, mang đặc điểm tiêu biểu cho bản chất hội hội mới. Xét trên
từng mặt, từng lĩnh vực trong kết cấu hội của thờiquá độ cũng đều s
biến đổi về chất, do đó, sự phát triển của chúng tất yếu phải được thể hiện
được thực hiện thông qua những khâu trung gian, đó những hình thức phát
triển xã hội mang tính chất trung gian, quá độ.
Khâu trung gian mang những đặc điểm sau:
-Thứ nhất: trong những lĩnh vực hội, khâu trung gian kết quả hoạt
động của con người, biểu hiện mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá
trình hoạt động của họ.
- Thứ hai: khâu trung gian trong sự phát triển hội một trạng thái
hội “đặc biệt” trong đó tồn tại cả những yếu tố xã hội cũ chưa mất đi hoàn toàn,
cả những yếu tố hội mới đang phát triển nhưng chưa hoàn thiện. Chúng kết
hợp với nhau trong một kết cấu tính chất tạm thời, hướng tới thủ tiêu từng
bước những yếu tố hội cũ, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời của
những yếu tố xã hội mới.
7
- Thứ ba: khâu trung gian trạng thái hội tạm thời, chưa ổn định
còn thiếu vững chắc trong tổ chức kết cấu, trong khuynh hướng vận động
phát triển của nó. Đặc điểm đó xuất phát từ tính chất đan xen tồn tại giữa các
yếu tố xã hội cũ và mới, sự chi phối của các quy luật mang bản chất xã hội khác
nhau, của tình trạng mâu thuẫn trở nên đa dạng, phức tạp gay gắt hơn. Tuy
nhiên, sự thiếu ổn định, mất cân đối thường xuyên vốn khâu trung gian lại
là điều kiện để thúc đẩy sự tiêu vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Từ những đặc điểm chủ yếu trên đây, khâu trung gian trong sự phát triển
hội thể hiểu một trạng thái tồn tại của hội tính chất “tạm thời”
hướng tới hình thành chất - lượng mới, trong đó những yếu tố hộimới
đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu tranh và chuyển hoá cho nhau, để cho kết cấu
xã hội cũ từng bước bị loại bỏ chuyển sang kết cấu xã hội mới.
1.3.2 Khâu trung gian trong những thời kỳ quá độ trong lịch sử
Lịch sử loài người bắt đầu từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Bước nhảy vọt
đầu tiên về mặt hình thái loài người đạt được từ hội cộng sản nguyên
thuỷ lên chế độ chiếm hữulệ. Theo những tài liệu lịch sử, sự quá độ từ hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ lên những hình thái kinh tế xã hội cao
hơn diễn ra cùng chậm chạp lâu dài tới hàng ngàn năm lịch sử, trải qua
nhiều hình thái hội mang tính trung gian quá độ khác nhau, song chủ yếu
nhất, nổi bật nhất trong đó là hình thức tổ chức xã hội công xã nông thôn. Trong
phần “Những hình thức trước sản xuất bản chủ nghĩa” của Bản thảo kinh
tế, viết vào những năm 1857-1859, Mác nêu: “Trong sự vận động lịch sử của
phong trào cổ đại và cận đại, giai đoạn công xã nông thôn xuất hiện như là giai
đoạn quá độ từ sở hữu công cộng sang sở hữu tư nhân, giai đoạn quá độ từ hình
thái thứ nhất sang hình thái thứ hai” (1, tr311). Đặc trưng của công nông
thôn là một kiểu tổ chức xã hội dựa trên nên tảng chế độ sở hữu “hỗn hợp” về tư
liệu sản xuất, vừa yếu tố sở hữu công cộng, vừa yếu tố sở hữu nhân
thuộc về cá nhân các thành viên công xã. Về bản chất, đây là hai kiểu sở hữu đối
8
lập nhau, nhưng lại gắn với nhau một cách hữu trong một chế độ kinh tế,
trong đó chúng vừa kết hợp với nhau vừa đấu tranh loại trừ nhau. Về mặt xã hội,
trong công sự phân hoá thành những tầng lớp khác nhau, đối lập đấu
tranh với nhau. Đó tầng lớp những nhân đặc quyền, đặc lợi gắn với bộ
máy “tự quản” công những thành viên công xã. Do sự phát triển lâu dài
nền sản xuất của công nguyên thuỷ cũng tạo ra được của cải ngày càng dồi
dào hơn, không chỉ đủ dùngcòn dư thừa đem trao đổi với các cộng đồng thị
tộc khác. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh trong lòng hội, ngày càng đòi
hỏi sra đời của hình thức quan hệ hội phù hợp với sức sản xuất mới đang
phát triển để thay thế quan hệ xã hội cũ. Những mâu thuẫn ngày càng gay gắt
ngày càng có xu thế làm tan rã công xã thị tộc. Tuy nhiên, do sự phát triển chậm
chạp của lực lượng sản xuất cuộc đấu tranh giữa những lực lượng hội đại
diện cho lợi ích đối lập nhau, đã không thể làm cho hình thức tổ chức công
thị tộc biến đổi mất đi lập tức, được thực hiện “dần dần”, “từng bước”
chậm chạp, dưới hình thức hội “trung gian”công nông thôn. Sở hữu
nhân dần giữ vai trò nền tảng của chế độ công xã. hội phân chia giai cấp
bắt đầu một chế độ mới - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Chế độ chiếm hữu lệ ra đời đánh dấu bước nhảy vọt căn bản từ hình
thái hội đầu tiên lên hình thái hội thứ hai, từ tình trạng man lên tình
trạng văn minh. Ở đây, có thể coi sự tồn tại phát triển của công xã nông thôn
về bản chất hình thức hội mang tính chất trung gian, quá độ. Đó điều
Ănghen yêu cầu phải làm được bước quá độ từ thời đại man sang thời đại
văn minh, từ hình thức thứ nhất sang hình thức thứ hai.
Cũng chính từ hình thái xã hội đầu tiên này trong những điều kiện lịch sử
khách quan khác, chế độ cộng xã nguyên thuỷ còn phát triển lên những hình thái
kinh tế - hội cao hơn bằng một “nhánh” khác so với quá trình diễn ra Tây
Âu, Mác gọi đó phương thức sản xuất Châu Á diễn ra tương đối phổ biến
Châu Á và một số nước ở Châu phi, Châu Mỹ.
9
Trong “phương thức sản xuất Châu Á” đã xuất hiện những hình thức
hội mang nh chất trung gian, quá độ, đặc trưng của hình thức hội này
“không sở hữu nhân riêng rẽ chỉ có chiếm hữu nhân, người sở hữu
thực tế, chân chính là công xã, do đó sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở hữu tập
thể về ruộng đất thôi” (12, tr.29). Sự phát triển lực lượng sản xuất lâu dài
phá vỡ hình thức kết cấu hội, xuất hiện sở hữu nhân. Từ một tầng lớp
những “kẻ đại diện cho tập đoàn” (thường các ông vua chuyên chế, các gia
đình quan trọng nhất của bộ lạc, các thủ lĩnh quân sự…) họ được chiếm hữu cha
truyền con nối đối với sở hữu công xã về đất đai và những tư liệu sản xuất khác,
biến chúng thành vật sở hữu công về đất đai và những liệu sản xuất khác
chỉ còn hình thức. Từ đó, bắt đầu xuất hiện những hình thức kinh tế trung
gian, quá độ trước khi phương thức sản xuất phong kiến ra đời, đó hình thức
kinh tế “điền trang thái ấp” của giai cấp địa chủ, quý tộc.
Như vậy, chế độ công xã nguyên thuỷ đã trải qua khâu trung gian là công
xã nông thôn và kinh tế điền trang thái ấp, để trút bỏ những hình thức cuối cùng
của nó “bỏ qua” chế độ chiếm hữu nô lệ để tiến lên chế độ phong kiến.
Thời quá độ thứ hai diễn ra trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại thời kỳ chuyển hoá từ xã hội chiếm hữulệ lên hội phong kiến. Sự
thay thế chế độ chiếm hữu lệ bằng chế độ phong kiến diễn ra khá lâu dài,
phức tạp và tất nhiên đều phải trải qua những khâu trung gian, những hình thức
quá độ để thực hiện sự cải biến từ hội nọ lên hội kia. Bước chuyển hoá
làm thay đổi chế độ chiếm hữu lệ diễn ra như sau: do những mâu thuẫn
hội đang diễn ra giai cấp chủ quý tộc buộc phải thay đổi phương thức tổ
tổ chức sản xuất và bóc lột theo kiểu chiếm hữu nô lệ, bắt đầu bằng việc, họ chia
nhỏ ruộng đất cho những người nông dân thuê để thu lại một phần sản phẩm. Về
sau họ còn áp dụng cả với những người lệ nông nô, dần dần họ thay đổi
hình thức chiếm hữu ruộng đất bằng cách cho người nông dân, hay nông nô thuê
lâu dài, thậm chí còn được sử dụng “cha truyền con nối”. đây, những người
nô ltừ thân phận phụ thuộc hoàn toàn vào chủ đã dần dần được giải phóng
10
một phần hoặc toàn bộ, để trở thành nông nô, hay nông dân tự do. Nghĩa là giai
cấp chủ quý tộc đã phải thay đổi phương thức sản xuấtbóc lột dưới hình
thức mới - hình thức bóc lột địa tô phong kiến. Đây là một sự biến đổi về chất.
Từ hình thái kinh tế - hội phong kiến lên hình thái kinh tế - hội tư
bản chủ nghĩa một bước nhảy vọt to lớn trong lịch sử, đánh dấu một thời kỳ
phát triển mới chưa từng của lực lượng sản xuất. đây, phương thức sản
xuất TBCN được hình thành phát triển từng bước trong lòng hội phong
kiến, từ chính những hình thức kinh tế của PTSX phong kiến như kinh tế trại ấp
phong kiến nông thôn kinh tế phường hội thành thị. Kinh tế phường hội
tổ chức lao động của thợ cả những người thợ bạn, dựa trên chế độ hữu
nhỏ của người lao động, song từ chính quan hệ kinh tế giữa thợ cả và thợ bạn đã
ngầm chứa những mầm mống của phương thức SX TBCN. Quá trình tổ chức,
phân công lao động hội diễn ra ngay trong long phường hội phong kiến, sự
tác động mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá TBCN đang hình thành đã dẫn đến
những thay đổi QHSX bên trong vốn rất bảo thủ của kinh tế phường hội, làm
phân hoá sâu sắc quan hệ kinh tế của những người sản xuất nhỏ trong đó. Một số
người thợ cả mở rộng sản xuất thuê thêm lao động, từ đây những người thợ
bạn đi làm thuê cho thợ cả. Kinh tế phường hội dần biến thành tổ chức “lung
đoạn” của thợ cả bóc lột thợ bạn.
Tuy nhiên, PTSX TBCN chưa thể định hình ngay còn trải qua thời kì
quá độ phát triển lâu dài với những khâu trung gian khác nhau, nổi lên đó là các
hình thức hiệp tác đơn giản và công trường thủ công.
Hình thức hiệp tác giản đơn được hình thành do một số chủ xưởng mở
rộng sản xuất, thuê nhân công, đồng thời tổ chức lại sản xuất phân công lao
động dưới hình thức lao động tập thể sự chuyên môn hoá sản xuất. Trong
hình thức kinh tế hiệp tác giản đơn, tính chất trung gian, quá độ biểu hiện
những đặc điểm: vừa có yếu tố của nền sản xuất nhỏ phân tán, vừa có yếu tố của
nền sản xuất lớn TBCN. Việc nâng quy tích tụ bản, tập trung liệu sản
11
xuất sức lao động, kết hợp với phân công lao động mở rộng những “biến
đổi về “lượng”, nhưng so với nền sản xuất hàng hoá nhỏ đã tạo ra sức sản
xuất phát triển hơn, năng suất lao động cao hơn, do đó nó là sự thay đổi về chất
so với nền sản xuất cũ.
Quá trình hình thành PTSX TBCN trong lĩnh vực công nghiệp còn phải
trải qua khâu trung gian nữa công trường thủ công để chuyển lên hình thức
sản xuất công xưởng đại cơ khí. Công trường thủ công là sự tiếp tục biện chứng
của hình thức hiệp tác giản đơn vì nó là sự kết hợp những ưu điểm của hình thức
hiệp tác giản đơn với sự phân công lao động theo chiều sâu, do sự phát triển của
LLSX mới tạo ra. Sự chuyên môn hoá sản xuất như vậy, sẽ tạo điều kiện và tiền
đề cho việc cơ khí hoá sản xuất.
thể coi hiệp tác giản đơn công trường thủ công những hình thức
giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất phân tán, lạc hậu với sự sản xuất mang tính
hội hoá cao của CNTB. Việc giải quyết mâu thuẫn ấy không phải bằng việc
thủ tiêu ngay nền sản xuất để thay thế nền sản xuất mới sự “kết hợp”
giữa chúng với nhau, trong đó chúng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kế thừa
vừa đổi mới, vừa đào thải vừa chọn lọc, làm cho nền sản xuất lớn ngày càng trở
nên chiếm ưu thế. Thông qua đó, phương thức sản xuất TBCN trở thành phương
thức sản xuất thống trị.
Tiếp theo, từ CNTB lên CNXH là bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử
xã hội loài người, bởi vì đó là một quá trình biến đổi giữa hai hình thái kinh tế -
hội khác nhau về bản chất, từ một hội dựa trên chế độ hữu bóc lột,
lên một xã hội chủ yếu dựa trên chế độ công hữu, không còn đấu tranh giai cấp,
không còn áp bức, bóc lột đối với con người. Một cuộc cách mạng như vậy tất
yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ (TKQĐ) lâu dài, phức tạp, để từng bước cải
biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Bước nhảy vọt từ CNTB lên CNXH một quá trình biến đổi cách mạng
toàn diện của những hội đối lập nhau về bản chất, do đó những khâu trung
12
gian, các yếu tố tiêu biểu của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội mới đan xen
tồn tại, vừa triển khai theo hướng bài trừ, xung đột và đấu tranh với nhau nhiều
hơn là sự hài hoà thống nhất. Cho nên, quá trình cải biến cách mạngđây diễn
ra phức tạp, dai dẳng hơn, quanh co hơn rất nhiều so với những thời quá độ
khác. Điều đó cho thấy, việc nhận thức vận dụng khâu trung gian trong khi
tiến hành cải tạo XHCN không được để rơi vào chủ quan duy ý chí, nôn nóng,
đốt cháy giai đoạn,phải vận dụng sáng tạo những khâu trung gian, các bước
quá độ phức tạp để thúc đẩy sự tiêu vong cái sự ra đời cái mới phù hợp
quy luật khách quan. Quá trình cải biến cách mạng cải tạo hội cũ, xây dựng
xã hội mới chỉ bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhà nước,
mặc dù đã xuất hiện những tiền đề trong lòng xã hội cũ.
Như vậy, xuất phát từ quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
về sự phát triển, từ những thành tựu khoa học, kỹ thuật thực tiễn cho phép
khẳng định vai trò tất yếu của khâu trung gian trong sự phát triển của thế giới
khách quan đặc biệt là trong thời kỳ chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này
lên hình thái kinh tế - hội khác. vậy, khâu trung gian không những được
thừa nhận như một yếu tố vốn của phép biện chứng duy vật, còn ý
nghĩa to lớn về mặt luận thực tiễn trong quá trình cải tạo hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
2. VẬN DỤNG KHÂU TRUNG GIAN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Sự cần thiết sử dụng khâu trung gian để đổi mới nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta
2.1.1 Chính sách kinh tế mới của Lênin - sở luận phương pháp
luận để nhận thức vận dụng khâu trung gian đưa nền kinh tế lạc hậu lên
CNXH
Trong hệ thống các di sản của chủ nghĩa Mác - Lênin để lại, chính sách
kinh tế mới (NEP) do Lênin vạch ra cho nước Nga thực hiện sự quá độ lên
13
CNXH từ mùa xuân 1921 vẫn còn ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng XHCN hiện nay của nước ta.
Thời kì quá độ lên CNXH ở nước Nga theo Lênin là thời kỳ lịch sử tương
đối lâu dài, ở thời kỳ này sẽ tồn tại nhiều hình thức kinh tế, trong đó kinh tế
bản nhà nước một bộ phận quan trọng, khâu trung gian nhà nước
chuyên chính sản cần nắm lấy, sử dụng chúng làm con đường, phương thức,
phương tiện đưa nền sản xuất nhỉ lên CNXH. Như vậy vấn đề CNTB nhà nước
Lênin đưa ra trong NEP thực chất sự vận dụng phép biện chứng của thời
kỳ quá độ, là sự vận dụng lý luận về khâu trung gian.
Vận dụng CNTB nhà nướcthể hiện sinh động, cụ thể quy luật phù hợp
giữa QHSX với tính chấttrình độ của LLSX trên sở kết hợp giữa sự phục
hồi, phát triển LLSX với việc cải tạo từng bước không ngừng QHSX cũ, xác lập
QHSX mới của CNXH. Đồng thời đó cũngquá trình xã hội hoá nền sản xuất
nhỏ dựa trên những tất yếu kinh tế, phù hợp với quá trình phát triển lịch sử tự
nhiên.
Thực hiện CNTB nhà nước trong TKQĐ lên CNXH, Lênin đã vận dụng
xuất sắc phép biện chứng duy vật để giải quyết những nhiệm vụ chính trị thực
tiễn, tìm ra khâu trung gian để giải quyết mâu thuẫn, kết hợp các mặt đối lập và
chuyển hoá lên hình thức cao hơn. Đó là sự kết hợp giữa việc sử dụng CNTB, kế
thừa phát huy những yếu tố tích cực, hợp của với việc cải tạo CNTB,
lọc bỏ và hạn chế tối đa những khuyết tật vốn có của nó, là sự kết hợp giữa tự do
phát triển với sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ, giữa tính tự phát vô chính phủ, với
tính kế hoạch hoá một cách chủ động, tự giác của hội, sự kết hợp giữa lợi
ích cá nhân và xã hội, tư nhân và nhà nước… Đây chính là mẫu chốt của vấn đề
sao phải phát triển CNTB nhà nước để đi lên CNXH trong NEP của Lênin.
Từ đây, Lênin vạch ra một số hình thức cụ thể của CNTB nhà nước áp dụng
trọng những năm đầu của chính quyền viết như: hình thức nhượng, hình
14
thức sử dụng các chuyên gia tư sản, hình thức công ty hợp doanh, chế độ hợp tác
xã.
Trên tinh thần những tư tưởng cơ bản của NEP có thể rút những vấn đề có
ý nghĩa luận phương pháp luận phổ biến trong việc xác định con đường
quá độ lên CNXH đối với các nước nền kinh tế phổ biến sản xuất nhỏ như
nước ta như sau:
Thứ nhất, ý nghĩa to lớn về mặt luận của NEP chỗ khẳng định
rằng, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến đi lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN nhất định phải trải qua một TKQĐ lâu dài, phức tạp, với
sự tồn tại của kết cấu kinh tế xã hội nhiều thành phần có bản chất khác nhau, tồn
tại đan xen đấu tranh với nhau, vừa hạn chế, vừa thúc đẩy lẫn nhau. Trong
đó, thành phần kinh tế của CNXH sẽ từng bước phát triển và giữ vai trò chủ đạo.
nền kinh tế trong TKQĐ là nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế
thị trường có sự kiểm soát và điều tiết của nhà nước XHCN.
Thứ hai, để đảm bảo định hướng nền kinh tế quá độ lên CNXH, đòi hỏi
khách quan phải xác lập được vai trò thống trị của nhà nước sản đối với
nền kinh tế, tức là phải thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ bằng các chính
sách, pháp luật và bằng các tiềm lực kinh tế của nhà nước, để tác động mạnh mẽ
đối với các thành phần kinh tế, nhằm định hướng chúng phát triển hiệu quả,
từng bước đáp ứng những yêu cầu mục tiêu hội. Sự kiểm kê, kiểm soát của
nhà nước đối với nền kinh tế nhân tố quyết định địa vị thống trị của CNXH
trong cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng tự phát TBCN khuynh hướng
XHCN. vậy, quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi phải thường xuyên củng cố
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản sự quảncủa nhà nước
sản.
Thứ ba, qua NEP, Lênin không chỉ đặt nền móng cho luận về CNXH
con đường đi lên CNXH những nước kinh tế còn phổ biến lạc hậu, đó
còn là mẫu mực của việc vận dụng phương pháp biện chứng cách mạng và khoa
15
học nhất để thực hiện vận dụng quy luật khách quan tiến hành cải tạo hội
xây dựng hội mới. Đó sự phân tích những mối liên hệ tính quy
luật giữa các mặt, các lĩnh vực khác nhau của xã hội, phân tích mâu thuẫn trong
TKQĐ, tìm ra những hình thức, những biện pháp phù hợp để tác động giải
quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển.
2.1.2 Đặc điểm của sự nhận thức vận dụng khâu trung gian trong quá
trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Đặc trưng bản của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ nước ta nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường sự quản
của nhà nước. Để chuyển hoá các thành phần kinh tế nhân, bản chủ
nghĩa, sản xuất hàng hoá nhỏ lên CNXH, cần thiết phải nhận thức vận dụng
các hình thức kinh tế trung gian, quá độ sau đây: chủ nghĩa bản nhà nước;
kinh tế hợp tác…
2.2 Những vấn đề đặt ra trong nhận thức vận dụng một số hình
thức kinh tế trung gian để phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
Đặc trưng bản của nền kinh tế trong thời quá độ nước ta nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường sự quản
lý của nhà nước. Để chuyển hoá các thành phần kinh tế tư nhân, TBCN, sản xuất
nhỏ lên CNXH cần phải nhận thức và vận dụng các hình thức kinh tế trung gian,
quá độ sau:
- Thứ nhất: CNTB nhà nước.
CNTB nhà nước theo nghĩa chung nhất là một kiểu tổ chức sản xuất, được
hình thành do sự dung hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản, nhằm phát huy sức
mạnh của CNTB với sức mạnh tập trung của nhà nước. Sự tồn tại CNTB nhà
nước trong TKQĐ lên CNXH sự tiếp tục biện chứng của CNTB nước
trong chế độ TBCN, bởi vì, trong thời quá độ lên CNXH, GCVS phải tiến
hành xoá bỏ chế độ TBCN xác lập chế độ XHCN. Để làm được việc đó tất
16
yếu phải sử dụng CNTB nhà nước như một khâu trung gian để từng bước xoá bỏ
các quan hệ kinh tế cũ và xác lập các quan hệ kinh tế mới.
CNTB nhà nước trong TKQĐ là hình thức kinh tế quá độ, trong đó sự
kết hợp giữa những mặt, những yếu tố bản chất đối lập nhau, giữa lợi ích
nhân lợi ích nhà nước; giữa chế thị trường tự phát TBCN sự tác động
một cách tgiáckế hoạch của nhà nước nhằm kế thừa, phát triển LLSX,
hội hoá nền kinh tế, tạo điều kiện để phương thức sản xuất mới của CNXH hình
thành và phát triển. CNTB nhà nước do đó được coi một kiểu sản xuất xã hội
đặc thù, khâu trung gian để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, con
đường để thực hiện quá đôj lên CNXH ở một nước tiểu nông chiếm ưu thế, đồng
thời một thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, việc nhận thức vận dụng CNTB nhà nước nước ta đặt ra
nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp cần giải quyết, cụ thể là: những biểu hiện lệch
hướng (gian lận, trốn thuế, vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp kinh tế
bản nhà nước…); nhập khẩu công nghệ không đạt yêu cầu; cấu đầu bất
hợp lý; kinh tế nhà nước còn gặp nhiều khó khan, nhiều yếu kém, chưa thể hiện
được vai trò chủ đạo; chế quản còn lạc hậu, tình trạng quan liêu, tham
nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước…
- Thứ hai: kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác một tổ chức kinh tế tự chủ, liên kết tự nguyện của
người lao động, kết hợp sức mạnh tập thể sức mạnh của từng thành viên, để
giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ sở
nền tảng của kinh tế hợp tác là chế độ sở hữu hỗn hợp giữa sở hữu tập thể và sở
hữu cá nhân, hoạt động tập trung, thống nhất, dân chủ, bình đẳng. Tuỳ theo mức
độ hội hoá liệu sản xuất hoạt động, kinh tế hợp tác được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau: tổ kinh tế hợp tác, kinh tế hợp tác, liên hiệp HTX,
hiệp hội ngành nghề…
17
Để đưa người sản xuất nhỏ lên CNXH đòi hỏi phải thực hiện một loạt
những nguyên tắc đúng đắn. Mác, Ănghen, Lênin đã chỉ ra những quan điểm
luận phương pháp luận mang tính nguyên tắc của quá trình hợp tác hoá là:
nguyên tắc tự nguyện; sự giúp đỡ của nhà nước sản; tiến hành từng
bước…
Chuyển sang thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo chế thị trường sự quản của nhà nước theo định
hướng XHCN, cùng với sự chuyển đổi mô hình HTX cũ, nhiều hình thức kinh tế
hợp tác đã và hình thành và phát triển ở nước ta là: hình thức tổ kinh tế hợp tác,
hình thức hợp tác xã, mô hình liên kết sản xuất kinh doanh…
Qua thực tiễn xây dựng chế độ kinh tế hợp tác ở nước ta thời kỳ đổi mới
cũng như hiện nay, có thể rút ra những vấn đề có tính quy luật sau:
+ Quá trình hình thành phát triển của kinh tế hợp tác phải trên sở
của nền sản xuất hàng hoá chế thị trường. Nền sản xuất hàng hoá
chế thị trường càng phát triển càng tạo những tiền đề và điều kiện cho hợp tác ra
đời và phát triển, thực hiện hai chức năng cơ bản của nó là chức năng kinh tế
chức năng xã hội.
+ Hợp tác hoá phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền sản
xuất xã hội
+ Đưa những người sản xuất nhỏ lên CNXH thông qua con đường HTX
phải có sự hỗ trợ và sự định hướng của nhà nước và kinh tế nhà nước.
2.3 Một số giải pháp chủ yếu đảm bảo định hướng XHCN trong quá
trình nhận thức và vận dụng khâu trung gian
- Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về CNXH con đường đi lên
CNXH, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ.
Đây sở luận quan trọng để nhận thức vận dụng hiệu quả,
đúng định hướng các hình thức kinh tế quá độ, nhằm chuyển hoá nền kinh tế
18
nước ta lên CNXH. Trong sự nghiệp đổi mới vừa nắm vững đường lối chung về
mục tiêu, con đường đi lên CNXH vừa phải nhận thức thực hiện kết quả
những bước đi, những giải pháp hình thức cụ thể. Để tiếp tục phát triển
luận về con đường đi lên CNXH cần tập trung các giải pháp như: tập trung tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu luận; thường xuyên giáo dục bồi dưỡng luận,
nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhất
cán bộ trong các quan quản nhà nước; khắc phục những hạn chế trong
phương pháp tư duy đặc biệt là bệnh giáo điều, kinh nghiệm.
- Thứ hai: nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế,
thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát định hướng hoạt động của chúng theo mục
tiêu xã hội; cải cách hệ thống pháp luật, các chính sách khuyến khích và quản
đầu trong ngoài nước; nâng cao vai trò của nhà nước, đổi mới hoàn
thiện công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân; đổi mới tổ chức bộ máy nhà
nước, đảm bảo quản hiệu lực hiệu quả đối với các hình thức kinh tế
trung gian, quá độ.
- Thứ ba: phát huy dân chủ, nâng cao tính tích cực tự giác của nhân dân
lao động trong các thành phần kinh tế trung gian, quá độ.
Phát huy dân chủ trước hết phải tạo điều kiện để cá nhân, tập thể tự do sản
xuất kinh doanh theo khả năng khuôn khổ pháp luật của nhà nước; phát huy
dân chủ đòi hỏi phải nâng cao tính tích cực tự giác của quần chúng nhân dân;
bồi dưỡng phát huy nhân tố con người tạo điều kiện để sử dụng tốt các hình thức
kinh tế trung gian quá độ, chăm lo giáo dục đào tạo nhân lực, nhân tài cho các
thành phần kinh tế.
- Thứ tư: củng cố, đổi mới phát huy vai trò của kinh tế nhà nước để
phát triển và sử dụng có hiệu quả các hình thức kinh tế trung gian, quá độ.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế nói
chung sử dụng, phát triển các hình thức kinh tế trung gian, quá độ nói riêng
19
theo định hướng XHCN. Việc củng cố đổi mới nền kinh tế nhà nước
hướng vào khắc phục những khuyết điểm cản trở sự phát triển của nên cần
những giải pháp cụ thể để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò của nó đối với
việc định hướng sự phát triển của các hình thức kinh tế trung gian, quá độ như:
tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước dựa trên sự phân loại
về vai trò, khả năng phát triển của mỗi loại hình doanh nghiệp; tập trung năng
lực sản xuất hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, được đầu tư vốn, công nghệ, kỹ
thuật hiện đại đủ sức cạnh tranh mạnh để thực hiện vai trò chủ đạo chi phối
dẫn dắt các thành phần kinh tế nhân và bản nhà nước lên CNXH; đổi mới
quan hệ kinh tế cũ đang cản trở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước…
- Thứ năm: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hình thức kinh
tế trung gian, quá độ.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hình thức kinh tế trung gian, quá độ
trước hết sự định hướng chính trị. Đảng vạch đường lối, chiến lược, chủ
trương, chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triển có hiệu quả, đúng định hướng
XHCN. Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển nền kinh tế
đối với các hình thức kinh tế quá độ nói riêng. Không chỉ thể hiện trong việc xác
định đường lối, chủ trương, chính sách mang tính định hướng chung còn
phải xác lập, củng cố tang cường thường xuyên vai trò lãnh đạo của Đảng
trong các tổ chức kinh tế. Đảng phải nắm chắc công tác cán bộ, sự lãnh đạo kinh
tế của Đảng chỉ đạt được hiệu quả cao khi đội ngũ đảng viên gương mẫu,
luôn biết làm giàu trí tuệ của mình bằng những hiểu biết cần thiết.
20

Preview text:

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng
sản Việt Nam đã nhiều lần chỉ rõ, với Việt Nam con đường cứu nước, giải
phong dân tộc không thể là con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô
sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa; rằng để sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người đi đến thành công, để xây dựng
chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta đi đến thắng lợi cuối cùng phải dựa trên chủ
nghĩa Mác-Lênin, học thuyết khoa học và cách mạng dẫn dắt nhân loại đi đến
một xã hội không còn áp bức bóc lột, bất công bất bình đẳng
Điều đó đòi hỏi Việt Nam vừa phải kiên định định hướng xã hội chủ
nghĩa, vừa phải cụ thể hóa mô hình xã hội chủ nghĩa để mọi người dân thấy rõ
và cảm nhận được tính ưu việt của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang
xây dựng. Đất nước đang bước vào thời kỳ đổi mới và đạt được nhiều thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội quan trọng. Một trong những thành quả đó là sự đổi mới nhận
thức về CNXH và con đường đi lên CNXH. Đảng ta khẳng định, từ một nước kinh tế
còn lạc hậu đi lên CNXH, chúng ta phải thực hiện bước quá độ gián tiếp và để thực
hiện bước quá độ gián tiếp này, việc tìm ra những hình thức kinh tế trung gian để tiến
lên CNXH là vấn đề quan trọng, cấp thiết.
Trong thực tiễn công cuộc đổi mới, nhất là đổi mới trên lĩnh vực kinh tế, việc
tiếp tục nghiên cứu về khâu trung gian và sự vận dụng nó vào quá trình đổi mới kinh tế
ở nước ta hiện nay là một yêu cầu tất yếu, có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Khâu
trung gian trong sự phát triển xã hội và vận dụng khâu trung gian trong quá trình
đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay”. 1 NỘI DUNG
1. Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
Khâu trung gian là một trạng thái tồn tại tất yếu của sự vật trong quá trình
chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới, trong đó chất cũ và chất mới đan xen, xâm
nhập vào nhau, đấu tranh với nhau, thông qua đó cái cũ bị loại bỏ và chuyển hoá thành cái mới.
1.1 Khâu trung gian có những đặc trưng sau:
- Trong khâu trung gian, sự vật trong trạng thái “vừa có cái này, vừa có
cái kia”, nghĩa là về đặc điểm kết cấu bên trong của sự vật đan xen tồn tại những
mặt, những yếu tố, những bộ phận khác nhau, đối lập với nhau, không cùng bản
chất, của cả sự vật vũ và sự vật mới… ở đây, sự vật cũ chưa mất ngay, còn sự
vật mới đang thoát dần khỏi sự vật cũ nhưng vẫn bị cản trở nên chưa thể khẳng
định được vị trí chi phối sự vật. vì vậy, chúng còn phải lien kết, thâm nhập vào
nhau đấu tranh và chuyển hoá sang chất mới. 2
- Trong khâu trung gian có các yếu tố chất mới và chất cũ mặc dù còn tồn
tại đan xen, kếp hợp với nhau trong một chỉnh thể, nhưng sự đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ, giữa các mặt đối lập trở nên gay gắt hơn.
- Trong khâu trung gian có sự thống nhất giữa quá trình định hướng và
quá trình định hình, trong đó do tính tất yếu của cái mới bao giờ cũng thể hiện ra
như là nhân tố định hướng cho sự phát triển của sự vật ở khâu trung gian.
1.2 Vai trò của khâu trung gian trong sự phát triển:
Vấn đề khâu trung gian là một trong những nội dung quan trọng của phép
biện chứng duy vật, liên quan đến các quy luật của phép biện chứng duy vật.
1.2.1 Vai trò của khâu trung gian trong quy luật chuyển hoá từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại.
Trước hết là quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những
sự thay đổi về chất và ngược lại, liên quan trực tiếp đến phạm trù nhảy vọt.
Phép biện chứng vạch ra rằng: chất và lượng là hai mặt không thể tách rời
của một sự vật, lượng là lượng của một chất nhất định. Sự thay đổi về lượng đến
giới hạn độ sẽ có sự thay đổi về chất của sự vật, thông qua bước nhạy vọt…
bước nhảy vọt bằng con đường biến đổi dần dần chất cũ thay thế dần bằng chất
mới hay nhảy vọt đột biến, làm sự vật biến đổi nhanh chóng… thì đều là chuyển
hoá phức tạp, diễn ra biến đổi sâu sắc trong hệ thống cấu trúc của sự vật và do
đó là một quá trình có khởi đầu và có kết thúc trong thời gian. Ở đây, cơ chế
thực hiện bước nhảy vọt có liên quan trực tiếp đến vai trò của khâu trung gian.
Mọi sự thay đổi chất đều thông qua bước nhảy vọt. Nếu thời kỳ biến đổi về
lượng nói lên sự biến hoá dần dần, liên tục thì sự biến đổi về chất là sự đứt đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật. Vì vậy, nhảy vọt là kết thúc một
giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục
của sự vật. Đó là sự thống nhất giữa gián đoạn và liên tục, giữa tiệm tiến và đột biến. 3
Nhảy vọt là giai đoạn đặc biệt trong quá trình phát triển của sự vật mà ở
đó “chất cũ bị phá vỡ nhưng chưa hoàn toàn mất đi và chất mới đang hình thành
nhưng chưa trọn vẹn”. Nhảy vọt chính là quá trình chuyển hoá nội tại giữa chất
và lượng, giữa chất cũ và chất mới. Nghĩa là nhảy vọt được thực hiện bằng khâu
trung gian, thông qua khâu trung gian.
Nhảy vọt và khâu trung gian có mối quan hệ mật thiết với nhau song lại
có vai trò không giống nhau đối với quá trình thay đổi chất của sự vật. Nhảy vọt
là quá trình tất yếu để chuyển hoá chất cũ thành chất mới trên cơ sở đã tích đủ
lượng. Nhảy vọt là sự đứt đoạn về chất. Còn khâu trung gian với tính cách là
trạng thái tồn tại của sự vật đang trong quá trình nhảy vọt, sự thống nhất biện
chứng giữa sự biến đổi về lượng với sự biến đổi về chất, là sự liên tục của sự đứt đoạn ấy.
Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, có thể thấy tính chất phong phú,
đa dạng của những khâu trung gian trong quá trình thực hiện bước nhảy vọt từ
chất này sang chất khác. Bởi vì:
-Thứ nhất: sự vật không phải chỉ có một chất, mà có vô vàn chất, tương
ứng với tính nhiều chất của sự vật, sẽ có nhiều quá trình lượng - chất khác nhau.
Do đó, trong quá trình phát triển các sự vật sẽ diễn ra những bước nhảy vọt khác
nhau, có bước nhảy vọt lớn, có những bước nhảy vọt nhỏ. Vì vậy, quá trình phát
triển từ chất này sang chất khác sẽ phải thông qua nhiều khâu trung gian khác nhau.
- Thứ hai: nhảy vọt là một quá trình, điều đó có nghĩa, chúng sẽ phải trải
qua nhiều giai đoạn quá độ, những nấc thang phát triển khác nhau, còn qua
những nấc thang nào, điều đó tuỳ thuộc vào bản chất, điều kiện cụ thể của mỗi
sự vật. như vậy, về nguyên tắc giữa sự vật mới và sự vật cũ càng khác xa nhau
về trình độ phát triển thì càng phải trải qua nhiều giai đoạn quá độ và phải thong
qua nhiều khâu trung gian khác nhau để chuyển tiếp.
1.2.2 Khâu trung gian trong quy luật mâu thuẫn 4
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất biện chứng của các mặt đối
lập, trong đó, chúng vừa nương tựa vừa gắn bó với nhau, giả định lẫn nhau, mặt
này lấy mặt kia làm điều kiện tồn tại cho mình, đồng thời vừa triển khai theo
hướng ngược chiều nhau, đấu tranh theo hướng gạt bỏ lẫn nhau. Sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập sẽ dẫn đến chỗ mâu thuẫn được giải quyết, sự
vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay thế.
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại khâu trung gian trong sự tác động,
chuyển hoá và giải quyết mâu thuẫn. Đặc điểm của quá trình giải quyết mâu
thuẫn của các mặt đối lập khi nó đã trở nên chín muồi là ở chỗ “có sự chuyển
hoá từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia”, chúng lại không thể tồn tại tách
rời nhau, mà phải “dung hợp” với nhau trong những hình thức nhất định, có thể
coi khâu trung gian là những thực thể mang mâu thuẫn, trong đó sự dung hợp
của các mặt đối lập đấu tranh với nhau, thực hiện “môi giới” cho sự chuyển hoá
giữa chúng. Vì vậy, nếu sự chuyển hoá của các mặt đối lập là phương thức để
giải quyết mâu thuẫn của sự vật, thì khâu trung gian đóng vai trò là những điều
kiện tất yếu để giải quyết mâu thuẫn.
1.2.3 khâu trung gian trong quy luật phủ định của phủ định
Sự phủ định, theo quan điểm biện chứng không phải là sự xoá bỏ giản đơn
cái này để có cái khác mà phủ định có sự liên hệ, có sự chuyển hoá lẫn nhau
giữa cái cũ và cái mới, cái mới ra đời không phải từ hư vô mà trên cơ sở kế thừa,
lọc bỏ cái cũ để phát triển, còn cái cũ không phải biến mất một cách ngẫu nhiên.
Vì vậy, khâu trung gian đóng vai trò là “mắt khâu” tất yếu trong quá trình cái
mới phủ định cái cũ, ở đây cả cái cũ lẫn cái mới, cả cái khẳng định và cái phủ
định đều tồn tại đan xen nhau, làm thành vòng khâu của những “liên hệ”, những
“vòng khâu của sự phát triển”.
Sự phủ định của phủ định là quá trình thay đổi chất cũ và chất mới, sự
thay đổi ấy tất yếu phải qua những khâu trung gian. Trong quá trình phủ định và
phủ định, sự phủ định thứ nhất sẽ là khâu trung gian giữa cái khẳng định và cái 5
phủ định của phủ định. Bởi vì, về bản chất, cái phủ định lần thứ nhất vừa có
những yếu tố của cái phủ định của phủ định dưới dạng mầm mống, cái đang
phát triển, đồng thời còn có cả những yếu tố cái cũ, cái bị phủ định đang bị lọc
bỏ, đang bị mất đi, thông qua đó, cái cũ và cái mới tác động qua lại lẫn nhau, kế
thừa và lọc bỏ, chuyển hoá cho nhau, để sự vật mới thay thế sự vật cũ.
Sự thay thế giữa sự vật cũ và sự vật mới thông qua quá trình phủ định của
phủ định không phải bằng vứt bỏ mặt này để có mặt kia, mà là quá trình tổng
hợp cả cái khẳng định và cái phủ định trong khâu trung gian, để thực hiện sự kế thừa, lọc bỏ.
Như vậy, khâu trung gian hoàn toàn có cơ sở khách quan trong quá trình
vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan. Vì
vậy, khâu trung gian không chỉ tồn tại phổ biến trong tự nhiên, trong xã hội và
trong ý thức tư tưởng mà còn có vai trò không thể thiếu được trong sự vận động
và phát triển của chúng. Chính điều đó làm cho các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin đặc biệt chú ý đến vấn đề khâu trung gian trong sự phát triển.
Khẳng định vai trò, tính tất yếu của khâu trung gian trong sự phát triển, chủ
nghĩa Mác - Lênin không chỉ phát triển và hoàn thiện thế giới quan duy vật biện
chứng, mà còn vận dụng nó vào trong hoạt động thực tiễn để thúc đẩy mạnh mẽ
quá trình cải tạo thế giới hiện thực.
1.3. Khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
1.3.1 Đặc điểm của khâu trung gian trong sự phát triển xã hội
Theo quan điểm của mác xít, xã hội là bộ phận đặc thủ của thế giới khách
quan, vừa có sự thống nhất với thế giới tự nhiên, vừa có sự khác biệt với thế giới
đó. Vì vậy, khâu trung gian trong sự phát triển xã hội là bộ phận đặc thù của
khâu trung gian trong sự phát triển của thế giới nói chung.
Xã hội phát triển không ngừng, bao gồm nhiều yếu tố, nhiều mặt có quan
hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất. Sự tác động qua lại giữa các
mặt, những yếu tố vốn có, tạo thành những quan hệ có tính quy luật, chi phối sự 6
vận động thường xuyên của chúng. Trong những mối quan hệ ấy nổi lên là quan
hệ giữa LLSX và QHSX. Khi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX sẽ thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển
của LLSX, do đó tất yếu phải thay đổi QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp.
QHSX thay đổi sớm muộn cũng kéo theo một kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Hệ quả tất yếu của việc giải quyết mâu thuẫn trên là một hình thái KT-XH mới
ra đời thay hình thái KT-XH cũ đã lỗi thời. Sự chuyển hoá từ hình thái này sang
hình thái khác của lịch sử xã hội là một quá trình thống nhất giữa tính liên tục và
tính gián đoạn. Đặc tính ấy được thực hiện bởi những khâu trung gian.
Xét theo tiêu chí vĩ mô, xã hội tồn tại trong thời kì quá độ từ hình thái
KT-XH này lên hình thái KT-XH khác về bản chất là một khâu trung gian. Bởi
vì, xét về kết cấu kinh tế - xã hội của nó có sự đan xen kết hợp và đấu tranh giữa
những lực lượng xã hội, những quá trình xã hội có xu hướng phát triển khác
nhau, mang đặc điểm tiêu biểu cho bản chất xã hội cũ và xã hội mới. Xét trên
từng mặt, từng lĩnh vực trong kết cấu xã hội của thời kì quá độ cũng đều có sự
biến đổi về chất, do đó, sự phát triển của chúng tất yếu phải được thể hiện và
được thực hiện thông qua những khâu trung gian, đó là những hình thức phát
triển xã hội mang tính chất trung gian, quá độ.
Khâu trung gian mang những đặc điểm sau:
-Thứ nhất: trong những lĩnh vực xã hội, khâu trung gian là kết quả hoạt
động của con người, biểu hiện mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá
trình hoạt động của họ.
- Thứ hai: khâu trung gian trong sự phát triển xã hội là một trạng thái xã
hội “đặc biệt” trong đó tồn tại cả những yếu tố xã hội cũ chưa mất đi hoàn toàn,
cả những yếu tố xã hội mới đang phát triển nhưng chưa hoàn thiện. Chúng kết
hợp với nhau trong một kết cấu có tính chất tạm thời, hướng tới thủ tiêu từng
bước những yếu tố xã hội cũ, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy sự ra đời của
những yếu tố xã hội mới. 7
- Thứ ba: khâu trung gian là trạng thái xã hội tạm thời, chưa ổn định và
còn thiếu vững chắc trong tổ chức kết cấu, trong khuynh hướng vận động và
phát triển của nó. Đặc điểm đó xuất phát từ tính chất đan xen tồn tại giữa các
yếu tố xã hội cũ và mới, sự chi phối của các quy luật mang bản chất xã hội khác
nhau, của tình trạng mâu thuẫn trở nên đa dạng, phức tạp và gay gắt hơn. Tuy
nhiên, sự thiếu ổn định, mất cân đối thường xuyên vốn có ở khâu trung gian lại
là điều kiện để thúc đẩy sự tiêu vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
Từ những đặc điểm chủ yếu trên đây, khâu trung gian trong sự phát triển
xã hội có thể hiểu là một trạng thái tồn tại của xã hội có tính chất “tạm thời”
hướng tới hình thành chất - lượng mới, trong đó những yếu tố xã hội cũ và mới
đan xen, thâm nhập vào nhau, đấu tranh và chuyển hoá cho nhau, để cho kết cấu
xã hội cũ từng bước bị loại bỏ chuyển sang kết cấu xã hội mới.
1.3.2 Khâu trung gian trong những thời kỳ quá độ trong lịch sử
Lịch sử loài người bắt đầu từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Bước nhảy vọt
đầu tiên về mặt hình thái mà loài người đạt được là từ xã hội cộng sản nguyên
thuỷ lên chế độ chiếm hữu nô lệ. Theo những tài liệu lịch sử, sự quá độ từ hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thuỷ lên những hình thái kinh tế xã hội cao
hơn diễn ra vô cùng chậm chạp và lâu dài tới hàng ngàn năm lịch sử, trải qua
nhiều hình thái xã hội mang tính trung gian quá độ khác nhau, song chủ yếu
nhất, nổi bật nhất trong đó là hình thức tổ chức xã hội công xã nông thôn. Trong
phần “Những hình thức có trước sản xuất tư bản chủ nghĩa” của Bản thảo kinh
tế, viết vào những năm 1857-1859, Mác nêu: “Trong sự vận động lịch sử của
phong trào cổ đại và cận đại, giai đoạn công xã nông thôn xuất hiện như là giai
đoạn quá độ từ sở hữu công cộng sang sở hữu tư nhân, giai đoạn quá độ từ hình
thái thứ nhất sang hình thái thứ hai” (1, tr311). Đặc trưng của công xã nông
thôn là một kiểu tổ chức xã hội dựa trên nên tảng chế độ sở hữu “hỗn hợp” về tư
liệu sản xuất, vừa có yếu tố sở hữu công cộng, vừa có yếu tố sở hữu tư nhân
thuộc về cá nhân các thành viên công xã. Về bản chất, đây là hai kiểu sở hữu đối 8
lập nhau, nhưng lại gắn bó với nhau một cách hữu cơ trong một chế độ kinh tế,
trong đó chúng vừa kết hợp với nhau vừa đấu tranh loại trừ nhau. Về mặt xã hội,
trong công xã có sự phân hoá thành những tầng lớp khác nhau, đối lập và đấu
tranh với nhau. Đó là tầng lớp những cá nhân có đặc quyền, đặc lợi gắn với bộ
máy “tự quản” công xã và những thành viên công xã. Do sự phát triển lâu dài
nền sản xuất của công xã nguyên thuỷ cũng tạo ra được của cải ngày càng dồi
dào hơn, không chỉ đủ dùng mà còn dư thừa đem trao đổi với các cộng đồng thị
tộc khác. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh trong lòng xã hội, ngày càng đòi
hỏi sự ra đời của hình thức quan hệ xã hội phù hợp với sức sản xuất mới đang
phát triển để thay thế quan hệ xã hội cũ. Những mâu thuẫn ngày càng gay gắt và
ngày càng có xu thế làm tan rã công xã thị tộc. Tuy nhiên, do sự phát triển chậm
chạp của lực lượng sản xuất và cuộc đấu tranh giữa những lực lượng xã hội đại
diện cho lợi ích đối lập nhau, đã không thể làm cho hình thức tổ chức công xã
thị tộc biến đổi và mất đi lập tức, mà được thực hiện “dần dần”, “từng bước”
chậm chạp, dưới hình thức xã hội “trung gian” là công xã nông thôn. Sở hữu tư
nhân dần giữ vai trò nền tảng của chế độ công xã. Xã hội phân chia giai cấp và
bắt đầu một chế độ mới - chế độ chiếm hữu nô lệ.
Chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời đánh dấu bước nhảy vọt căn bản từ hình
thái xã hội đầu tiên lên hình thái xã hội thứ hai, từ tình trạng dã man lên tình
trạng văn minh. Ở đây, có thể coi sự tồn tại và phát triển của công xã nông thôn
về bản chất là hình thức xã hội mang tính chất trung gian, quá độ. Đó là điều
Ănghen yêu cầu phải làm rõ được bước quá độ từ thời đại dã man sang thời đại
văn minh, từ hình thức thứ nhất sang hình thức thứ hai.
Cũng chính từ hình thái xã hội đầu tiên này trong những điều kiện lịch sử
khách quan khác, chế độ cộng xã nguyên thuỷ còn phát triển lên những hình thái
kinh tế - xã hội cao hơn bằng một “nhánh” khác so với quá trình diễn ra ở Tây
Âu, Mác gọi đó là phương thức sản xuất Châu Á diễn ra tương đối phổ biến ở
Châu Á và một số nước ở Châu phi, Châu Mỹ. 9
Trong “phương thức sản xuất Châu Á” đã xuất hiện những hình thức xã
hội mang tính chất trung gian, quá độ, đặc trưng của hình thức xã hội này là
“không có sở hữu cá nhân riêng rẽ mà chỉ có chiếm hữu cá nhân, người sở hữu
thực tế, chân chính là công xã, do đó sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở hữu tập
thể về ruộng đất mà thôi” (12, tr.29). Sự phát triển lực lượng sản xuất lâu dài
phá vỡ hình thức kết cấu xã hội, xuất hiện sở hữu tư nhân. Từ một tầng lớp
những “kẻ đại diện cho tập đoàn” (thường là các ông vua chuyên chế, các gia
đình quan trọng nhất của bộ lạc, các thủ lĩnh quân sự…) họ được chiếm hữu cha
truyền con nối đối với sở hữu công xã về đất đai và những tư liệu sản xuất khác,
biến chúng thành vật sở hữu công xã về đất đai và những tư liệu sản xuất khác
chỉ còn là hình thức. Từ đó, bắt đầu xuất hiện những hình thức kinh tế trung
gian, quá độ trước khi phương thức sản xuất phong kiến ra đời, đó là hình thức
kinh tế “điền trang thái ấp” của giai cấp địa chủ, quý tộc.
Như vậy, chế độ công xã nguyên thuỷ đã trải qua khâu trung gian là công
xã nông thôn và kinh tế điền trang thái ấp, để trút bỏ những hình thức cuối cùng
của nó “bỏ qua” chế độ chiếm hữu nô lệ để tiến lên chế độ phong kiến.
Thời kì quá độ thứ hai diễn ra trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân
loại là thời kỳ chuyển hoá từ xã hội chiếm hữu nô lệ lên xã hội phong kiến. Sự
thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến diễn ra khá lâu dài,
phức tạp và tất nhiên đều phải trải qua những khâu trung gian, những hình thức
quá độ để thực hiện sự cải biến từ xã hội nọ lên xã hội kia. Bước chuyển hoá
làm thay đổi chế độ chiếm hữu nô lệ diễn ra như sau: do những mâu thuẫn xã
hội đang diễn ra mà giai cấp chủ nô quý tộc buộc phải thay đổi phương thức tổ
tổ chức sản xuất và bóc lột theo kiểu chiếm hữu nô lệ, bắt đầu bằng việc, họ chia
nhỏ ruộng đất cho những người nông dân thuê để thu lại một phần sản phẩm. Về
sau họ còn áp dụng cả với những người nô lệ và nông nô, dần dần họ thay đổi
hình thức chiếm hữu ruộng đất bằng cách cho người nông dân, hay nông nô thuê
lâu dài, thậm chí còn được sử dụng “cha truyền con nối”. Ở đây, những người
nô lệ từ thân phận phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô đã dần dần được giải phóng 10
một phần hoặc toàn bộ, để trở thành nông nô, hay nông dân tự do. Nghĩa là giai
cấp chủ nô quý tộc đã phải thay đổi phương thức sản xuất và bóc lột dưới hình
thức mới - hình thức bóc lột địa tô phong kiến. Đây là một sự biến đổi về chất.
Từ hình thái kinh tế - xã hội phong kiến lên hình thái kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa là một bước nhảy vọt to lớn trong lịch sử, đánh dấu một thời kỳ
phát triển mới chưa từng có của lực lượng sản xuất. Ở đây, phương thức sản
xuất TBCN được hình thành và phát triển từng bước trong lòng xã hội phong
kiến, từ chính những hình thức kinh tế của PTSX phong kiến như kinh tế trại ấp
phong kiến ở nông thôn và kinh tế phường hội ở thành thị. Kinh tế phường hội
là tổ chức lao động của thợ cả và những người thợ bạn, dựa trên chế độ tư hữu
nhỏ của người lao động, song từ chính quan hệ kinh tế giữa thợ cả và thợ bạn đã
ngầm chứa những mầm mống của phương thức SX TBCN. Quá trình tổ chức,
phân công lao động xã hội diễn ra ngay trong long phường hội phong kiến, sự
tác động mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá TBCN đang hình thành đã dẫn đến
những thay đổi QHSX bên trong vốn rất bảo thủ của kinh tế phường hội, làm
phân hoá sâu sắc quan hệ kinh tế của những người sản xuất nhỏ trong đó. Một số
người thợ cả mở rộng sản xuất và thuê thêm lao động, từ đây những người thợ
bạn đi làm thuê cho thợ cả. Kinh tế phường hội dần biến thành tổ chức “lung
đoạn” của thợ cả bóc lột thợ bạn.
Tuy nhiên, PTSX TBCN chưa thể định hình ngay mà còn trải qua thời kì
quá độ phát triển lâu dài với những khâu trung gian khác nhau, nổi lên đó là các
hình thức hiệp tác đơn giản và công trường thủ công.
Hình thức hiệp tác giản đơn được hình thành do một số chủ xưởng mở
rộng sản xuất, thuê nhân công, đồng thời tổ chức lại sản xuất và phân công lao
động dưới hình thức lao động tập thể và sự chuyên môn hoá sản xuất. Trong
hình thức kinh tế hiệp tác giản đơn, tính chất trung gian, quá độ biểu hiện ở
những đặc điểm: vừa có yếu tố của nền sản xuất nhỏ phân tán, vừa có yếu tố của
nền sản xuất lớn TBCN. Việc nâng quy mô tích tụ tư bản, tập trung tư liệu sản 11
xuất và sức lao động, kết hợp với phân công lao động mở rộng là những “biến
đổi về “lượng”, nhưng so với nền sản xuất hàng hoá nhỏ nó đã tạo ra sức sản
xuất phát triển hơn, năng suất lao động cao hơn, do đó nó là sự thay đổi về chất
so với nền sản xuất cũ.
Quá trình hình thành PTSX TBCN trong lĩnh vực công nghiệp còn phải
trải qua khâu trung gian nữa là công trường thủ công để chuyển lên hình thức
sản xuất công xưởng đại cơ khí. Công trường thủ công là sự tiếp tục biện chứng
của hình thức hiệp tác giản đơn vì nó là sự kết hợp những ưu điểm của hình thức
hiệp tác giản đơn với sự phân công lao động theo chiều sâu, do sự phát triển của
LLSX mới tạo ra. Sự chuyên môn hoá sản xuất như vậy, sẽ tạo điều kiện và tiền
đề cho việc cơ khí hoá sản xuất.
Có thể coi hiệp tác giản đơn và công trường thủ công là những hình thức
giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất phân tán, lạc hậu với sự sản xuất mang tính
xã hội hoá cao của CNTB. Việc giải quyết mâu thuẫn ấy không phải bằng việc
thủ tiêu ngay nền sản xuất cũ để thay thế nền sản xuất mới mà là sự “kết hợp”
giữa chúng với nhau, trong đó chúng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vừa kế thừa
vừa đổi mới, vừa đào thải vừa chọn lọc, làm cho nền sản xuất lớn ngày càng trở
nên chiếm ưu thế. Thông qua đó, phương thức sản xuất TBCN trở thành phương
thức sản xuất thống trị.
Tiếp theo, từ CNTB lên CNXH là bước nhảy vọt vĩ đại nhất trong lịch sử
xã hội loài người, bởi vì đó là một quá trình biến đổi giữa hai hình thái kinh tế -
xã hội khác nhau về bản chất, từ một xã hội dựa trên chế độ tư hữu và bóc lột,
lên một xã hội chủ yếu dựa trên chế độ công hữu, không còn đấu tranh giai cấp,
không còn áp bức, bóc lột đối với con người. Một cuộc cách mạng như vậy tất
yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ (TKQĐ) lâu dài, phức tạp, để từng bước cải
biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Bước nhảy vọt từ CNTB lên CNXH là một quá trình biến đổi cách mạng
toàn diện của những xã hội đối lập nhau về bản chất, do đó ở những khâu trung 12
gian, các yếu tố tiêu biểu của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội cũ và mới đan xen
tồn tại, vừa triển khai theo hướng bài trừ, xung đột và đấu tranh với nhau nhiều
hơn là sự hài hoà thống nhất. Cho nên, quá trình cải biến cách mạng ở đây diễn
ra phức tạp, dai dẳng hơn, quanh co hơn rất nhiều so với những thời kì quá độ
khác. Điều đó cho thấy, việc nhận thức và vận dụng khâu trung gian trong khi
tiến hành cải tạo XHCN không được để rơi vào chủ quan duy ý chí, nôn nóng,
đốt cháy giai đoạn, mà phải vận dụng sáng tạo những khâu trung gian, các bước
quá độ phức tạp để thúc đẩy sự tiêu vong cái cũ và sự ra đời cái mới phù hợp
quy luật khách quan. Quá trình cải biến cách mạng cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới chỉ bắt đầu từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền nhà nước,
mặc dù đã xuất hiện những tiền đề trong lòng xã hội cũ.
Như vậy, xuất phát từ quan điểm biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
về sự phát triển, từ những thành tựu khoa học, kỹ thuật và thực tiễn cho phép
khẳng định vai trò tất yếu của khâu trung gian trong sự phát triển của thế giới
khách quan đặc biệt là trong thời kỳ chuyển biến từ hình thái kinh tế - xã hội này
lên hình thái kinh tế - xã hội khác. Vì vậy, khâu trung gian không những được
thừa nhận như một yếu tố vốn có của phép biện chứng duy vật, mà còn có ý
nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
2. VẬN DỤNG KHÂU TRUNG GIAN TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI
MỚI NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Sự cần thiết sử dụng khâu trung gian để đổi mới nền kinh tế trong
thời kỳ quá độ ở nước ta
2.1.1 Chính sách kinh tế mới của Lênin - cơ sở lý luận và phương pháp
luận để nhận thức và vận dụng khâu trung gian đưa nền kinh tế lạc hậu lên CNXH
Trong hệ thống các di sản của chủ nghĩa Mác - Lênin để lại, chính sách
kinh tế mới (NEP) do Lênin vạch ra cho nước Nga thực hiện sự quá độ lên 13
CNXH từ mùa xuân 1921 vẫn còn ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng XHCN hiện nay của nước ta.
Thời kì quá độ lên CNXH ở nước Nga theo Lênin là thời kỳ lịch sử tương
đối lâu dài, ở thời kỳ này sẽ tồn tại nhiều hình thức kinh tế, trong đó kinh tế tư
bản nhà nước là một bộ phận quan trọng, là khâu trung gian mà nhà nước
chuyên chính vô sản cần nắm lấy, sử dụng chúng làm con đường, phương thức,
phương tiện đưa nền sản xuất nhỉ lên CNXH. Như vậy vấn đề CNTB nhà nước
mà Lênin đưa ra trong NEP thực chất là sự vận dụng phép biện chứng của thời
kỳ quá độ, là sự vận dụng lý luận về khâu trung gian.
Vận dụng CNTB nhà nước là thể hiện sinh động, cụ thể quy luật phù hợp
giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trên cơ sở kết hợp giữa sự phục
hồi, phát triển LLSX với việc cải tạo từng bước không ngừng QHSX cũ, xác lập
QHSX mới của CNXH. Đồng thời đó cũng là quá trình xã hội hoá nền sản xuất
nhỏ dựa trên những tất yếu kinh tế, phù hợp với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Thực hiện CNTB nhà nước trong TKQĐ lên CNXH, Lênin đã vận dụng
xuất sắc phép biện chứng duy vật để giải quyết những nhiệm vụ chính trị thực
tiễn, tìm ra khâu trung gian để giải quyết mâu thuẫn, kết hợp các mặt đối lập và
chuyển hoá lên hình thức cao hơn. Đó là sự kết hợp giữa việc sử dụng CNTB, kế
thừa và phát huy những yếu tố tích cực, hợp lý của nó với việc cải tạo CNTB,
lọc bỏ và hạn chế tối đa những khuyết tật vốn có của nó, là sự kết hợp giữa tự do
phát triển với sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ, giữa tính tự phát vô chính phủ, với
tính kế hoạch hoá một cách chủ động, tự giác của xã hội, là sự kết hợp giữa lợi
ích cá nhân và xã hội, tư nhân và nhà nước… Đây chính là mẫu chốt của vấn đề
vì sao phải phát triển CNTB nhà nước để đi lên CNXH trong NEP của Lênin.
Từ đây, Lênin vạch ra một số hình thức cụ thể của CNTB nhà nước áp dụng
trọng những năm đầu của chính quyền xô viết như: hình thức tô nhượng, hình 14
thức sử dụng các chuyên gia tư sản, hình thức công ty hợp doanh, chế độ hợp tác xã.
Trên tinh thần những tư tưởng cơ bản của NEP có thể rút những vấn đề có
ý nghĩa lý luận và phương pháp luận phổ biến trong việc xác định con đường
quá độ lên CNXH đối với các nước mà nền kinh tế phổ biến sản xuất nhỏ như nước ta như sau:
Thứ nhất, ý nghĩa to lớn về mặt lý luận của NEP là ở chỗ nó khẳng định
rằng, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ còn phổ biến đi lên CNXH
bỏ qua chế độ TBCN nhất định phải trải qua một TKQĐ lâu dài, phức tạp, với
sự tồn tại của kết cấu kinh tế xã hội nhiều thành phần có bản chất khác nhau, tồn
tại đan xen và đấu tranh với nhau, vừa hạn chế, vừa thúc đẩy lẫn nhau. Trong
đó, thành phần kinh tế của CNXH sẽ từng bước phát triển và giữ vai trò chủ đạo.
nền kinh tế trong TKQĐ là nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, theo cơ chế
thị trường có sự kiểm soát và điều tiết của nhà nước XHCN.
Thứ hai, để đảm bảo định hướng nền kinh tế quá độ lên CNXH, đòi hỏi
khách quan là phải xác lập được vai trò thống trị của nhà nước vô sản đối với
nền kinh tế, tức là phải thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát chặt chẽ bằng các chính
sách, pháp luật và bằng các tiềm lực kinh tế của nhà nước, để tác động mạnh mẽ
đối với các thành phần kinh tế, nhằm định hướng chúng phát triển có hiệu quả,
từng bước đáp ứng những yêu cầu mục tiêu xã hội. Sự kiểm kê, kiểm soát của
nhà nước đối với nền kinh tế là nhân tố quyết định địa vị thống trị của CNXH
trong cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng tự phát TBCN và khuynh hướng
XHCN. Vì vậy, quá trình phát triển kinh tế đòi hỏi phải thường xuyên củng cố
và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của nhà nước vô sản.
Thứ ba, qua NEP, Lênin không chỉ đặt nền móng cho lý luận về CNXH
và con đường đi lên CNXH ở những nước kinh tế còn phổ biến lạc hậu, mà đó
còn là mẫu mực của việc vận dụng phương pháp biện chứng cách mạng và khoa 15
học nhất để thực hiện và vận dụng quy luật khách quan tiến hành cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới. Đó là sự phân tích những mối liên hệ có tính quy
luật giữa các mặt, các lĩnh vực khác nhau của xã hội, phân tích mâu thuẫn trong
TKQĐ, tìm ra những hình thức, những biện pháp phù hợp để tác động và giải
quyết mâu thuẫn, thúc đẩy sự phát triển.
2.1.2 Đặc điểm của sự nhận thức và vận dụng khâu trung gian trong quá
trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước. Để chuyển hoá các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản chủ
nghĩa, sản xuất hàng hoá nhỏ lên CNXH, cần thiết phải nhận thức và vận dụng
các hình thức kinh tế trung gian, quá độ sau đây: chủ nghĩa tư bản nhà nước; kinh tế hợp tác…
2.2 Những vấn đề đặt ra trong nhận thức và vận dụng một số hình
thức kinh tế trung gian để phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay
Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế trong thời kì quá độ ở nước ta là nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước. Để chuyển hoá các thành phần kinh tế tư nhân, TBCN, sản xuất
nhỏ lên CNXH cần phải nhận thức và vận dụng các hình thức kinh tế trung gian, quá độ sau:
- Thứ nhất: CNTB nhà nước.
CNTB nhà nước theo nghĩa chung nhất là một kiểu tổ chức sản xuất, được
hình thành do sự dung hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản, nhằm phát huy sức
mạnh của CNTB với sức mạnh tập trung của nhà nước. Sự tồn tại CNTB nhà
nước trong TKQĐ lên CNXH là sự tiếp tục biện chứng của CNTB hà nước
trong chế độ TBCN, bởi vì, trong thời kì quá độ lên CNXH, GCVS phải tiến
hành xoá bỏ chế độ TBCN và xác lập chế độ XHCN. Để làm được việc đó tất 16
yếu phải sử dụng CNTB nhà nước như một khâu trung gian để từng bước xoá bỏ
các quan hệ kinh tế cũ và xác lập các quan hệ kinh tế mới.
CNTB nhà nước trong TKQĐ là hình thức kinh tế quá độ, trong đó có sự
kết hợp giữa những mặt, những yếu tố có bản chất đối lập nhau, giữa lợi ích cá
nhân và lợi ích nhà nước; giữa có chế thị trường tự phát TBCN và sự tác động
một cách tự giác có kế hoạch của nhà nước nhằm kế thừa, phát triển LLSX, xã
hội hoá nền kinh tế, tạo điều kiện để phương thức sản xuất mới của CNXH hình
thành và phát triển. CNTB nhà nước do đó được coi là một kiểu sản xuất xã hội
đặc thù, khâu trung gian để đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN, là con
đường để thực hiện quá đôj lên CNXH ở một nước tiểu nông chiếm ưu thế, đồng
thời là một thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở nước ta hiện nay.
Hiện nay, việc nhận thức và vận dụng CNTB nhà nước ở nước ta đặt ra
nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp cần giải quyết, cụ thể là: những biểu hiện lệch
hướng (gian lận, trốn thuế, vi phạm pháp luật của các doanh nghiệp kinh tế tư
bản nhà nước…); nhập khẩu công nghệ không đạt yêu cầu; cơ cấu đầu tư bất
hợp lý; kinh tế nhà nước còn gặp nhiều khó khan, nhiều yếu kém, chưa thể hiện
được vai trò chủ đạo; cơ chế quản lý còn lạc hậu, tình trạng quan liêu, tham
nhũng trong các doanh nghiệp nhà nước…
- Thứ hai: kinh tế hợp tác
Kinh tế hợp tác là một tổ chức kinh tế tự chủ, liên kết tự nguyện của
người lao động, kết hợp sức mạnh tập thể và sức mạnh của từng thành viên, để
giải quyết có hiệu quả hơn những vấn đề sản xuất kinh doanh và đời sống. Cơ sở
nền tảng của kinh tế hợp tác là chế độ sở hữu hỗn hợp giữa sở hữu tập thể và sở
hữu cá nhân, hoạt động tập trung, thống nhất, dân chủ, bình đẳng. Tuỳ theo mức
độ xã hội hoá tư liệu sản xuất và hoạt động, kinh tế hợp tác được thể hiện dưới
những hình thức khác nhau: tổ kinh tế hợp tác, kinh tế hợp tác, liên hiệp HTX, hiệp hội ngành nghề… 17
Để đưa người sản xuất nhỏ lên CNXH đòi hỏi phải thực hiện một loạt
những nguyên tắc đúng đắn. Mác, Ănghen, Lênin đã chỉ ra những quan điểm lý
luận và phương pháp luận mang tính nguyên tắc của quá trình hợp tác hoá là:
nguyên tắc tự nguyện; có sự giúp đỡ của nhà nước vô sản; tiến hành từng bước…
Chuyển sang thời kỳ đổi mới, thời kỳ phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN, cùng với sự chuyển đổi mô hình HTX cũ, nhiều hình thức kinh tế
hợp tác đã và hình thành và phát triển ở nước ta là: hình thức tổ kinh tế hợp tác,
hình thức hợp tác xã, mô hình liên kết sản xuất kinh doanh…
Qua thực tiễn xây dựng chế độ kinh tế hợp tác ở nước ta thời kỳ đổi mới
cũng như hiện nay, có thể rút ra những vấn đề có tính quy luật sau:
+ Quá trình hình thành và phát triển của kinh tế hợp tác phải trên cơ sở
của nền sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường. Nền sản xuất hàng hoá và cơ
chế thị trường càng phát triển càng tạo những tiền đề và điều kiện cho hợp tác ra
đời và phát triển, thực hiện hai chức năng cơ bản của nó là chức năng kinh tế và chức năng xã hội.
+ Hợp tác hoá phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền sản xuất xã hội
+ Đưa những người sản xuất nhỏ lên CNXH thông qua con đường HTX
phải có sự hỗ trợ và sự định hướng của nhà nước và kinh tế nhà nước.
2.3 Một số giải pháp chủ yếu đảm bảo định hướng XHCN trong quá
trình nhận thức và vận dụng khâu trung gian
- Thứ nhất: tiếp tục đổi mới nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH, nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ.
Đây là cơ sở lý luận quan trọng để nhận thức và vận dụng có hiệu quả,
đúng định hướng các hình thức kinh tế quá độ, nhằm chuyển hoá nền kinh tế 18
nước ta lên CNXH. Trong sự nghiệp đổi mới vừa nắm vững đường lối chung về
mục tiêu, con đường đi lên CNXH vừa phải nhận thức và thực hiện có kết quả
những bước đi, những giải pháp và hình thức cụ thể. Để tiếp tục phát triển lý
luận về con đường đi lên CNXH cần tập trung các giải pháp như: tập trung tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thường xuyên giáo dục bồi dưỡng lý luận,
nâng cao năng lực tư duy khoa học cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, nhất
là cán bộ trong các cơ quan quản lý nhà nước; khắc phục những hạn chế trong
phương pháp tư duy đặc biệt là bệnh giáo điều, kinh nghiệm.
- Thứ hai: nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý của nhà nước.
Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển các thành phần kinh tế,
thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát và định hướng hoạt động của chúng theo mục
tiêu xã hội; cải cách hệ thống pháp luật, các chính sách khuyến khích và quản lý
đầu tư trong và ngoài nước; nâng cao vai trò của nhà nước, đổi mới và hoàn
thiện công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân; đổi mới tổ chức bộ máy nhà
nước, đảm bảo quản lý có hiệu lực và hiệu quả đối với các hình thức kinh tế trung gian, quá độ.
- Thứ ba: phát huy dân chủ, nâng cao tính tích cực tự giác của nhân dân
lao động trong các thành phần kinh tế trung gian, quá độ.
Phát huy dân chủ trước hết phải tạo điều kiện để cá nhân, tập thể tự do sản
xuất kinh doanh theo khả năng và khuôn khổ pháp luật của nhà nước; phát huy
dân chủ đòi hỏi phải nâng cao tính tích cực tự giác của quần chúng nhân dân;
bồi dưỡng phát huy nhân tố con người tạo điều kiện để sử dụng tốt các hình thức
kinh tế trung gian quá độ, chăm lo giáo dục đào tạo nhân lực, nhân tài cho các thành phần kinh tế.
- Thứ tư: củng cố, đổi mới và phát huy vai trò của kinh tế nhà nước để
phát triển và sử dụng có hiệu quả các hình thức kinh tế trung gian, quá độ.
Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển kinh tế nói
chung và sử dụng, phát triển các hình thức kinh tế trung gian, quá độ nói riêng 19
theo định hướng XHCN. Việc củng cố và đổi mới nền kinh tế nhà nước là
hướng vào khắc phục những khuyết điểm cản trở sự phát triển của nó nên cần
những giải pháp cụ thể để kinh tế nhà nước thực hiện được vai trò của nó đối với
việc định hướng sự phát triển của các hình thức kinh tế trung gian, quá độ như:
tổ chức, sắp xếp lại hệ thống các doanh nghiệp nhà nước dựa trên sự phân loại
về vai trò, khả năng phát triển của mỗi loại hình doanh nghiệp; tập trung năng
lực sản xuất hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, được đầu tư vốn, công nghệ, kỹ
thuật hiện đại đủ sức cạnh tranh mạnh để thực hiện vai trò chủ đạo chi phối và
dẫn dắt các thành phần kinh tế tư nhân và tư bản nhà nước lên CNXH; đổi mới
quan hệ kinh tế cũ đang cản trở hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước…
- Thứ năm: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các hình thức kinh
tế trung gian, quá độ.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hình thức kinh tế trung gian, quá độ
trước hết ở sự định hướng chính trị. Đảng vạch đường lối, chiến lược, chủ
trương, chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triển có hiệu quả, đúng định hướng
XHCN. Đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự phát triển nền kinh tế và
đối với các hình thức kinh tế quá độ nói riêng. Không chỉ thể hiện trong việc xác
định đường lối, chủ trương, chính sách mang tính định hướng chung mà còn
phải xác lập, củng cố và tang cường thường xuyên vai trò lãnh đạo của Đảng
trong các tổ chức kinh tế. Đảng phải nắm chắc công tác cán bộ, sự lãnh đạo kinh
tế của Đảng chỉ đạt được hiệu quả cao khi có đội ngũ đảng viên gương mẫu,
luôn biết làm giàu trí tuệ của mình bằng những hiểu biết cần thiết. 20