Khổ Đế gì? Chân của khổ đế gì?
Đó Khổ Đế: đó linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, ánh sáng
đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. Khổ Đế phải
được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó linh kiến, sự tự chứng,
trí tuệ, sự nhận biết, ánh ng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng
nghe thấy trước đây. Khổ Đế đã được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái
khổ: đó linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, ánh sáng đã nảy
sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. [ Kinh Tương Ưng
Bộ, LVI, 11]
Khổ Đế ba luận điểm: 'Đó khổ (dukkha). Dukkha phải được hiểu.
Dukkha đã được hiểu.
Đây là một lối dạy thiện xảo bởi được diễn tả bằng một công thức đơn
giản dễ nhớ, đúng cho mọi thứ bạn thể làm, suy nghĩ hoặc trải
qua, liên quan đến quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
Khổ hay dukkha cái ràng buộc chung tất cả chúng ta phải chịu. Mọi
người mọi nơi đều phải chịu đau khổ. Nhân loại đã đau khổ trong quá khứ,
thời ấn Độ cổ; h đau kh trong hội Anh hiện đại; trong tương lai, nhân
loại sẽ còn chịu đau khổ nữa ... Chúng ta chung với Nữ Hoàng
Elizabeth? - chúng ta đau khổ. Với một gái bán thân Charing Cross,
chúng ta chung? - đau khổ. Đau khổ bao gồm tất cả giai tầng từ những
người thuộc giai cấp thượng lưu cho đến những người thuộc tầng lớp bần
hàn cùng kh nhất trong hội, tất cả những giai tầng khác giữa. Mọi
người mọi nơi đều phải chịu đau khổ. Đau kh một sự liên kết giữa
chúng ta với nhau, điều tất cả chúng ta đều hiểu.
Nỗi khổ của con người thường đem lại cho ta xu hướng của lòng từ bi.
Nhưng khi chúng ta bàn luận về quan điểm của mình, về những tôi nghĩ
những bạn nghĩ về chính trị tôn giáo, thì chúng ta lại gây chiến với nhau.
Tôi nhớ xem một cuốn phim Luân Đôn cách đây khoảng mười năm.
Cuốn phim này t người Nga như những con người thật sự bằng ch
chiếu cảnh sinh hoạt của những người phụ nữ Nga với những trẻ sanh
những người đàn ông Nga dắt con đi chơi. Vào giai đoạn này, sự trình bày về
người Nga như thế rất lạ bởi đa số những tuyên truyền của phương tây
đều phơi bày họ như những con quái vật hoặc loại người lạnh lùng nhẫn
tâm hoặc như loài sát - như vậy để bạn không bao giờ nghĩ về họ như
những con người. Nếu bạn muốn giết người, bạn phải coi họ như vậy. Bạn
phải nghĩ rằng h nhẫn tâm, luân, không xứng đáng xấu xa, tốt hơn
nên tiêu diệt họ. Bạn phải nghĩ rằng họ ác độc đó điều tốt để diệt trừ sự
ác độc. Với thái độ y, biết đâu bạn lại cảm thấy đúng trong việc dội bom
hoặc xử bắn họ. Nếu bạn cứ nghĩ về cái ràng buộc chung của sự đau khổ,
bạn sẽ không làm được những điều trên.
Khổ Đế không phải một thuyết suông siêu hình yếm thế cho rằng mọi thứ
đều đau khổ. Cần ghi nhận rằng Diệu Đế đã được đối chứng trong khi một
học thuyết siêu hình thường đề cập đến sự Tuyệt Đối. Diệu Đế một sự thật
để đối chiếu; không phải là một điều tuyệt đối; cũng không phải sự Tuyệt
Đối. Đây chính chỗ người Tây Phương hay nhầm lẫn bởi họ diễn dịch
Diệu Đế này như một loại chân suông của Phật Giáo - nhưng không
bao giờ nghĩa như vậy.
Bạn thể thấy rằng Diệu Đế Thứ Nhất (Khổ Đế) không phải một lời tuyên
bố tuyệt đối Diệu Đế Thứ (Đạo Đế), đường dẫn tới lìa khổ. Bạn
không th nào đau kh một cách tuyệt đối để rồi thoát ra khỏi nó, phải thế
không? Điều đó không hợp lý. Tuy vậy người dựa vào Diệu Đế Thứ Nhất
nói Đức Phật đã dạy rằng mọi thứ đều đau khổ.
Tiếng Pali, dukkha, nghĩa 'không khả năng thỏa mãn' hay 'không thể
nào chịu đựng được bất cứ điều gì'. Sự đời luôn luôn thay đổi, không khả
tính thành đạt hoặc đem lại cho ta hạnh phúc viên mãn. Thế giới dục vọng
như vậy, một sự rung động tự nhiên. Thật ra, luôn luôn tìm được sự thỏa mãn
trong thế giới giác quan là một điều rất khủng khiếp, như vậy chúng ta đã
không cần tìm kiếm xa hơn nữa; chúng ta đã bị ràng buộc vào nó. Tuy vậy,
khi chúng ta thức tỉnh về sự đau khổ này, chúng ta bắt đầu tìm thấy lối ra để
không còn bị giam hãm mãi bên trong cái tri giác hạn hẹp của chính mình.
1. Đau Kh và N Tưởng
Điều quan trọng đây nhìn lại cấu trúc của Diệu Đế Thứ Nhất. Nó được
phân câu một cách rõ ràng: 'Có sự đau khổ', thay nói, 'Tôi khổ'. Về mặt tâm
lý, đó còn một sự quán chiếu thiện xảo. Chúng ta khuynh hướng diễn
đạt sự đau khổ của chúng ta như 'Tôi đang thực sự đau khổ. Tôi khổ nhiều -
tôi không muốn khổ'. Đây chiều hướng suy nghĩ theo thói quen cố hữu
của ta.
'Tôi đang đau khổ' luôn luôn truyền dẫn cái nghĩa 'Tôi người đang đau khổ
nhiều. Cái đau khổ này thuộc về tôi; tôi đã từng chịu nhiều đau khổ trong cuộc
đời'. Cứ n vậy cả cái quá trình liên tưởng giữa bản ngã ức lại khởi sự.
Bạn nhớ lại những đã xảy ra từ khi bạn n là một đứa trẻ sanh ...
cứ như thế tiếp diễn.
Nhưng lưu ý, chúng ta không nói rằng người đang chịu đau khổ. Sự đau
khổ không còn tính cách nhân khi ta nhìn nó như 'Có đau khổ'. Cái nhìn
đó không còn là: 'Ôi thật khổ tôi, tại sao tôi phải khổ nhiều vậy? Tôi làm
phải chịu đựng hậu quả n thế? Tại sao tôi phải già đi thế này? Tại sao tôi
phải chịu buồn rầu, đau đớn, thương tiếc tuyệt vọng? Không công bằng!
Tôi đâu muốn điều đó. Tôi chỉ muốn hạnh phúc sự an toàn'. Cách suy
nghĩ này dẫn dắt bởi minh đã làm rối ren mọi thứ đồng thời tạo ra
những vấn đề thuộc về nhân tính.
Muốn lìa khổ, chúng ta phải thừa nhận đau khổ trong ý thức. Nhưng sự thừa
nhận trong pháp tu thiền của Phật Giáo không phải từ khía cạnh: 'Tôi đang
đau khổ' 'Có sự hiện diện của đau khổ, bởi chúng ta không cố gắng
nhận ra vấn đề chỉ đơn giãn công nhận rằng đau khổ hiện diện. 'Tôi
một người sân; tôi ng giận rất dễ dàng; làm sao tôi bỏ được nó?' một lối
suy nghĩ không khéo o, không uyển chuyển - gây ra mọi thừa nhận
ngấm ngầm tính cách phản quan tự kỷ của bản ngã như thế rất khó
nắm được bất cứ một thực trạng nào về vấn đề 'khổ' đó. Những suy nghĩ này
trở nên rất lộn xộn bởi cái ý nghĩa của những vấn đ của tôi hay cái suy
nghĩ của tôi dễ dàng dẫn dắt chúng ta tới sự đè nén hoặc tới những sự phán
xét tự chỉ trích lấy mình. Chúng ta khuynh hướng chụp bắt nhận ra
hơn quan sát, chứng kiến hiểu được vấn đề đúng như đang là. Ngay
khi bạn thừa nhận rằng cái cảm giác lẫn lộn này, rằng cái tham, cái sân,
thì lập tức một cái nhìn trung thực về như thế bạn đã loại tr được
những tự phụ tiềm ẩn - hoặc ít ra đã làm lung lay được nó.
Như vậy đừng nắm lấy vấn đề như những lỗi lầm nhân mà phải coi những
điều kiện này thường, bất toại nguyện ngã. Cứ tiếp tục nhìn nhận
mọi việc như đang là. Khuynh hướng của ta đây nhìn cuộc đời theo
nghĩa ây những vấn đề của ta', điều đó một sự thừa nhận rất trung
thực, thẳng thắn. Như thế cuộc sống của chúng ta khuynh hướng
xác nhận lại điều đó bởi chúng ta luôn hành xử t những thừa nhận sai
lầm. Nhưng ngay cái quan điểm đó đã là thường, bất toại nguyện
ngã.
'Có đau khổ' một sự chấp nhận ràng, chính xác rằng chính lúc này,
một cảm giác không ổn không vui. Đau khổ dàn trải từ sự thống khổ tuyệt
vọng cho đến cái bực mình vụn vặt; dukkha không nhất thiết nghĩa phải
đau khổ trầm trọng. Bạn không cần phải bị hành hung tàn bạo bởi cuộc đời;
bạn không phải đến từ trại tập trung Auschwitz hoặc Belsen đ nói rằng
đau khổ. Ngay cả Nữ Hoàng Elizabeth thể nói, 'Có đau khổ'. i chắc rằng
ta những giây phút thống khổ tuyệt vọng hay, ít ra, những giây phút
của sự bực bội.
Thế giới giác quan một kinh nghiệm nhạy cảm. Nghĩa lúc nào bạn cũng
phải đứng trước khoái lạc, đau đớn thuyết nhị nguyên của vòng sanh tử
luân hồi (samsara). Chúng ta n đang sống trong một trạng thái rất dễ
đổ vở đồng thời phải giao tiếp với tất cả mọi sự vật những giác quan
của chúng. Quy luật chung là thế. Đó kết quả của sinh.
2. S Chi B Đau Kh
Đau khổ cái ta thường không muốn biết - chúng ta chỉ muốn loại trừ nó.
Ngay khi bất cứ một sự bất tiện hay bực mình, một người chưa thức tỉnh
khuynh hướng loại trừ hoặc đè nén nó. Bạn thể thấy tại sao hội hiện
đại ngày nay bị thu hút o sự tìm kiếm khoái lạc vui sướng trong những
cái mới, hấp dẫn khêu gợi. Chúng ta khuynh hướng chú trọng vào
cái đẹp sự thỏa thích của tuổi trẻ trong khi những mặt xấu của cuộc đời -
già nua, bệnh tật, chết chóc, chán nản, tuyệt vọng phiền nảo, bị gạt qua
một bên. Khi ta thấy những không thích, ta cố gắng lánh xa để đến với
những ta thích hơn. Nếu ta cảm thấy chán nản, ta đến với những gì thú vị.
Nếu ta cảm thấy sợ sệt, ta tìm ch an toàn. Đây một điều hoàn toàn tự
nhiên. Chúng ta bị gắn liền với cái quy luật sung sướng/đau khổ đang bị thu
hút hoặc đẩy lùi. Như vậy nếu tâm trí còn sung mãn còn tiếp thu được,
khuynh hướng lựa chọn - thâu thập những thích cố gắng đè nén
những không thích. Nhiều kinh nghiệm của chúng ta bị đè nén bởi đôi
khi nhiều cái khó chịu chúng ta không thể nào tránh khỏi liên lụy.
Nếu bất cứ sự khó chịu nào phát sinh, chúng ta tự nhủ, 'Trốn ch khác!'. Nếu
ai cản trở, chúng ta tự nhủ, 'Giết nó!'. Khuynh hướng này rất ràng trong
những được thực hiện bởi chính quyền của nhiều nước.... Nghe vẻ
khủng khiếp, phải không bạn? Khi bạn nghĩ về loại người lãnh đạo đất nước
của chúng ta - bởi họ vẫn còn rất minh chưa giác ngộ. Nhưng lề thói
chung thế. Đầu óc minh nghĩ đến sự hủy diệt: 'Đây một con muỗi; giết
nó!', 'Mấy con kiến này đang bò lan phòng; xịt với thuốc trừ kiến!'.
một công ty Anh n Giết-Mướn (Rent-To-Kill). Tôi không biết đó phải
một loại tổ chức mafia của Anh hay không, nhưng họ chuyên môn giết
những sinh vật hại - tùy bạn muốn diễn dịch thế nào 'sinh vật hại'.
3. Đạo Đức và T Bi
Đó do tại sao chúng ta phải giới luật như, 'Tôi sẽ kiêng sát sanh', bởi
bản năng tự nhiên của chúng ta giết: nếu gây cản trở, giết nó. Bạn
thể thấy được điều y trong thế giới loài vật. Bản thân con người chúng ta
giống săn mồi; chúng ta nghĩ chúng ta văn minh nhưng chúng ta một lịch
sử đẫm máu - nói một cách chính xác. Một lịch sử đã được tích lũy bằng
những sự giết chóc không ngừng cùng với những sự biện minh cho tất cả
những loại tội lỗi gây ra cho đồng loại - đó chưa kể đến loài vật - tất cả
những điều đó bắt nguồn từ sự minh này, sự khinh suất, lương tâm của
con người đã xúi giục chúng ta tàn sát những cản trở chúng ta.
Tuy vậy, với một sự xét lại chúng ta đang tạo ra một sự chuyển hóa; chúng ta
đang vượt qua cái bản năng thú tánh đó. Chúng ta không phải chỉ những
người nhìn tuân theo luật pháp của hội, sợ giết người bởi chúng ta
sợ bị trừng phạt. Hiện tại chúng ta đang thật sự nhận lấy trách nhiệm. Chúng
ta tôn trọng đời sống của những sinh vật khác, ngay cả đời sống của loài n
trùng những sinh vật chúng ta không thích. Không ai thích muỗi hoặc kiến,
nhưng chúng ta nên xét lại ghi nhận rằng chúng cũng quyền sống. Đó
sự xét lại của trí tuệ; không phải chỉ một phản ứng: 'Đồ xịt côn trùng đâu?'.
Tôi cũng không thích thấy kiến ngổn ngang trên sàn của tôi; phản ứng đầu
tiên của tôi là: 'Đồ xịt côn trùng đâu?'. Nhưng rồi tưởng xét lại chỉ cho tôi
thấy rằng mặc dầu những sinh vật này đang làm phiền tôi tôi thật cứ muốn
chúng đi chỗ khác, chúng cũng quyền tồn tại. Đó một sự quán chiếu của
trí tuệ.
Điều này cũng đúng với những trạng thái khó chịu của tinh thần. Như vậy khi
bạn đang cảm thấy nóng giận, thay nói: 'à, đây mình lại sân nữa rồi!' chúng
ta xét lại: 'Có sân'. Nỗi lo sợ cũng vậy - nếu bạn bắt đầu thấy như nỗi lo sợ
của cha hay mẹ mình, nỗi lo sợ của con chó hay nỗi lo sợ của chính bạn, tất
cả những nỗi lo này lúc giống nhau, lúc không giống nhau điều đó
khi rất khó hiểu. Tuy vậy, nỗi lo sợ trong bản th này nỗi lo sợ trong con
chó bẩn thỉu kia ng chỉ giống nhau. 'Có lo sợ'. Đơn giản thế thôi. Nỗi lo
sợ tôi cảm nhận được không khác nỗi lo sợ những người khác . Đó
chỗ chúng ta lòng từ bi ngay cả cho những con chó c. Chúng ta
hiểu rằng nỗi lo sợ đó cũng khủng khiếp cho con chó như chính cho chúng ta.
Khi một con chó bị đá mạnh với một chiếc giày bạn bị đá mạnh với một
chiếc giày, cái cảm giác đau đớn đó cũng giống nhau thôi. Đau đớn đau
đớn, lạnh lạnh, sân sân. Đau đớn không thuộc về tôi chỉ là: 'Có đau
đớn'. Đây một lối duy thiện xảo giúp ta thấy mọi sự việc rõ ràng, hơn
củng cố quan điểm nhân. Kết quả của sự nhận ra trạng thái của đau khổ -
rằng đau khổ - sự tự chứng thứ nhì của Khổ Đế. 'Đau khổ phải được
hiểu'. S đau khổ này phải được khảo cứu.
4. Để Kho Cu S Đau Kh
Tôi khuyên các bạn cố gắng tìm hiểu thêm về đau khổ (dukkha): để thực sự
nhìn thấy nhận lấy nỗi khổ của bạn. Cố gắng hiểu khi bạn cảm thấy đau
đớn về thể c, tuyệt vọng thống khổ hoặc thù hằn ghét bỏ - dưới
bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ mức độ nào, quá trớn hay chừng
mực. Lời khuyên này không nghĩa để được giác ngộ bạn phải chịu đau
khổ một cách bi ai, ng cực. Bạn không phải bị tước đoạt hết mọi thứ hay bị
tra tấn trên giá hành hình; nghĩa khả năng thể nhìn thấy hiểu được
đau khổ, ngay cả nếu đau khổ chỉ một cảm giác thoáng qua của sự không
bằng lòng.
Rất d tìm thấy một sự bào chữa cho những vấn đề của chúng ta. 'Nếu mẹ tôi
đã thực sự thương i hoặc nếu mọi người xung quanh tôi đã thực sự khôn
khéo, hy sinh một ch đầy đủ trong việc chu cấp một môi trường hoàn chỉnh
cho tôi, tôi đã không những vấn đề thuộc về cảm xúc như bây giờ'. Điều
này nghe thật lý! Tuy vậy đó cách một số người đã thực sự nhìn đời,
nghĩ rằng họ thấy lúng túng khổ sở bởi thế giới đối xử bất công đối với
họ. Nhưng với phương thức này của Khổ Đế, ngay cả nếu chúng ta đã
một đời sống thật đau khổ, điều chúng ta đang nhìn thấy không phải là sự
đau khổ đến từ đó, mà những chúng ta tạo ra trong tâm trí của chúng ta
xung quanh nó. Đây một sự thức tỉnh của con người - một sự giác ngộ đến
với chân về đau khổ. đó một chân kỳ diệu bởi không còn đổ
lỗi cho những người khác về cái đau khổ ta đang phải gánh chịu. Như vậy,
cách giải quyết vấn đề của đạo Phật rất độc đáo so với những tôn giáo
khác bởi Đạo Phật chú trọng con đường dẫn ra khỏi đau khổ qua sự sáng
suốt, thoát khỏi những vọng tưởng minh, chớ không phải tìm cách đạt
được những trạng thái hoan lạc hay sự hội nhập với i Chân Tối Thượng.
Ngay lúc này tôi không cho rằng những điều khác không phải nguồn gốc
của sự thất vọng những cáu kỉnh, song những chúng ta vạch ra với lời
dạy này những phản ứng của chúng ta đối với đời sống. Nếu ai xấu với
bạn hoặc chủ tâm ác ý làm kh bạn, bạn nghĩ họ chính người đang
làm bạn đau khổ, bạn vẫn chưa hiểu được Khổ Đế. Ngay cả hắn đang rút
móng tay của bạn hay đang làm những chuyện hãi hùng khác đối với bạn -
chừng nào bạn n nghĩ chính bạn đang chịu đau khổ gây ra bởi người đó,
bạn vẫn chưa hiểu được Khổ Đế. Muốn hiểu đau khổ phải thấy ràng phản
ứng của ta đối với người đang rút móng tay của ta, 'Ta căm ghét ngươi' đó
đau khổ. Sự rút móng tay gây ra đau đớn, nhưng sự đau khổ liên quan đến
'Ta căm ghét ngươi' 'Tại sao ngươi đối xử với ta n thế vậy' 'Ta sẽ
không bao giờ tha thứ ngươi'.
Tuy vậy, đừng chờ đến khi một người nào đó rút móng tay bạn rồi mới thực
hành Khổ Đế. Hãy th với những việc nhỏ nhặt, dụ một người nào đó
không tế nhị hoặc khiếm n thô lỗ làm ra vẻ không biết đến bạn. Nếu bạn
khổ người đó khinh thường hoặc xúc phạm bạn bằng cách nào đó, bạn
thể thực hành điều đó trong bất cứ tình huống nào. nhiều lần trong đời
sống hằng ngày khi chúng ta bị c phạm hoặc tổn thương. Chúng ta thể
cảm thấy bị chọc tức hoặc bực mình bằng cách nhìn thấy dáng đi hoặc cái
nhìn của một người nào đó. khi chính bạn đang cảm thấy ghét ai chỉ
dáng người đó đi hoặc họ không làm những việc đáng m - nhiều người
thể cảm thấy khó chịu hoặc giận dữ về những điều như thế. Dù cho người
đó chưa thực sự phương hại đến bạn hoặc làm những việc như rút móng tay
của bạn, bạn vẫn khổ. Nếu bạn không thể nhìn thấy đau khổ trong những
trường hợp đơn giản này, bạn sẽ không bao giờ thể phản ứng một cách
quả cảm trong trường hợp người nào đó thực sự rút những móng tay của
bạn!
Chúng ta chạm trán với những bất mãn nhỏ nhặt trong cái tầm thường của
đời sống. Chúng ta nhìn vào những trường hợp chúng ta th bị phương
hại xúc phạm hoặc bị phiền nhiễu chọc tức bởi những người hàng xóm,
bởi những người mình đã sống chung, bởi Thatcher, bởi những lề thói
hoặc bởi chính chúng ta. Chúng ta biết rằng cái đau khổ này phải được hiểu.
Chúng ta thực hành bằng cách thực sự nhìn vào cái đau khổ này như một đối
tượng hiểu : 'Đây cái khổ'. Như thế chúng ta mới được sự nội
chứng về đau khổ.
5. Tha Mãn và Bt n
Chúng ta thể m hiểu thêm về: Sự tìm kiếm những lạc thú như một cái
đích của chủ nghĩa khoái lạc mang ta đến đâu? Cho đến bây giờ đã tiếp
diễn qua nhiều thập niên nhưng kết quả là con người cảm thấy hạnh phúc
hơn hay không? Dường như ngày nay chúng ta đã được ban cho nhiều
quyền tự do làm bất cứ chuyện chúng ta thích với ma túy, tình dục, đi lại
cứ n thế - bất cứ thứ cũng xong, thứ gì cũng được phép; không thứ
bị cấm cả. Bạn phải làm một điều thật ghê tởm, thật hung bạo,
trước khi bị xa lánh, tẩy chay. Nhưng khả năng chạy theo dục tính làm cho
ta cảm thấy vui hơn hoặc thư giãn bằng lòng hơn không? Thật ra
khuynh hướng làm cho ta trở n rất ích kỷ; chúng ta không nghĩ về hành
động của chúng ta thể ảnh hưởng đến những người khác như thế nào.
Chúng ta khuynh hướng chỉ nghĩ cho mình: tôi hạnh phúc của i, tự do
của tôi, những quyền lợi của tôi. Như thế thì tôi trở thành một sự bực mình,
một nguồn gốc của sự thất vọng, sự quấy rầy khổ sở cho những người
xung quanh tôi. Nếu tôi nghĩ tôi thể làm bất cứ điều tôi muốn hoặc nói
bất cứ điều tôi cảm thấy muốn nói, ngay cả với sự thiệt hại của những
người khác, thì tôi không cả ngoài mối gây ra phiền toái của hội.
Khi cái cảm giác của 'cái tôi muốn' 'cái tôi nghĩ nên không nên' nảy
sinh, chúng ta ao ước được vui sướng trong tất cả những lạc thú của đời
sống, chúng ta không thể nào tránh khỏi bị tổn thương bởi cuộc đời dường
như không mấy hứa hẹn lắm mọi chuyện dường như không xảy ra theo ý
muốn của con người. Chúng ta chỉ biết quay cuồng theo đời sống - chạy vòng
lẩn quẩn trong cái trạng thái của sự sợ sệt khát khao. ngay cả khi
chúng ta được mọi thứ chúng ta muốn, chúng ta sẽ nghĩ cái đó còn
thiếu, cái đó vẫn chưa hoàn chỉnh. Thế thì ngay cả khi đời sống ngay cái
tuyệt đỉnh của nó, cái cảm giác này của sự đau khổ vẫn còn đó - cái đó
vẫn chưa xong, một sự hoài nghi hoặc lo lắng vẫn đang ám nh chúng ta .
Một dụ điển hình, tôi vẫn thích cảnh trí đẹp. lần trong lúc ẩn trí Thụy
Sĩ, tôi được đưa đến một vùng rừng núi đó đã cho tôi một cảm giác
của sự khổ não bởi nhiều nguồn cảnh t đẹp tuyệt vời. Tôi cảm giác
như muốn chận giữ tất cả mọi thứ, làm tôi lúc nào ng phải cố gắng thật tỉnh
táo để thưởng thức cho được mọi thứ bằng mắt. Điều đó đã thực sự làm tôi
rời! Thực trạng đó cũng chính khổ (dukkha), phải thế không?
Tôi thấy rằng nếu tôi làm việc không cần sự chú ý - ngay cả những điều
hại như xem cảnh đẹp của núi đồi - nếu tôi chỉ thể hiện mình cố gắng chận
giữ một cái đó, luôn luôn đem lại một cảm giác khó chịu. Làm sao bạn
giữ được Jungfrau Eiger? Điều tốt nhất bạn thể làm chụp ảnh nó, cố
gắng thâu tóm được mọi thứ trên một miếng giấy. Đó dukkha; nếu bạn
muốn chận giữ một cái đẹp bởi bạn không muốn xa - đó đau khổ
rồi.
Bị rơi vào những tình huống bạn không thích cũng đau khổ. dụ, tôi
không bao giờ thích đi xe điện ngầm Luân Đôn, i thường kêu ca về nó:
'Tôi không muốn đi xuống xe điện ngầm để phải thấy những tấm biển quảng
cáo kỳ quặc những ga xe cáu bẩn. i không muốn bị ép đứng trong
những toa xe ngầm dưới đất'. Tôi thấy như một kinh nghiệm cực kỳ khó
chịu. Nhưng rồi tôi lắng nghe tiếng nói rên rĩ than van này - sự đau kh không
muốn chung đụng với những sự thể gây khó chịu. Sau khi nghiền ngẫm về
điều này, tôi đã ngừng tạo ra những cảm giác trên để thể hoà mình vào
những cái khó chịu không đẹp mà không phải đau khổ nó. Tôi đã nhận
thức rằng nó phải như vậy như thế mọi việc rồi cũng ổn cả.
Chúng ta không cần tạo ra vấn đề - cho tại một ga xe điện ngầm cáu
bẩn hay đang ngắm cảnh đẹp. Sự vật cái đang là, bởi vậy chúng ta thể
nhận ra hiểu được nó trong những dạng biến động không được bắt giữ
nó. Bắt giữ muốn chận giữ lại những ta thích; tiêu diệt những ta không
thích; hoặc muốn chiếm hữu những ta không có.
Chúng ta thể đau khổ nhiều bởi những người khác. Tôi nhớ lần
Thái Lan tôi thường những tư tưởng xấu về một vị sư. Lúc đó ông ta làm
những điều i nghĩ ng ta không nên làm điều đó' hoặc ông ta nói
những điều tôi nghĩ 'Ông ta không nên nói điều đó!'. Tôi đã mang vị
này theo trong tâm t rồi, ngay cả nếu tôi đi tới những chỗ khác, tôi vẫn
nghĩ về vị đó; sự nhận thức về ông ta lại nảy sinh ng cái phản ứng đó
lại đến: 'Mình nhớ khi ông ta nói điều này khi ông ta làm điều đó?' :
'Ông ta đáng lẽ không nên nói điều đó ông ta đáng lẽ không nên làm việc
đó'.
Tìm được một người thầy như Ajahn Chah, tôi nhớ mình đã muốn ông ta
hoàn thiện. Tôi nghĩ, 'ồ, ông ta một người thầy kỳ diệu - tuyệt vời!'. Nhưng
rồi khi ông lại làm điều đó khiến tôi buồn tôi lại nghĩ, 'Tôi không muốn
ông làm bất cứ điều khiến tôi buồn bởi tôi muốn nghĩ ông thật tuyệt vời'.
Giống như nói, 'Ajahn Chah, lúc nào cũng phải tuyệt diệu đối với tôi. Đừng
bao gi làm bất cứ điều thể gieo những tưởng xấu trong tâm trí tôi'.
Như vậy ngay cả khi bạn gặp ai khiến bạn thực sự kính trọng yêu mến,
vẫn đau khổ của sự ái luyến. Họ sẽ không thể nào tránh khỏi làm hoặc nói
những điều khiến bạn ngờ vực bạn sẽ không thích hay chấp nhận được -
bạn sẽ đau khổ.
lần, một nhóm tu người Mỹ đến Wat Pah Pong, tu viện của chúng tôi
miền Đông Bắc Thái Lan. Họ rất khó tính hình như họ chỉ thấy những điều
sai. Họ đã không nghĩ Ajahn Chah một người thầy rất giỏi họ cũng
không lấy làm thích tu viện lắm. Tôi cảm thấy giận cùng sự căm ghét
nảy sinh bởi họ đã chê bai những tôi yêu mến. Tôi cảm thấy lòng đầy
căm phẫn - 'Tốt lắm, nếu các ông không thích thì xin ra khỏi chốn này. Ông ta
bậc thầy giỏi trên thế giới nếu các ông không thấy được thì xin ĐI!'. Sự
ràng buộc đó - thương hy sinh - đau khổ bởi nếu điều hoặc ai đó
bạn yêu thích b chê bai hay chỉ trích, bạn cảm thấy giận căm phẫn.
Lắm lúc sự t chứng nảy sinh trong những lúc bất ngờ nhất. Điều này đã xảy
đến với tôi trong lúc sống tại Wat Pah Pong. Miền Đông Bắc Thái Lan không
phải nơi đẹp ưa thích nhất trên thế giới với những khu rừng rậm bình
nguyên bằng phẳng; cũng rất nóng về mùa hè. Chúng tôi thường phải đi
ra ngoài trong cái nóng oi bức ban chiều trước ngày chay (Trai Nhật) để quét
sạch khô trên những lối đi. Những khoảng phải quét thật mênh mông.
Chúng tôi phải tốn cả buổi chiều dưới ánh nắng mặt trời, mồ hôi nhễ nhại,
quét gom thành từng đống với những cây chổi thô sơ; đây một trong
những bổn phận của chúng tôi. Tôi đã không thích làm việc này. Tôi nghĩ, '
Tôi đâu muốn làm việc này. Tôi đến đây không phải để quét lá; tôi đến đây
để ngộ đạo - sao họ lại bắt tôi quét lá. Hơn nữa, trời t nóng da tôi lại
trắng; biết đâu tôi lại bị ung thư da phơi nắng ngoài trời trong cái khí hậu
nóng'.
Tôi đang đứng ngoài đó vào một buổi chiều, cảm thấy rất khổ sở, suy nghĩ,
'Tôi đang làm đây? Tại sao tôi đến đây? Tôi lại đây làm gì?'. Tôi đứng
đó với cây chổi dài thô của tôi tuyệt đối không còn một chút năng lực,
cảm thấy thương hại cho chính tôi căm ghét mọi thứ. Rồi Ajahn Chah đến,
cười tôi nói, 'Wat Pah Pong khổ quá, phải không?' rồi bỏ đi. như thế
i nghĩ, 'Tại sao ông ta lại nói như vậy?' , 'Thật ra, bạn biết,
không đến nỗi tệ như vậy đâu' Ông đã khiến tôi phải suy đi nghĩ lại: 'Quét
thực sự khó chịu như thế không? ... Không, không chút nào hết. Quét
một việc làm thật tư; bạn quét lá, không đây cũng không kia ...
Đổ mồ hôi ghê gớm không? Quét thực sự một kinh nghiệm khổ sở
nhục n không? Quét thực sự tệ hại như những tôi đã gi vờ như
thật không? ... Không - đổ mồ hôi ng bình thường thôi, một điều
hoàn toàn t nhiên. tôi không b ung t da người Wat Pah Pong
cũng tử tế nữa. Thầy một người tử tế công minh. Mấy cũng đối xử rất
tốt. Những người trần tục đến cho tôi thức ăn, Tôi còn phàn nàn cái gì?'
Nhìn lại kinh nghiệm thực tế sống đó, tôi nghĩ, 'Tôi chẳng vấn đề cả.
Mọi người trọng tôi. Tôi được đối xử tử tế. Tôi đang được huấn tập bởi những
người tốt trong một quốc gia dễ chịu. Không điều thật sự sai trái cả, trừ
tôi ra; tôi đang tạo dựng một vấn đ bởi tôi không muốn đổ mồ hôi tôi
không muốn quét lá'. Như thế tôi đã được một sự tự chứng ràng. Tôi
chợt nhận thức được trong tôi những đã luôn luôn phàn nàn chê trách,
những đã ngăn cản tôi làm việc thiện nguyện trong mọi hoàn cảnh.
Một kinh nghiệm khác tôi đã học được từ cái thông lệ rửa chân cho những vị
cao tuổi sau khi h trở về từ những chuyến đi khất thực. Vì họ đi chân
không xuyên làng mạc đồng ruộng, chân họ thường dính bùn. Bên ngoài
phòng ăn những chậu rửa chân. Khi Ajahn Chah về, tất cả những tỳ kheo
khác chạy ra - khoảng chừng hai đến ba mươi người - đổ ra để rửa chân
Ajahn Chah. Khi nhìn thấy cảnh nầy lần đầu tôi đã nghĩ, 'Tôi sẽ không làm
chuyện này - không tôi!', Qua ngày hôm sau, ba mươi vị tỳ kheo cũng lại
đổ ra ngay khi Ajahn Chah xuất hiện để rửa chân ông và... 'Điều đó đã
thực sự làm tôi giận, tôi chán cái cảnh này lắm rồi! Tôi chỉ cảm thấy đó là điều
ngu xuẩn nhất tôi đã từng nhìn thấy - ba mươi người chạy ra để rửa chân cho
một người! Ông ta chắc chắn nghĩ mình rất xứng đáng - điều đó ng
củng cố cái tôi của ông ta. Ông ta chắc chắn một cái tôi rất lớn, thật
nhiều người rửa chân ông ta mỗi ngày. Tôi sẽ không bao giờ làm điều đó!'
Trong tôi đã bắt đầu kết tụ một phản ứng mạnh, một phản ứng quá trớn. Tôi
ngồi thừ ra cảm thấy khổ sở phẫn uất. Tôi lại nhìn mấy tôi nghĩ, 'Họ
trông thật ngu xuẩn. Tôi cũng không biết tôi đang làm gì đây'
Nhưng rồi tôi bắt đầu lắng nghe suy nghĩ, 'Đây thực sự một tâm trạng
khó chịu. đâu phải bực dọc. Họ đâu bắt buộc mình làm, không
sao; đâu chuyện quấy trong việc ba mươi người rửa chân một người.
Điều này không phản luân cũng không phải việc hành xử ác lẽ họ
thích như vậy; lẽ họ muốn làm điều đó - lẽ làm như vậy cũng được
thôi... lẽ tôi cũng nên làm điều đó!'. Thế sáng hôm sau, ba mươi mốt vị
đã ùa ra để rửa chân Ajahn Chah. Sau đó rồi chẳng còn vấn đề cả. Tôi
cảm thấy vui: sự khó chịu trong i đã chấm dứt.
Chúng ta thể nhìn lại những điều đã làm cho ta nổi sân căm tức: cái
sai đâu hay đó chỉ cái dukkha chúng ta tạo ra? Khi ấy chúng ta bắt đầu
hiểu được những vấn đ chúng ta tạo ra trong đời sống của chúng ta trong
đời sống của những người khác xung quanh ta.
Với chánh niệm, chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống; với ch thích
chán nản, hy vọng tuyệt vọng, vui sướng đau đớn, say mệt mỏi,
bắt đầu chấm dứt, sanh tử. Chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống
trong tâm chứ không phải chỉ thâu nhận cái vui ng đè nén cái khó chịu.
Tiến trình của sự tự chứng đến với dukkha, thấy dukkha, thừa nhận
dukkha, công nhận dukkha trong mọi hình thức. như vậy bạn mới không
còn phản ứng theo thói quen của sự chìu theo hoặc đè nén. nhờ vậy, bạn
thể chịu đựng nhiều hơn, bạn sẽ nhẫn nại hơn với nó.
Những lời dạy này không ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Thật ra, sự
xét lại kinh nghiệm thực tế của chúng ta - không phải những vấn đề trí thức
rắc rối. Như vậy phải thực sự dồn hết nổ lực o sự khai triển thay phải
chịu sa vào vũng lầy. Bao nhiêu lần bạn đã cảm thấy áy náy về sự thất bại
của bạn hay những lỗi lầm bạn đã mắc phải trong quá khứ? Bạn phải tốn
thì giờ chỉ để tống ra những thứ đã xảy ra trong đời sống của bạn để bị
hoặc trong những bàn luận phân tích không bao giờ chấm dứt? Nhiều
người đã tự tạo cho họ những nhân tính phức tạp. Nếu bạn chỉ miệt mài theo
đuổi những hoài niệm, quan điểm ý kiến của bạn thì bạn sẽ luôn luôn
vướng mắc trong thế giới đó không bao giờ thể thoát ra khỏi những giới
hạn đó bằng bất cứ cách nào.
Bạn thể trút gánh nặng này nếu bạn tự nguyện áp dụng những lời dạy này
một cách thiện xảo. Hảy tự nhủ với mình: 'Tôi sẽ không để vướng phải điều
này nữa; Tôi từ chối gia nhập trò chơi này. Tôi sẽ không nhượng bộ cho cái
tánh khí này'. Hảy khởi sự tự đặt bạn vào trong cương vị của sự hiểu biết:
'Tôi biết đây là dukkha; dukkha'. Tìm ra giải pháp đưa đến ch nào đau
khổ để chịu đựng theo một điều quan trọng. Chỉ bằng cách khảo
nghiệm đương đầu đối mặt với đau khổ, người ta mới thể hy vọng
được sự tự chứng toàn triệt: 'Đau khổ này đã được hiểu'
Ba luận điểm của Khổ Đế đã được trình bày như trên. Đây công thức bạn
phải dùng áp dụng trong cái nhìn về cuộc đời của bạn. Khi nào bạn cảm
thấy đau khổ, đầu tiên phải sự ng nhận: 'Có đau khổ', kế đó: 'Đau khổ
phải được hiểu', cuối cùng: 'Đau khổ đã được hiểu'. Sự hiểu biết về
dukkha sự tự chứng trong Khổ Đế.
6. c bài ging pháp hay v Kh đế trong T diu đế
Thuyết giảng: Thượng Tọa Thích Chân Quang Giảng tại: Chùa Từ Tân, quận
Tân Bình, TP Hồ Chí Minh
Nguồn trích từ tác phẩm: T diệu đế - Ajahn Sumedho Dương Vĩnh Hùng
Dịch
7. Mt s câu hi thường gp v Đạo Pht và lun gii
7.1 Ý Ngh
ĩ
a c
a danh t
“Ph
t” (Buddha) ?
Danh từ Buddha nghĩa “người giác ngộ”, nghĩa là người thức tỉnh,
người nhìn ra chân lý, người giác ngộ chân lý.
Vào thế kỷ thứ 2 sau CN khi những thầy người Ấn Độ qua miền Bắc của
Việt Nam để truyền dạy Phật Pháp thì danh từ Buddha đã được phiên âm ra
thành “Bụt”. Người Trung Hoa thì phiên âm ra tiếng Hán sau đó được
phiên âm qua tiếng Hán Việt “Phật Đà”. Từ đó đến nay, người Việt quen
gọi “Phật”.
sao Phật được gọi “Người giác ngộ” theo đúng nghĩa của danh từ này?.
Bởi Phật đã tìm ra hiểu bốn chân về sự sống của con người
thế gian. Đó Tứ Diệu Đế sau này Đức Phật ng đ khai giảng giáo
Phật giáo. Và một người từ trong màn đêm minh đã thức tỉnh giác
ngộ được những chân nên được gọi “người giác ngộ”. cũng Phật
một người vừa giác ng chân vừa truyền dạy khai sáng cho mọi
người nên cũng được gọi một “bậc giác ngộ hoàn toàn”, hay một vị Phật
toàn giác, vị Phật Chánh đẳng Chánh giác (Samma Sambuddha).
Trước khi giác ngộ, Người đã bậc Bồ-tát (Bodhisattva) nghĩa Phật
(Bodhi) của chúng sinh (sattva), tâm nguyện vừa tu hành vừa cứu đ
chúng sinh đ cùng nhau giải thoát tâm nguyện chứng thành quả vị
Phật (thay quả vị A- la-hán). Người không phải vừa được sinh ra đã Phật,
nhưng Người giác ngộ trở thành Phật nh vào những nỗ lực nhân quá
trình tu hành cùng gian khổ mới chứng ngộ thành Phật. Mỗi người hạnh
nguyện trở thành vị Phật đều phải trải qua những giai đoạn làm Bồ-tát. Đó
những giai đoạn của nhiều kiếp sống trong quá khứ. Trong suốt giai đoạn làm
Bồ-tát, người đó phải trải qua nhiều bước bậc tu hành kiên trì đầy thử
thách phải phát triển những Đức Hạnh Hoàn Thiện gọi những hạnh Ba-
la-mật (Parami), như là: hạnh bố thí, t giới, xuất gia (từ bỏ cuộc sống gia
đình), trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ tâm xả b
hoàn toàn.
Trong một kỷ nguyên “Phật kiếp” thì chỉ xuất hiện một vị Phật Toàn Giác.
Cũng như một y chỉ nở được một bông hoa, kinh điển ghi rằng một thế giới
hay một đại kiếp chỉ sinh ra một vị Phật Toàn Giác.
"Này các Tỳ kheo, chỉ một người được sinh ra vào trong thế giới này lợi
ích hạnh phúc của mọi người, lòng bi mẫn dành cho thế gian, lợi ích,
phúc lành hạnh phúc của những trời người. Đó một người nào?.
Đó Như Lai (Tathagata)16, người một A-la-hán, một Đức Phật Toàn
Giác".]
(trích Tăng Chi B Kinh”-Anguttara Nikaya)
Đức Phật một chúng sinh song đẳng. Hiếm thay thế gian một vị
Phật xuất hiện. Vị Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian này trong thời
kiếp trái đất của loài người sinh sống, lòng bi mẫn của Người dành cho
tất cả chúng sinh, lợi ích hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Đức Phật 16
Như Lai (Tathagata) danh từ Đức Phật thường dùng để tự xưng mình
cũng dùng để chỉ những vị Phật Toàn Giác khác trong quá khứ tương lai.
còn được gọi bằng nhiều cái tên khác theo nhiều ý nghĩa giác ngộ đức
hạnh của Người. Trí tuệ hiểu biết về những bí mật chân của thế gian
của sự sống do chính Đức Phật nỗ lực bản thân để tìm ra, chứ không
phải loại kiến thức được từ giáo dục hay t một vị thầy khác. Chính
điều này Đức Phật đã luôn luôn khuyên dạy chúng ta rằng sau khi
được những kiến thức từ học tập giáo pháp, từ những người thầy (trí
hữu sư) thì chúng ta nên tiếp tục tu tập tâm để đạt đến loại trí tuệ giác ngộ
của chính mình (trí sư). Sự tiến bộ về tâm linh giác ngộ chân do
mỗi người tự m được, không ai thể giác ngộ hay giải thoát giùm
cho mình.
Khó thay sinh ra được làm người. Khó thay cuộc đời hữu hạn Khó thay
được nghe Diệu Pháp Khó thay vị Phật ra đời (Kinh Pháp –Kệ 182)
7.2 phi đạo Pht bi quan hay không?
Không phải vậy.
lẽ cách nói này cách nói của đại đa số những quần chúng không theo
đạo Phật, hoặc họ theo đạo Phật nhưng sự hiểu biết hạn chế nên
sự hiểu lầm như vậy.
Sự hiểu lầm đơn giản nhất khi họ thấy những người từ bỏ đời sống gia
đình xuất gia đi tu, thì họ cho đời khổ nên người xuất gia bỏ đi để tránh
cái “đời bể khổ”.
Sự hiểu lầm thứ hai thể do hiểu lầm về bốn sự thật “Tứ Diệu Đế”
Đức Phật đã dạy. dụ như Sự Thật thứ nhất không thể chối i được
mọi người hay chúng sinh đều phải chịu những sự khổ từ khi sinh, đến già,
bệnh, chết,...vân vân”. Nếu Đức Phật đã nhìn ra lẽ thật này n một quy luật
dừng lại đó, thì đúng bi quan thật, thì nghe sẽ thật buồn, ngỡ ngàng
tuyệt vọng. Nhưng Phật đã mở ra con đường (cách) để giải quyết trừ
bỏ những sự khổ đó.
Đức Phật sau khi giác ngộ đã tìm ra con đường để giải quyết “vấn nạn về
khổ” này của sự sống. Từ đó, trong những Sự Thật 2, 3, 4 tiếp theo, Phật
đã khai giảng con đường phương cách đ giải thoát dần dần hoàn toàn
khỏi những sự khổ đau đó. Như vậy thực-tiễn, hữu-ích, hy-vọng,
lạc-quan chứ không phải bi-quan.
Bạn sẽ đọc thêm trong phần vấn đáp phía sau nói chi tiết hơn về “Tứ Diệu Đế”
con đường “Bát Chánh Đạo” đ hiểu thêm về khía cạnh thực tiễn cứu
giúp của đạo Phật. Càng hiểu thêm, thì càng thấy tự tin để thực hành,
càng thực hành đúng đắn, t càng thấy bình an hạnh phúc.
Thật ra Phật giáo cũng không phải hoàn toàn lạc quan trước hoàn cảnh
của chúng sinh còn u trong minh bất tận, còn lăn lộn trong vòng
luân hồi sinh tử với vàn dục vọng nghiệp xấu ác đã đang được tạo
ra trong vàn kiếp sống trong kiếp này. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn hy-vọng
lạc- quan rằng ít nhiều trong số loài người chúng sinh sẽ thể tu hành
thành công để vượt qua khổ đau sinh tử ngay trong kiếp này.
Câu trả lời “trung đạo” hơn đúng hơn lẽ là: Phật giáo không bi quan
cũng không lạc quan theo một chiều cực đoan nào hết. Phật giáo
“thực tiễn”, chỉ ra những “vấn nạn” hiển nhiên, chỉ ra con đường để giải
quyết chúng.
Đạo Phật đạo giải thoát giúp giải thoát, nên không thể một đạo bi
quan.
7.3 B
n Chân làm n
n t
ng giáo c
a Ph
t giáo gì?
Tứ Điệu Đế
Tại sao chúng ta đang tồn tại đây?. Tại sao chúng ta không hạnh phúc với
cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân của những điều không hạnh phúc
bất toại nguyện? Làm thế nào để không còn khổ, không còn bất hạnh,
không còn bất toại nguyện? Làm thế o đ được niềm hạnh phúc lâu bền?
Giáo của Đức Phật là dựa vào Bốn Chân Cao Diệu, còn gọi Tứ Diệu
Đế. Để nhận biết được chân thì chúng ta cần phải nhận biết thấu
hiểu vào bản chất tự nhiên của sự sống bằng chính trí-tu hiểu biết của mình.
Khi chúng ta hiểu thấu được rằng tất cả mọi hiện tượng đều nhất- thời
giả-tạm, luôn bị thay-đổi… thì chúng ta đã nhận ra được nh chất “khổ” bên
trong mọi sự-vật hiện-tượng bên trong sự-sống trên đời này. vậy,
chúng ta cũng sẽ suy luận ra rằng hạnh phúc bền-lâu không thể nào được
bằng những con đường vật chất hay những thành đạt thế tục, hạnh phúc
bền-lâu nằm trong tâm, thuộc về tâm, chỉ được thông qua con
đường tu tập cho tâm thanh tịnh, để tạo ra loại trí-tuệ giải thoát khỏi khổ.
Tứ Diệu Đế cốt-lõi của giáo Đức Phật. Phật đã nói rằng bởi chúng ta
không hiểu được bốn chân Tứ Diệu Đế này nên chúng ta n mãi đi trôi
giạt trong vòng luân hồi sinh tử. Tứ Diệu Đế đã được Đức Phật khai giảng
trong bài thuyết giảng đầu tiên cho bốn người bạn tu trước đó là nhóm ngài
Kiều-Trần-Như (Kodanna) tại khu Vườn Nai Sarnath, Ấn Độ vào Năm 588
trước Công Nguyên.
Cũng như đại dương chỉ một vị, đó vị mặn của muối. Giáo Pháp
của Phật cũng chỉ một vị, đó vị giải thoát”.
(kinh Phật Tự Thuyết”-Udana 56) Vậy bốn chân “Tứ Diệu Đế” gì?.
1. Chân thứ nhất:
Tất cả chúng sinh, con người đều phải phụ thuộc chịu đựng tất cả
những thứ n buồn phiền, thất vọng, khó chịu, đau bệnh, già, chết, bất an,
lo lắng… Nói tóm lại, tất cả đều bị “Khổ”, tức luôn luôn phụ thuộc vào
những sự khổ bất toại nguyện. Không ai thoát được.
2. Chân thứ hai:
Những nguyên nhân của tất cả các dạng “Khổ” trong tất cả chúng sinh
con người dục-vọng (s tham muốn, thèm muốn). dục vọng chính
i “ảo tưởng sai lầm” của con người về một ‘linh hồn’, về một cái ‘ta của
mình20. cái ‘ta’ nên người ta tham lam, muốn có, muốn được, muốn
được cho hiện tại, muốn cho tương lai, kết cục cả đống những cái-
muốn dục-vọng đó dẫn đến khổ: khổ bất toại nguyện, khổ những điều
không tốt, khổ bị tái sinh…
Nói tóm lại, theo Phật giáo, nếu không dục- vọng thì không khổ
không phải bị tái sinh sinh tử như vậy. Khi o hết dục-vọng thì sẽ không
còn khổ, cũng không còn sinh tử tái sinh. Nguyên vậy.
3. Chân thứ ba:
Sự chấm dứt hay tiêu diệt hết “khổ” trạng thái thoát khổ hạnh phúc.
Muốn tiêu diệt hết khổ thì phải nhổ sạch nguồn gốc nguyên nhân của khổ.
Nguồn gốc nguyên nhân của khổ chính dục- vọng tham-muốn. Dục-
vọng thì biểu hiện bằng những bản chất Tham, Sân, Si của tâm chúng ta.
Vậy phải thực hành việc tiêu diệt hết những bản chất tham, n, si đó để
tiêu diệt dục-vọng. Nguyên vậy.
4. Chân thứ tư:
Việc tiêu diệt hết “khổ” nguồn gốc tạo ra khổ” có-thể-làm-được thông
qua một con đường thực hành. một con đường để thành tựu việc này là
con đường tám phần (Bát Chánh Đạo) do chính Đức Phật tìm ra chỉ dạy
lại cho chúng ta.21
Không nên cho rằng giáo đây “bi quan” chỉ dựa vào nền tảng của
sự “khổ”. Giáo Phật giáo đây “thực-tiễn”, “hữu-dụng” khi chỉ ra được
lẽ-thật nguyên-nhân của cuộc đời, cách đối diện với nó. Hơn nữa, Phật
giáo ng nên được coi giáo “lạc quan” đã chỉ ra con đường để dẫn
đến sự giải thoát, dẫn đến giác ngộ trạng thái hạnh phúc lâu bền mãi
mãi (Niết-bàn). Vậy đạo Phật một con đường hạnh phúc.
Bước đi trên con đường này thì c người sẽ diệt trừ được mọi khổ đau. Ta
đã tìm ra cách nhổ sạch gai độc dục vọng, nay Ta chỉ cho các người.”
(Kinh Pháp Cú–Kệ 257).
Nếu chúng ta muốn diệt trừ đau khổ hay giải thoát khỏi đau khổ thì chúng ta
cần biết nguyên- nhân gây ra đau khổ. Theo Đức Phật, dục-vọng chính
nguyên-nhân nguồn-gốc của mọi khổ đau. Đây Chân Thứ Hai đã
nói trên. Mọi người đều chạy theo khoái lạc giác quan, chạy theo tiện nghi
của cải vật chất, tham lam ích kỷ luôn tìm cầu sự sống bất diệt cho kiếp
sau, bất mãn vọng thì cho rằng chết hết thỏa thích chạy theo thỏa
mãn kiếp này, bất chấp quy luật nhân quả. Không phải mọi người chỉ dính
vào những dục-vọng về vật-chất phàm tục như khoái lạc, của cải, quyền
lực…mà nhiều người còn dính vào những dục-vọng về tinh-thần khác như
tưởng, tưởng, cách nhìn, thiên kiến, khái niệm, niềm tin, tín ngưỡng.
mọi dục-vọng cũng đều do sự ngu dốt si [vô minh] ra, không
thấy được bản chất đích thực của mọi sự trên đời như-chúng-là. Sự ngu-si
hay vô-minh cũng giống như màn đêm che mờ làm người ta không thấy được
cái gì cả. Hoặc sự ngu-si hay vô-minh cũng giống như cái kính viễn vọng hay
ống dòm hay màn sương làm cho ta luôn thấy mọi sự vật lúc to lúc nhỏ,
lúc đậm lúc lợt, lúc n c hiện, không đúng như hình hài vật đích thực của
nó.
minh không nhận ra được bản chất của sự sống nên ta sinh ra cái
‘ngã’, cái ‘ta’, cái linh hồn’ dính chấp bảo thủ vào nó’, bảo vệ ‘nó’, cho ‘nó’
cái ‘hồn’ bất biến bất tử của mình, nhưng thật ra chỉ sản phẩm của
những yếu tố luôn luôn thay-đổi vô-thường trong từng giây phút. Chưa
bao giờ hơn hai khoảng khắc một cái bất biến cả. khi dính
chấp vào , bảo vệ nó, dung dưỡng nó, chăm c nó, thỏa n không
được thì dẫn đến đau khổ thất vọng. Lúc nào cũng vậy, thói đời vậy,
thói tâm vậy.
Món quà nào cao quý bằng món quà Chân Lý. Vị nào cao quý bằng vị của
Chân Lý.
Khoái lạc nào cao quý bằng niềm vui Chân Lý. Người đã diệt trừ được mọi
dục vọng vượt qua mọi phiền não. (Kinh Pháp Kệ 354).
Dục-vọng lửa thiêu đốt mọi chúng sinh: Mọi hành vi là do sự thúc đẩy của
dục-vọng. thể xếp loại từ những ham muốn ăn uống thông thường của
những loài vật cho đến những ham muốn phức tạp của con người—thường
do mình tạo ra, do mình nghĩ ra, tự tạo ra, do ‘văn minh’ tạo ra. Để thỏa
mãn những dục vọng ăn sinh tồn, loài vật săn đuổi giết nhau, loài
người thì tranh đấu, giết hại, lừa dối, gạt gẫm nhau theo đủ dạng từ những
dạng vô- luật cho đến có-luật-lệ, làm nhiều hành động bất thiện, xấu ác.
Dục-vọng nguồn lực mạnh mẽ nhất mặt trong mọi dạng của sự sống,
nguyên nhân “chính” tạo ra mọi điều xấu ác bất thiện trên đời.
chính mọi điều xấu, ác, bất thiện… này tạo ra nghiệp, đó nguyên
nhân tạo ra tái-sinh. mỗi lần tái-sinh mỗi lần mang theo dính mắc
vào trùng trùng những nguồn-gốc nguyên-nhân của mọi khổ đau.
Khi chúng ta đã nhận ra được nguyên-nhân tạo ra đau khổ, thì chúng ta
luôn xu hướng diệt trừ lần lần nguyên-nhân đó, chấm dứt đau khổ.
Làm thế nào để chúng ta chấm dứt đau khổ? Đó nhổ hết “gốc” của
bằng cách “xóa sạch” dục-vọng trong tâm của chúng ta, theo đạo Phật vậy.
Đây Chân Thứ Ba. Khi một người nhổ sạch tận gốc của dục-vọng, thì
người đó được giải thoát, không còn nguyên-nhân tạo ra đau khổ tái
sinh…, không n sinh ra, khổ, già, bệnh, rồi chết nữa. Trạng thái giải thoát
như vậy được gọi Niết-bàn (Nibbana). Trạng thái này còn được gọi vô-
sinh, vô-hình, vô- tạo-tác, vô-vi, vượt qua những khái niệm cảm nhận
thông thường của chúng ta.
Làm thế nào để thành tựu thụ hưởng được trạng thái này của tâm?. Điều
đó không d dàng một chút nào. Tuy nhiên, cách dễ dàng nhất khoa học
nhất bắt đầu bước đi trên con đường “đạo” một cách đúng đắn, thực hành
từng bước con đường Bát Chánh Đạo mà Đức Phật đã cố gắng hết
phần đời còn lại của mình chỉ dạy cho con người.

Preview text:

Khổ Đế là gì? Chân lý của khổ đế là gì?
Đó là Khổ Đế: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng
đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. Khổ Đế phải
được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng,
trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy sinh trong ta về mọi việc chưa từng
nghe thấy trước đây. Khổ Đế đã được thấu suốt bằng sự hiểu biết đầy đủ cái
khổ: đó là linh kiến, sự tự chứng, trí tuệ, sự nhận biết, và ánh sáng đã nảy
sinh trong ta về mọi việc chưa từng nghe thấy trước đây. [ Kinh Tương Ưng Bộ, LVI, 11]
Khổ Đế có ba luận điểm: 'Đó là khổ (dukkha). Dukkha phải được hiểu. Dukkha đã được hiểu.
Đây là một lối dạy thiện xảo bởi vì nó được diễn tả bằng một công thức đơn
giản dễ nhớ, và nó đúng cho mọi thứ mà bạn có thể làm, suy nghĩ hoặc trải
qua, liên quan đến quá khứ, hiện tại hoặc tương lai.
Khổ hay dukkha là cái ràng buộc chung mà tất cả chúng ta phải chịu. Mọi
người ở mọi nơi đều phải chịu đau khổ. Nhân loại đã đau khổ trong quá khứ,
thời ấn Độ cổ; họ đau khổ trong xã hội Anh hiện đại; và trong tương lai, nhân
loại sẽ còn chịu đau khổ nữa ... Chúng ta có gì chung với bà Nữ Hoàng
Elizabeth? - chúng ta đau khổ. Với một cô gái bán thân ở Charing Cross,
chúng ta có gì chung? - đau khổ. Đau khổ bao gồm tất cả giai tầng từ những
người thuộc giai cấp thượng lưu cho đến những người thuộc tầng lớp bần
hàn cùng khổ nhất trong xã hội, và tất cả những giai tầng khác ở giữa. Mọi
người ở mọi nơi đều phải chịu đau khổ. Đau khổ là một sự liên kết giữa
chúng ta với nhau, là điều tất cả chúng ta đều hiểu.
Nỗi khổ của con người thường đem lại cho ta xu hướng của lòng từ bi.
Nhưng khi chúng ta bàn luận về quan điểm của mình, về những gì tôi nghĩ và
những gì bạn nghĩ về chính trị và tôn giáo, thì chúng ta lại gây chiến với nhau.
Tôi nhớ có xem một cuốn phim ở Luân Đôn cách đây khoảng mười năm.
Cuốn phim này mô tả người Nga như những con người thật sự bằng cách
chiếu cảnh sinh hoạt của những người phụ nữ Nga với những trẻ sơ sanh và
những người đàn ông Nga dắt con đi chơi. Vào giai đoạn này, sự trình bày về
người Nga như thế rất lạ bởi vì đa số những tuyên truyền của phương tây
đều phơi bày họ như những con quái vật hoặc là loại người lạnh lùng nhẫn
tâm hoặc như loài bò sát - và như vậy để bạn không bao giờ nghĩ về họ như
những con người. Nếu bạn muốn giết người, bạn phải coi họ như vậy. Bạn
phải nghĩ rằng họ nhẫn tâm, vô luân, không xứng đáng và xấu xa, và tốt hơn
nên tiêu diệt họ. Bạn phải nghĩ rằng họ ác độc và đó là điều tốt để diệt trừ sự
ác độc. Với thái độ này, biết đâu bạn lại cảm thấy đúng trong việc dội bom
hoặc xử bắn họ. Nếu bạn cứ nghĩ về cái ràng buộc chung của sự đau khổ,
bạn sẽ không làm được những điều trên.
Khổ Đế không phải là một lý thuyết suông siêu hình yếm thế cho rằng mọi thứ
đều là đau khổ. Cần ghi nhận rằng Diệu Đế đã được đối chứng trong khi một
học thuyết siêu hình thường đề cập đến sự Tuyệt Đối. Diệu Đế là một sự thật
để đối chiếu; không phải là một điều tuyệt đối; cũng không phải là sự Tuyệt
Đối. Đây chính là chỗ người Tây Phương hay nhầm lẫn bởi vì họ diễn dịch
Diệu Đế này như là một loại chân lý suông của Phật Giáo - nhưng nó không
bao giờ có nghĩa như vậy.
Bạn có thể thấy rằng Diệu Đế Thứ Nhất (Khổ Đế) không phải là một lời tuyên
bố tuyệt đối vì Diệu Đế Thứ Tư (Đạo Đế), là đường dẫn tới lìa khổ. Bạn
không thể nào đau khổ một cách tuyệt đối để rồi thoát ra khỏi nó, phải thế
không? Điều đó không hợp lý. Tuy vậy có người dựa vào Diệu Đế Thứ Nhất
mà nói Đức Phật đã dạy rằng mọi thứ đều là đau khổ.
Tiếng Pali, dukkha, có nghĩa là 'không có khả năng thỏa mãn' hay 'không thể
nào chịu đựng được bất cứ điều gì'. Sự đời luôn luôn thay đổi, không có khả
tính thành đạt hoặc đem lại cho ta hạnh phúc viên mãn. Thế giới dục vọng là
như vậy, một sự rung động tự nhiên. Thật ra, luôn luôn tìm được sự thỏa mãn
trong thế giới giác quan là một điều rất khủng khiếp, vì như vậy chúng ta đã
không cần tìm kiếm xa hơn nữa; chúng ta đã bị ràng buộc vào nó. Tuy vậy,
khi chúng ta thức tỉnh về sự đau khổ này, chúng ta bắt đầu tìm thấy lối ra để
không còn bị giam hãm mãi bên trong cái tri giác hạn hẹp của chính mình.
1. Đau Khvà Ngã Tưởng
Điều quan trọng ở đây là nhìn lại cấu trúc của Diệu Đế Thứ Nhất. Nó được
phân câu một cách rõ ràng: 'Có sự đau khổ', thay vì nói, 'Tôi khổ'. Về mặt tâm
lý, đó còn là một sự quán chiếu thiện xảo. Chúng ta có khuynh hướng diễn
đạt sự đau khổ của chúng ta như 'Tôi đang thực sự đau khổ. Tôi khổ nhiều -
và tôi không muốn khổ'. Đây là chiều hướng suy nghĩ theo thói quen cố hữu của ta.
'Tôi đang đau khổ' luôn luôn truyền dẫn cái nghĩa 'Tôi là người đang đau khổ
nhiều. Cái đau khổ này thuộc về tôi; tôi đã từng chịu nhiều đau khổ trong cuộc
đời'. Cứ như vậy cả cái quá trình liên tưởng giữa bản ngã và ký ức lại khởi sự.
Bạn nhớ lại những gì đã xảy ra từ khi bạn còn là một đứa trẻ sơ sanh ... và
cứ như thế mà tiếp diễn.
Nhưng lưu ý, chúng ta không nói rằng có người đang chịu đau khổ. Sự đau
khổ không còn có tính cách cá nhân khi ta nhìn nó như 'Có đau khổ'. Cái nhìn
đó không còn là: 'Ôi thật khổ tôi, tại sao tôi phải khổ nhiều vậy? Tôi làm gì mà
phải chịu đựng hậu quả như thế? Tại sao tôi phải già đi thế này? Tại sao tôi
phải chịu buồn rầu, đau đớn, thương tiếc và tuyệt vọng? Không công bằng!
Tôi đâu có muốn điều đó. Tôi chỉ muốn hạnh phúc và sự an toàn'. Cách suy
nghĩ này dẫn dắt bởi vô minh đã làm rối ren mọi thứ và đồng thời tạo ra
những vấn đề thuộc về nhân tính.
Muốn lìa khổ, chúng ta phải thừa nhận đau khổ trong ý thức. Nhưng sự thừa
nhận trong pháp tu thiền của Phật Giáo không phải từ khía cạnh: 'Tôi đang
đau khổ' mà là 'Có sự hiện diện của đau khổ, bởi vì chúng ta không cố gắng
nhận ra vấn đề mà chỉ đơn giãn công nhận rằng đau khổ hiện diện. 'Tôi là
một người sân; tôi nóng giận rất dễ dàng; làm sao tôi bỏ được nó?' là một lối
suy nghĩ không khéo léo, không uyển chuyển - vì nó gây ra mọi thừa nhận
ngấm ngầm có tính cách phản quan tự kỷ của bản ngã và như thế rất khó mà
nắm được bất cứ một thực trạng nào về vấn đề 'khổ' đó. Những suy nghĩ này
trở nên rất lộn xộn bởi vì cái ý nghĩa của những vấn đề của tôi hay cái suy
nghĩ của tôi dễ dàng dẫn dắt chúng ta tới sự đè nén hoặc tới những sự phán
xét và tự chỉ trích lấy mình. Chúng ta có khuynh hướng chụp bắt và nhận ra
hơn là quan sát, chứng kiến và hiểu được vấn đề đúng như nó đang là. Ngay
khi bạn thừa nhận rằng có cái cảm giác lẫn lộn này, rằng có cái tham, cái sân,
thì lập tức có một cái nhìn trung thực về nó và như thế bạn đã loại trừ được
những tự phụ tiềm ẩn - hoặc ít ra đã làm lung lay được nó.
Như vậy đừng nắm lấy vấn đề như những lỗi lầm cá nhân mà phải coi những
điều kiện này là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã. Cứ tiếp tục nhìn nhận
mọi việc như nó đang là. Khuynh hướng của ta ở đây là nhìn cuộc đời theo
nghĩa 'đây là những vấn đề của ta', và điều đó là một sự thừa nhận rất trung
thực, thẳng thắn. Như thế cuộc sống của chúng ta có khuynh hướng
xác nhận lại điều đó bởi vì chúng ta luôn hành xử từ những thừa nhận sai
lầm. Nhưng ngay cái quan điểm đó đã là vô thường, bất toại nguyện và vô ngã.
'Có đau khổ' là một sự chấp nhận rõ ràng, chính xác rằng chính lúc này, có
một cảm giác không ổn không vui. Đau khổ dàn trải từ sự thống khổ và tuyệt
vọng cho đến cái bực mình vụn vặt; dukkha không nhất thiết có nghĩa phải
đau khổ trầm trọng. Bạn không cần phải bị hành hung tàn bạo bởi cuộc đời;
bạn không phải đến từ trại tập trung Auschwitz hoặc Belsen để nói rằng có
đau khổ. Ngay cả Nữ Hoàng Elizabeth có thể nói, 'Có đau khổ'. Tôi chắc rằng
bà ta có những giây phút thống khổ và tuyệt vọng hay, ít ra, những giây phút của sự bực bội.
Thế giới giác quan là một kinh nghiệm nhạy cảm. Nghĩa là lúc nào bạn cũng
phải đứng trước khoái lạc, đau đớn và thuyết nhị nguyên của vòng sanh tử
luân hồi (samsara). Chúng ta như đang sống trong một trạng thái rất dễ
đổ vở và đồng thời phải giao tiếp với tất cả mọi sự vật và những giác quan
của chúng. Quy luật chung là thế. Đó là kết quả của sinh.
2. SChi Bỏ Đau Kh
Đau khổ là cái ta thường không muốn biết - chúng ta chỉ muốn loại trừ nó.
Ngay khi có bất cứ một sự bất tiện hay bực mình, một người chưa thức tỉnh
có khuynh hướng loại trừ hoặc đè nén nó. Bạn có thể thấy tại sao xã hội hiện
đại ngày nay bị thu hút vào sự tìm kiếm khoái lạc và vui sướng trong những
cái gì mới, hấp dẫn và khêu gợi. Chúng ta có khuynh hướng chú trọng vào
cái đẹp và sự thỏa thích của tuổi trẻ trong khi những mặt xấu của cuộc đời -
già nua, bệnh tật, chết chóc, chán nản, tuyệt vọng và phiền nảo, bị gạt qua
một bên. Khi ta thấy những gì không thích, ta cố gắng lánh xa để đến với
những gì ta thích hơn. Nếu ta cảm thấy chán nản, ta đến với những gì thú vị.
Nếu ta cảm thấy sợ sệt, ta tìm chỗ an toàn. Đây là một điều hoàn toàn tự
nhiên. Chúng ta bị gắn liền với cái quy luật sung sướng/đau khổ đang bị thu
hút hoặc đẩy lùi. Như vậy nếu tâm trí còn sung mãn và còn tiếp thu được, nó
có khuynh hướng lựa chọn - thâu thập những gì thích và cố gắng đè nén
những gì không thích. Nhiều kinh nghiệm của chúng ta bị đè nén bởi vì đôi
khi có nhiều cái khó chịu chúng ta không thể nào tránh khỏi liên lụy.
Nếu bất cứ sự khó chịu nào phát sinh, chúng ta tự nhủ, 'Trốn chỗ khác!'. Nếu
có ai cản trở, chúng ta tự nhủ, 'Giết nó!'. Khuynh hướng này rất rõ ràng trong
những gì được thực hiện bởi chính quyền của nhiều nước.... Nghe có vẻ
khủng khiếp, phải không bạn? Khi bạn nghĩ về loại người lãnh đạo đất nước
của chúng ta - bởi vì họ vẫn còn rất vô minh và chưa giác ngộ. Nhưng lề thói
chung là thế. Đầu óc vô minh nghĩ đến sự hủy diệt: 'Đây là một con muỗi; giết
nó!', 'Mấy con kiến này đang bò lan vô phòng; xịt nó với thuốc trừ kiến!'. Có
một công ty ở Anh tên là Giết-Mướn (Rent-To-Kil ). Tôi không biết đó có phải
là một loại tổ chức mafia của Anh hay không, nhưng họ chuyên môn giết
những sinh vật có hại - tùy bạn muốn diễn dịch thế nào là 'sinh vật có hại'.
3. Đạo Đức và TBi
Đó là lý do tại sao chúng ta phải có giới luật như, 'Tôi sẽ kiêng sát sanh', bởi
vì bản năng tự nhiên của chúng ta là giết: nếu nó gây cản trở, giết nó. Bạn có
thể thấy được điều này trong thế giới loài vật. Bản thân con người chúng ta là
giống săn mồi; chúng ta nghĩ chúng ta văn minh nhưng chúng ta có một lịch
sử đẫm máu - nói một cách chính xác. Một lịch sử đã được tích lũy bằng
những sự giết chóc không ngừng cùng với những sự biện minh cho tất cả
những loại tội lỗi gây ra cho đồng loại - đó là chưa kể đến loài vật - và tất cả
những điều đó bắt nguồn từ sự vô minh này, sự khinh suất, vô lương tâm của
con người đã xúi giục chúng ta tàn sát những gì cản trở chúng ta.
Tuy vậy, với một sự xét lại chúng ta đang tạo ra một sự chuyển hóa; chúng ta
đang vượt qua cái bản năng thú tánh đó. Chúng ta không phải chỉ là những
người bù nhìn tuân theo luật pháp của xã hội, sợ giết người bởi vì chúng ta
sợ bị trừng phạt. Hiện tại chúng ta đang thật sự nhận lấy trách nhiệm. Chúng
ta tôn trọng đời sống của những sinh vật khác, ngay cả đời sống của loài côn
trùng và những sinh vật chúng ta không thích. Không ai thích muỗi hoặc kiến,
nhưng chúng ta nên xét lại ghi nhận rằng chúng cũng có quyền sống. Đó là
sự xét lại của trí tuệ; không phải chỉ là một phản ứng: 'Đồ xịt côn trùng đâu?'.
Tôi cũng không thích thấy kiến bò ngổn ngang trên sàn của tôi; phản ứng đầu
tiên của tôi là: 'Đồ xịt côn trùng đâu?'. Nhưng rồi tư tưởng xét lại chỉ cho tôi
thấy rằng mặc dầu những sinh vật này đang làm phiền tôi và tôi thật cứ muốn
chúng đi chỗ khác, chúng cũng có quyền tồn tại. Đó là một sự quán chiếu của trí tuệ.
Điều này cũng đúng với những trạng thái khó chịu của tinh thần. Như vậy khi
bạn đang cảm thấy nóng giận, thay vì nói: 'à, đây mình lại sân nữa rồi!' chúng
ta xét lại: 'Có sân'. Nỗi lo sợ cũng vậy - nếu bạn bắt đầu thấy nó như nỗi lo sợ
của cha hay mẹ mình, nỗi lo sợ của con chó hay nỗi lo sợ của chính bạn, tất
cả những nỗi lo này có lúc giống nhau, có lúc không giống nhau và điều đó có
khi rất khó hiểu. Tuy vậy, nỗi lo sợ trong bản thể này và nỗi lo sợ trong con
chó bẩn thỉu kia cũng chỉ là giống nhau. 'Có lo sợ'. Đơn giản thế thôi. Nỗi lo
sợ mà tôi cảm nhận được không khác gì nỗi lo sợ những người khác có. Đó
là chỗ chúng ta có lòng từ bi ngay cả cho những con chó xơ xác. Chúng ta
hiểu rằng nỗi lo sợ đó cũng khủng khiếp cho con chó như chính cho chúng ta.
Khi một con chó bị đá mạnh với một chiếc giày và bạn bị đá mạnh với một
chiếc giày, cái cảm giác đau đớn đó cũng giống nhau thôi. Đau đớn là đau
đớn, lạnh là lạnh, sân là sân. Đau đớn không thuộc về tôi mà chỉ là: 'Có đau
đớn'. Đây là một lối tư duy thiện xảo giúp ta thấy mọi sự việc rõ ràng, hơn là
củng cố quan điểm cá nhân. Kết quả của sự nhận ra trạng thái của đau khổ -
rằng có đau khổ - là sự tự chứng thứ nhì của Khổ Đế. 'Đau khổ phải được
hiểu'. Sự đau khổ này phải được khảo cứu.
4. Để Kho Cu Sự Đau Kh
Tôi khuyên các bạn cố gắng tìm hiểu thêm về đau khổ (dukkha): để thực sự
nhìn thấy và nhận lấy nỗi khổ của bạn. Cố gắng hiểu nó khi bạn cảm thấy đau
đớn về thể xác, tuyệt vọng và thống khổ hoặc thù hằn và ghét bỏ - dù dưới
bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ mức độ nào, dù quá trớn hay có chừng
mực. Lời khuyên này không có nghĩa là để được giác ngộ bạn phải chịu đau
khổ một cách bi ai, cùng cực. Bạn không phải bị tước đoạt hết mọi thứ hay bị
tra tấn trên giá hành hình; có nghĩa là khả năng có thể nhìn thấy và hiểu được
đau khổ, ngay cả nếu đau khổ chỉ là một cảm giác thoáng qua của sự không bằng lòng.
Rất dễ tìm thấy một sự bào chữa cho những vấn đề của chúng ta. 'Nếu mẹ tôi
đã thực sự thương tôi hoặc nếu mọi người xung quanh tôi đã thực sự khôn
khéo, hy sinh một cách đầy đủ trong việc chu cấp một môi trường hoàn chỉnh
cho tôi, tôi đã không có những vấn đề thuộc về cảm xúc như bây giờ'. Điều
này nghe thật là vô lý! Tuy vậy đó là cách một số người đã thực sự nhìn đời,
nghĩ rằng họ thấy lúng túng và khổ sở bởi vì thế giới đối xử bất công đối với
họ. Nhưng với phương thức này của Khổ Đế, ngay cả nếu chúng ta đã có
một đời sống thật đau khổ, điều chúng ta đang nhìn thấy không phải là sự
đau khổ đến từ đó, mà là những gì chúng ta tạo ra trong tâm trí của chúng ta
xung quanh nó. Đây là một sự thức tỉnh của con người - một sự giác ngộ đến
với chân lý về đau khổ. Và đó là một chân lý kỳ diệu bởi vì nó không còn đổ
lỗi cho những người khác về cái đau khổ mà ta đang phải gánh chịu. Như vậy,
cách giải quyết vấn đề của đạo Phật rất là độc đáo so với những tôn giáo
khác bởi vì Đạo Phật chú trọng con đường dẫn ra khỏi đau khổ qua sự sáng
suốt, thoát khỏi những vọng tưởng vô minh, chớ không phải tìm cách đạt
được những trạng thái hoan lạc hay sự hội nhập với cái Chân Tối Thượng.
Ngay lúc này tôi không cho rằng những điều khác không phải là nguồn gốc
của sự thất vọng và những cáu kỉnh, song những gì chúng ta vạch ra với lời
dạy này là những phản ứng của chúng ta đối với đời sống. Nếu có ai xấu với
bạn hoặc có chủ tâm ác ý làm khổ bạn, và bạn nghĩ họ chính là người đang
làm bạn đau khổ, bạn vẫn chưa hiểu được Khổ Đế. Ngay cả hắn đang rút
móng tay của bạn hay đang làm những chuyện hãi hùng khác đối với bạn -
chừng nào bạn còn nghĩ chính bạn đang chịu đau khổ gây ra bởi người đó,
bạn vẫn chưa hiểu được Khổ Đế. Muốn hiểu đau khổ phải thấy rõ ràng phản
ứng của ta đối với người đang rút móng tay của ta, 'Ta căm ghét ngươi' đó là
đau khổ. Sự rút móng tay gây ra đau đớn, nhưng sự đau khổ liên quan đến
'Ta căm ghét ngươi' và 'Tại sao ngươi đối xử với ta như thế vậy' và 'Ta sẽ
không bao giờ tha thứ ngươi'.
Tuy vậy, đừng chờ đến khi một người nào đó rút móng tay bạn rồi mới thực
hành Khổ Đế. Hãy thử nó với những việc nhỏ nhặt, ví dụ một người nào đó
không tế nhị hoặc khiếm nhã thô lỗ làm ra vẻ không biết đến bạn. Nếu bạn
khổ vì người đó khinh thường hoặc xúc phạm bạn bằng cách nào đó, bạn có
thể thực hành điều đó trong bất cứ tình huống nào. Có nhiều lần trong đời
sống hằng ngày khi chúng ta bị xúc phạm hoặc tổn thương. Chúng ta có thể
cảm thấy bị chọc tức hoặc bực mình bằng cách nhìn thấy dáng đi hoặc cái
nhìn của một người nào đó. Có khi chính bạn đang cảm thấy ghét ai chỉ vì
dáng người đó đi hoặc vì họ không làm những việc đáng làm - nhiều người
có thể cảm thấy khó chịu hoặc giận dữ về những điều như thế. Dù cho người
đó chưa thực sự phương hại đến bạn hoặc làm những việc như rút móng tay
của bạn, bạn vẫn khổ. Nếu bạn không thể nhìn thấy đau khổ trong những
trường hợp đơn giản này, bạn sẽ không bao giờ có thể phản ứng một cách
quả cảm trong trường hợp có người nào đó thực sự rút những móng tay của bạn!
Chúng ta chạm trán với những bất mãn nhỏ nhặt trong cái tầm thường của
đời sống. Chúng ta nhìn vào những trường hợp chúng ta có thể bị phương
hại và xúc phạm hoặc bị phiền nhiễu và chọc tức bởi những người hàng xóm,
bởi những người mình đã sống chung, bởi Bà Thatcher, bởi những lề thói
hoặc bởi chính chúng ta. Chúng ta biết rằng cái đau khổ này phải được hiểu.
Chúng ta thực hành bằng cách thực sự nhìn vào cái đau khổ này như một đối
tượng và hiểu nó: 'Đây là cái khổ'. Như thế chúng ta mới có được sự nội chứng về đau khổ.
5. Tha Mãn và Bt Mãn
Chúng ta có thể tìm hiểu thêm về: Sự tìm kiếm những lạc thú như là một cái
đích của chủ nghĩa khoái lạc mang ta đến đâu? Cho đến bây giờ nó đã tiếp
diễn qua nhiều thập niên nhưng kết quả là con người có cảm thấy hạnh phúc
hơn hay không? Dường như ngày nay chúng ta đã được ban cho nhiều
quyền và tự do làm bất cứ chuyện gì chúng ta thích với ma túy, tình dục, đi lại
và cứ như thế - bất cứ thứ gì cũng xong, thứ gì cũng được phép; không thứ
gì bị cấm cả. Bạn phải làm một điều gì thật là ghê tởm, thật là hung bạo,
trước khi bị xa lánh, tẩy chay. Nhưng khả năng chạy theo dục tính có làm cho
ta cảm thấy vui hơn hoặc thư giãn và bằng lòng hơn không? Thật ra nó có
khuynh hướng làm cho ta trở nên rất ích kỷ; chúng ta không nghĩ về hành
động của chúng ta có thể ảnh hưởng đến những người khác như thế nào.
Chúng ta có khuynh hướng chỉ nghĩ cho mình: tôi và hạnh phúc của tôi, tự do
của tôi, và những quyền lợi của tôi. Như thế thì tôi trở thành một sự bực mình,
một nguồn gốc của sự thất vọng, sự quấy rầy và khổ sở cho những người
xung quanh tôi. Nếu tôi nghĩ tôi có thể làm bất cứ điều gì tôi muốn hoặc nói
bất cứ điều gì tôi cảm thấy muốn nói, ngay cả với sự thiệt hại của những
người khác, thì tôi không là gì cả ngoài mối gây ra phiền toái của xã hội.
Khi cái cảm giác của 'cái gì tôi muốn' và 'cái gì tôi nghĩ nên và không nên' nảy
sinh, và chúng ta ao ước được vui sướng trong tất cả những lạc thú của đời
sống, chúng ta không thể nào tránh khỏi bị tổn thương bởi vì cuộc đời dường
như không mấy hứa hẹn lắm và mọi chuyện dường như không xảy ra theo ý
muốn của con người. Chúng ta chỉ biết quay cuồng theo đời sống - chạy vòng
lẩn quẩn trong cái trạng thái của sự sợ sệt và khát khao. Và ngay cả khi
chúng ta có được mọi thứ chúng ta muốn, chúng ta sẽ nghĩ có cái gì đó còn
thiếu, cái gì đó vẫn chưa hoàn chỉnh. Thế thì ngay cả khi đời sống ở ngay cái
tuyệt đỉnh của nó, cái cảm giác này của sự đau khổ vẫn còn đó - có cái gì đó
vẫn chưa xong, một sự hoài nghi hoặc lo lắng vẫn đang ám ảnh chúng ta .
Một ví dụ điển hình, tôi vẫn thích cảnh trí đẹp. Có lần trong lúc ẩn trí ở Thụy
Sĩ, tôi được đưa đến một vùng rừng núi và ở đó nó đã cho tôi một cảm giác
của sự khổ não bởi vì có nhiều nguồn cảnh trí đẹp tuyệt vời. Tôi có cảm giác
như muốn chận giữ tất cả mọi thứ, làm tôi lúc nào cũng phải cố gắng thật tỉnh
táo để thưởng thức cho được mọi thứ bằng mắt. Điều đó đã thực sự làm tôi
rã rời! Thực trạng đó cũng chính là khổ (dukkha), phải thế không?
Tôi thấy rằng nếu tôi làm việc gì không cần sự chú ý - ngay cả những điều vô
hại như xem cảnh đẹp của núi đồi - nếu tôi chỉ thể hiện mình và cố gắng chận
giữ một cái gì đó, nó luôn luôn đem lại một cảm giác khó chịu. Làm sao bạn
giữ được Jungfrau và Eiger? Điều tốt nhất bạn có thể làm là chụp ảnh nó, cố
gắng thâu tóm được mọi thứ trên một miếng giấy. Đó là dukkha; nếu bạn
muốn chận giữ một cái gì đẹp bởi vì bạn không muốn xa nó - đó là đau khổ rồi.
Bị rơi vào những tình huống bạn không thích cũng là đau khổ. Ví dụ, tôi
không bao giờ thích đi xe điện ngầm ở Luân Đôn, tôi thường kêu ca về nó:
'Tôi không muốn đi xuống xe điện ngầm để phải thấy những tấm biển quảng
cáo kỳ quặc và những ga xe cáu bẩn. Tôi không muốn bị ép đứng trong
những toa xe ngầm dưới đất'. Tôi thấy nó như một kinh nghiệm cực kỳ khó
chịu. Nhưng rồi tôi lắng nghe tiếng nói rên rĩ than van này - sự đau khổ không
muốn chung đụng với những sự thể gây khó chịu. Sau khi nghiền ngẫm về
điều này, tôi đã ngừng tạo ra những cảm giác trên để có thể hoà mình vào
những cái khó chịu và không đẹp mà không phải đau khổ vì nó. Tôi đã nhận
thức rằng nó phải như vậy và như thế mọi việc rồi cũng ổn cả.
Chúng ta không cần tạo ra vấn đề - dù cho ở tại một ga xe điện ngầm cáu
bẩn hay đang ngắm cảnh đẹp. Sự vật là cái đang là, bởi vậy chúng ta có thể
nhận ra và hiểu được nó trong những dạng biến động mà không được bắt giữ
nó. Bắt giữ là muốn chận giữ lại những gì ta thích; tiêu diệt những gì ta không
thích; hoặc muốn chiếm hữu những gì ta không có.
Chúng ta có thể đau khổ nhiều bởi vì những người khác. Tôi nhớ có lần ở
Thái Lan tôi thường có những tư tưởng xấu về một vị sư. Lúc đó ông ta làm
những điều mà tôi nghĩ 'Ông ta không nên làm điều đó' hoặc ông ta nói
những điều mà tôi nghĩ 'Ông ta không nên nói điều đó!'. Tôi đã mang vị sư
này theo trong tâm trí và rồi, ngay cả nếu tôi đi tới những chỗ khác, tôi vẫn
nghĩ về vị sư đó; sự nhận thức về ông ta lại nảy sinh và cũng cái phản ứng đó
lại đến: 'Mình có nhớ khi ông ta nói điều này và khi ông ta làm điều đó?' và:
'Ông ta đáng lẽ không nên nói điều đó và ông ta đáng lẽ không nên làm việc đó'.
Tìm được một người thầy như Ajahn Chah, tôi nhớ mình đã muốn ông ta
hoàn thiện. Tôi nghĩ, 'ồ, ông ta là một người thầy kỳ diệu - tuyệt vời!'. Nhưng
rồi có khi ông lại làm điều gì đó khiến tôi buồn và tôi lại nghĩ, 'Tôi không muốn
ông làm bất cứ điều gì khiến tôi buồn bởi vì tôi muốn nghĩ ông thật tuyệt vời'.
Giống như nói, 'Ajahn Chah, lúc nào cũng phải tuyệt diệu đối với tôi. Đừng
bao giờ làm bất cứ điều gì có thể gieo những tư tưởng xấu trong tâm trí tôi'.
Như vậy ngay cả khi bạn gặp ai khiến bạn thực sự kính trọng và yêu mến,
vẫn có đau khổ của sự ái luyến. Họ sẽ không thể nào tránh khỏi làm hoặc nói
những điều khiến bạn ngờ vực mà bạn sẽ không thích hay chấp nhận được - và bạn sẽ đau khổ.
Có lần, một nhóm tu sĩ người Mỹ đến Wat Pah Pong, tu viện của chúng tôi ở
miền Đông Bắc Thái Lan. Họ rất khó tính và hình như họ chỉ thấy những điều
sai. Họ đã không nghĩ Ajahn Chah là một người thầy rất giỏi và họ cũng
không lấy làm thích tu viện lắm. Tôi cảm thấy giận vô cùng và sự căm ghét
nảy sinh bởi vì họ đã chê bai những gì tôi yêu mến. Tôi cảm thấy lòng đầy
căm phẫn - 'Tốt lắm, nếu các ông không thích thì xin ra khỏi chốn này. Ông ta
là bậc thầy giỏi trên thế giới và nếu các ông không thấy được thì xin ĐI!'. Sự
ràng buộc đó - thương và hy sinh - là đau khổ bởi vì nếu điều gì hoặc ai đó
bạn yêu thích bị chê bai hay chỉ trích, bạn cảm thấy giận và căm phẫn.
Lắm lúc sự tự chứng nảy sinh trong những lúc bất ngờ nhất. Điều này đã xảy
đến với tôi trong lúc sống tại Wat Pah Pong. Miền Đông Bắc Thái Lan không
phải là nơi đẹp và ưa thích nhất trên thế giới với những khu rừng rậm và bình
nguyên bằng phẳng; nó cũng rất nóng về mùa hè. Chúng tôi thường phải đi
ra ngoài trong cái nóng oi bức ban chiều trước ngày chay (Trai Nhật) để quét
sạch lá khô trên những lối đi. Những khoảng phải quét thật là mênh mông.
Chúng tôi phải tốn cả buổi chiều dưới ánh nắng mặt trời, mồ hôi nhễ nhại,
quét lá gom thành từng đống với những cây chổi thô sơ; đây là một trong
những bổn phận của chúng tôi. Tôi đã không thích làm việc này. Tôi nghĩ, '
Tôi đâu có muốn làm việc này. Tôi đến đây không phải để quét lá; tôi đến đây
để ngộ đạo - và sao họ lại bắt tôi quét lá. Hơn nữa, trời thì nóng và da tôi lại
trắng; biết đâu tôi lại bị ung thư da vì phơi nắng ngoài trời trong cái khí hậu nóng'.
Tôi đang đứng ngoài đó vào một buổi chiều, cảm thấy rất là khổ sở, suy nghĩ,
'Tôi đang làm gì ở đây? Tại sao tôi đến đây? Tôi ở lại đây làm gì?'. Tôi đứng
ở đó với cây chổi dài thô sơ của tôi và tuyệt đối không còn một chút năng lực,
cảm thấy thương hại cho chính tôi và căm ghét mọi thứ. Rồi Ajahn Chah đến,
cười tôi và nói, 'Wat Pah Pong khổ quá, phải không?' rồi bỏ đi. Và như thế
mà tôi nghĩ, 'Tại sao ông ta lại nói như vậy?' và, 'Thật ra, bạn có biết, nó
không đến nỗi tệ như vậy đâu' Ông đã khiến tôi phải suy đi nghĩ lại: 'Quét lá
có thực sự khó chịu như thế không? ... Không, không chút nào hết. Quét lá là
một việc làm thật vô tư; bạn quét lá, và nó không ở đây cũng không ở kia ...
Đổ mồ hôi có ghê gớm không? Quét lá có thực sự là một kinh nghiệm khổ sở
nhục nhã không? Quét lá có thực sự tệ hại như những gì tôi đã giả vờ như
thật không? ... Không - đổ mồ hôi cũng là bình thường thôi, nó là một điều
hoàn toàn tự nhiên. Và tôi không bị ung thư da và người ở Wat Pah Pong
cũng tử tế nữa. Thầy là một người tử tế công minh. Mấy sư cũng đối xử rất
tốt. Những người trần tục đến và cho tôi thức ăn, và Tôi còn phàn nàn cái gì?'
Nhìn lại kinh nghiệm thực tế sống ở đó, tôi nghĩ, 'Tôi chẳng có vấn đề gì cả.
Mọi người trọng tôi. Tôi được đối xử tử tế. Tôi đang được huấn tập bởi những
người tốt trong một quốc gia dễ chịu. Không có điều gì thật sự sai trái cả, trừ
tôi ra; tôi đang tạo dựng một vấn đề bởi vì tôi không muốn đổ mồ hôi và tôi
không muốn quét lá'. Như thế tôi đã có được một sự tự chứng rõ ràng. Tôi
chợt nhận thức được trong tôi những gì đã luôn luôn phàn nàn và chê trách,
những gì đã ngăn cản tôi làm việc thiện nguyện trong mọi hoàn cảnh.
Một kinh nghiệm khác tôi đã học được từ cái thông lệ rửa chân cho những vị
sư cao tuổi sau khi họ trở về từ những chuyến đi khất thực. Vì họ đi chân
không xuyên làng mạc và đồng ruộng, chân họ thường dính bùn. Bên ngoài
phòng ăn là những chậu rửa chân. Khi Ajahn Chah về, tất cả những tỳ kheo
khác chạy ra - khoảng chừng hai đến ba mươi người - đổ xô ra để rửa chân
Ajahn Chah. Khi nhìn thấy cảnh nầy lần đầu tôi đã nghĩ, 'Tôi sẽ không làm
chuyện này - không có tôi!', Qua ngày hôm sau, ba mươi vị tỳ kheo cũng lại
đổ xô ra ngay khi Ajahn Chah xuất hiện để rửa chân ông và... 'Điều đó đã
thực sự làm tôi giận, tôi chán cái cảnh này lắm rồi! Tôi chỉ cảm thấy đó là điều
ngu xuẩn nhất tôi đã từng nhìn thấy - ba mươi người chạy ra để rửa chân cho
một người! Ông ta chắc chắn nghĩ mình rất xứng đáng - và điều đó càng
củng cố cái tôi của ông ta. Ông ta chắc chắn có một cái tôi rất lớn, có thật
nhiều người rửa chân ông ta mỗi ngày. Tôi sẽ không bao giờ làm điều đó!'
Trong tôi đã bắt đầu kết tụ một phản ứng mạnh, một phản ứng quá trớn. Tôi
ngồi thừ ra cảm thấy khổ sở và phẫn uất. Tôi lại nhìn mấy sư và tôi nghĩ, 'Họ
trông thật ngu xuẩn. Tôi cũng không biết tôi đang làm gì ở đây'
Nhưng rồi tôi bắt đầu lắng nghe và suy nghĩ, 'Đây thực sự là một tâm trạng
khó chịu. Có gì đâu mà phải bực dọc. Họ đâu có bắt buộc mình làm, không
sao; đâu có chuyện gì quấy trong việc ba mươi người rửa chân một người.
Điều này không phản luân lý cũng không phải là việc hành xử ác và có lẽ họ
thích như vậy; có lẽ họ muốn làm điều đó - có lẽ làm như vậy cũng được
thôi... Có lẽ tôi cũng nên làm điều đó!'. Thế là sáng hôm sau, ba mươi mốt vị
sư đã ùa ra để rửa chân Ajahn Chah. Sau đó rồi chẳng còn vấn đề gì cả. Tôi
cảm thấy vui: sự khó chịu trong tôi đã chấm dứt.
Chúng ta có thể nhìn lại những điều đã làm cho ta nổi sân và căm tức: có cái
gì sai đâu hay đó chỉ là cái dukkha chúng ta tạo ra? Khi ấy chúng ta bắt đầu
hiểu được những vấn đề chúng ta tạo ra trong đời sống của chúng ta và trong
đời sống của những người khác xung quanh ta.
Với chánh niệm, chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống; với kích thích và
chán nản, hy vọng và tuyệt vọng, vui sướng và đau đớn, say mê và mệt mỏi,
bắt đầu và chấm dứt, sanh và tử. Chúng ta vui lòng chịu đựng cả cuộc sống
trong tâm chứ không phải chỉ thâu nhận cái vui lòng và đè nén cái khó chịu.
Tiến trình của sự tự chứng là đến với dukkha, thấy dukkha, thừa nhận
dukkha, công nhận dukkha trong mọi hình thức. Có như vậy bạn mới không
còn phản ứng theo thói quen của sự chìu theo hoặc đè nén. Và nhờ vậy, bạn
có thể chịu đựng nhiều hơn, bạn sẽ có nhẫn nại hơn với nó.
Những lời dạy này không ngoài kinh nghiệm của chúng ta. Thật ra, nó là sự
xét lại kinh nghiệm thực tế của chúng ta - không phải là những vấn đề trí thức
rắc rối. Như vậy phải thực sự dồn hết nổ lực vào sự khai triển thay vì phải
chịu sa vào vũng lầy. Bao nhiêu lần bạn đã cảm thấy áy náy về sự thất bại
của bạn hay những lỗi lầm bạn đã mắc phải trong quá khứ? Bạn có phải tốn
thì giờ chỉ để tống ra những thứ đã xảy ra trong đời sống của bạn và để bị mê
hoặc trong những bàn luận và phân tích không bao giờ chấm dứt? Nhiều
người đã tự tạo cho họ những nhân tính phức tạp. Nếu bạn chỉ miệt mài theo
đuổi những hoài niệm, quan điểm và ý kiến của bạn thì bạn sẽ luôn luôn
vướng mắc trong thế giới đó và không bao giờ có thể thoát ra khỏi những giới
hạn đó bằng bất cứ cách nào.
Bạn có thể trút gánh nặng này nếu bạn tự nguyện áp dụng những lời dạy này
một cách thiện xảo. Hảy tự nhủ với mình: 'Tôi sẽ không để vướng phải điều
này nữa; Tôi từ chối gia nhập trò chơi này. Tôi sẽ không nhượng bộ cho cái
tánh khí này'. Hảy khởi sự tự đặt bạn vào trong cương vị của sự hiểu biết:
'Tôi biết đây là dukkha; có dukkha'. Tìm ra giải pháp đưa đến chỗ nào có đau
khổ để mà chịu đựng theo nó là một điều quan trọng. Chỉ có bằng cách khảo
nghiệm và đương đầu đối mặt với đau khổ, người ta mới có thể hy vọng có
được sự tự chứng toàn triệt: 'Đau khổ này đã được hiểu'
Ba luận điểm của Khổ Đế đã được trình bày như trên. Đây là công thức bạn
phải dùng và áp dụng trong cái nhìn về cuộc đời của bạn. Khi nào bạn cảm
thấy đau khổ, đầu tiên phải có sự công nhận: 'Có đau khổ', kế đó: 'Đau khổ
phải được hiểu', và cuối cùng: 'Đau khổ đã được hiểu'. Sự hiểu biết về
dukkha là sự tự chứng trong Khổ Đế.
6. Các bài ging pháp hay vKhổ đế trong Tdiu đế
Thuyết giảng: Thượng Tọa Thích Chân Quang Giảng tại: Chùa Từ Tân, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh
Nguồn trích từ tác phẩm: Tứ diệu đế - Ajahn Sumedho Dương Vĩnh Hùng Dịch
7. Mt scâu hi thường gp về Đạo Pht và lun gii
7.1 Ý Nghĩa ca danh t“Pht” (Buddha) ?
Danh từ “Buddha” có nghĩa là “người giác ngộ”, có nghĩa là người thức tỉnh,
người nhìn ra chân lý, người giác ngộ chân lý.
Vào thế kỷ thứ 2 sau CN khi những sư thầy người Ấn Độ qua miền Bắc của
Việt Nam để truyền dạy Phật Pháp thì danh từ “Buddha” đã được phiên âm ra
thành “Bụt”. Người Trung Hoa thì phiên âm ra tiếng Hán và sau đó được
phiên âm qua tiếng Hán Việt là “Phật Đà”. Từ đó đến nay, người Việt quen gọi là “Phật”.
Vì sao Phật được gọi là “Người giác ngộ” theo đúng nghĩa của danh từ này?.
Bởi vì Phật đã tìm ra và hiểu rõ bốn chân lý về sự sống của con người và
thế gian. Đó là Tứ Diệu Đế mà sau này Đức Phật dùng để khai giảng giáo lý
Phật giáo. Và vì là một người từ trong màn đêm vô minh đã thức tỉnh và giác
ngộ được những chân lý nên được gọi là “người giác ngộ”. Và cũng vì Phật
là một người vừa giác ngộ chân lý vừa truyền dạy và khai sáng cho mọi
người nên cũng được gọi là một “bậc giác ngộ hoàn toàn”, hay một vị Phật
toàn giác, vị Phật Chánh đẳng Chánh giác (Samma Sambuddha).
Trước khi giác ngộ, Người đã là bậc Bồ-tát (Bodhisattva) có nghĩa là Phật
(Bodhi) của chúng sinh (sattva), có tâm nguyện vừa tu hành vừa cứu độ
chúng sinh để cùng nhau giải thoát và có tâm nguyện chứng thành quả vị
Phật (thay vì quả vị A- la-hán). Người không phải vừa được sinh ra đã là Phật,
nhưng Người giác ngộ trở thành Phật nhờ vào những nỗ lực cá nhân và quá
trình tu hành vô cùng gian khổ mới chứng ngộ thành Phật. Mỗi người có hạnh
nguyện trở thành vị Phật đều phải trải qua những giai đoạn làm Bồ-tát. Đó là
những giai đoạn của nhiều kiếp sống trong quá khứ. Trong suốt giai đoạn làm
Bồ-tát, người đó phải trải qua nhiều bước bậc tu hành kiên trì và đầy thử
thách và phải phát triển những Đức Hạnh Hoàn Thiện gọi là những hạnh Ba-
la-mật (Parami), như là: hạnh bố thí, trì giới, xuất gia (từ bỏ cuộc sống gia
đình), trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, quyết định, tâm từ và tâm xả bỏ hoàn toàn.
Trong một kỷ nguyên “Phật kiếp” thì chỉ xuất hiện một vị Phật Toàn Giác.
Cũng như một cây chỉ nở được một bông hoa, kinh điển ghi rằng một thế giới
hay một đại kiếp chỉ sinh ra một vị Phật Toàn Giác.
"Này các Tỳ kheo, chỉ có một người được sinh ra vào trong thế giới này vì lợi
ích và hạnh phúc của mọi người, vì lòng bi mẫn dành cho thế gian, vì lợi ích,
phúc lành và hạnh phúc của những trời và người. Đó là một người nào?.
Đó là Như Lai (Tathagata)16, người là một A-la-hán, một Đức Phật Toàn Giác
".]
(trích “Tăng Chi Bộ Kinh”-Anguttara Nikaya)
Đức Phật là một chúng sinh vô song và vô đẳng. Hiếm thay thế gian có một vị
Phật xuất hiện. Vị Phật Toàn Giác xuất hiện trên thế gian này trong thời
kiếp trái đất của loài người sinh sống, vì lòng
bi mẫn của Người dành cho
tất cả chúng sinh, vì lợi ích và hạnh phúc của tất cả chúng sinh. Đức Phật 16
Như Lai (Tathagata) là danh từ Đức Phật thường dùng để tự xưng mình và
cũng dùng để chỉ những vị Phật Toàn Giác khác trong quá khứ và tương lai.
còn được gọi bằng nhiều cái tên khác theo nhiều ý nghĩa giác ngộ và đức
hạnh của Người. Trí tuệ hiểu biết về những bí mật và chân lý của thế gian và
của sự sống là do chính Đức Phật nỗ lực bản thân để tìm ra, chứ không
phải là loại kiến thức có được từ giáo dục hay từ một vị thầy khác. Chính vì
điều này mà Đức Phật đã luôn luôn khuyên dạy chúng ta rằng sau khi có
được những kiến thức từ học tập giáo pháp, từ những người sư thầy (trí
hữu sư) thì chúng ta nên tiếp tục tu tập tâm để đạt đến loại trí tuệ giác ngộ
của chính mình (trí vô sư). Sự tiến bộ về tâm linh và giác ngộ chân lý là do
mỗi người tự làm và có được, không ai có thể giác ngộ hay giải thoát giùm cho mình.
Khó thay sinh ra được làm người. Khó thay có cuộc đời hữu hạn Khó thay
có được nghe Diệu Pháp
Khó thay có vị Phật ra đời” (Kinh Pháp Cú–Kệ 182)
7.2 Có phi đạo Pht là bi quan hay không? Không phải vậy.
Có lẽ cách nói này là cách nói của đại đa số những quần chúng không theo
đạo Phật, hoặc họ có theo đạo Phật nhưng có sự hiểu biết hạn chế nên
có sự hiểu lầm như vậy.
Sự hiểu lầm đơn giản nhất là khi họ thấy những người từ bỏ đời sống gia
đình và xuất gia đi tu, thì họ cho đời là khổ nên người xuất gia bỏ đi để tránh
cái “đời là bể khổ”.
Sự hiểu lầm thứ hai có thể là do hiểu lầm về bốn sự thật “Tứ Diệu Đế” mà
Đức Phật đã dạy. Ví dụ như Sự Thật thứ nhất không thể chối cãi được là
mọi người hay chúng sinh đều phải chịu những sự khổ từ khi sinh, đến già,
bệnh, chết,...vân vân
”. Nếu Đức Phật đã nhìn ra lẽ thật này như một quy luật
và dừng lại ở đó, thì đúng là bi quan thật, thì nghe sẽ thật buồn, ngỡ ngàng
và tuyệt vọng. Nhưng Phật đã mở ra con đường (cách) để giải quyết và trừ bỏ những sự khổ đó.
Đức Phật sau khi giác ngộ đã tìm ra con đường để giải quyết “vấn nạn về
khổ” này của sự sống. Từ đó, trong những Sự Thật 2, 3, và 4 tiếp theo, Phật
đã khai giảng con đường và phương cách để giải thoát dần dần và hoàn toàn
khỏi những sự khổ đau đó. Như vậy là thực-tiễn, là hữu-ích, là có hy-vọng,
là lạc-quan chứ không phải là bi-quan.
Bạn sẽ đọc thêm trong phần vấn đáp phía sau nói chi tiết hơn về “Tứ Diệu Đế”
và con đường “Bát Chánh Đạo” để hiểu thêm về khía cạnh thực tiễn và cứu
giúp của đạo Phật. Càng hiểu thêm, thì càng thấy tự tin để thực hành, và
càng thực hành đúng đắn, thì càng thấy bình an và hạnh phúc.
Thật ra Phật giáo cũng không phải là hoàn toàn lạc quan trước hoàn cảnh
của chúng sinh còn u mê trong vô minh bất tận, còn lăn lộn trong vòng
luân hồi sinh tử với vô vàn dục vọng và nghiệp xấu ác đã và đang được tạo
ra trong vô vàn kiếp sống và trong kiếp này. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn hy-vọng
và lạc- quan rằng ít nhiều trong số loài người và chúng sinh sẽ có thể tu hành
thành công để vượt qua khổ đau và sinh tử ngay trong kiếp này.
Câu trả lời “trung đạo” hơn và đúng hơn có lẽ là: Phật giáo là không bi quan
cũng không lạc quan theo một chiều cực đoan nào hết. Mà Phật giáo là
“thực tiễn”, chỉ ra những “vấn nạn” hiển nhiên, và chỉ ra con đường để giải quyết chúng
.
Đạo Phật là đạo giải thoát và giúp giải thoát, nên không thể là một đạo bi quan.
7.3 Bn Chân Lý làm nn tng giáo lý ca Pht giáo là gì? Tứ Điệu Đế
Tại sao chúng ta đang tồn tại ở đây?. Tại sao chúng ta không hạnh phúc với
cuộc sống của chúng ta? Nguyên nhân của những điều không hạnh phúc và
bất toại nguyện? Làm thế nào để không còn khổ, không còn bất hạnh, và
không còn bất toại nguyện? Làm thế nào để có được niềm hạnh phúc lâu bền?
Giáo lý của Đức Phật là dựa vào Bốn Chân Lý Cao Diệu, còn gọi là Tứ Diệu
Đế. Để nhận biết được chân lý thì chúng ta cần phải nhận biết và thấu
hiểu vào bản chất tự nhiên của sự sống bằng chính trí-tuệ hiểu biết của mình.
Khi chúng ta hiểu thấu được rằng tất cả mọi hiện tượng đều là nhất- thời và
giả-tạm, luôn bị thay-đổi… thì chúng ta đã nhận ra được tính chất “khổ” bên
trong mọi sự-vật hiện-tượng và bên trong sự-sống trên đời này. Vì vậy,
chúng ta cũng sẽ suy luận ra rằng hạnh phúc bền-lâu không thể nào có được
bằng những con đường vật chất hay những thành đạt thế tục, mà hạnh phúc
bền-lâu là nằm trong tâm, thuộc về tâm, và chỉ có được thông qua con
đường tu tập cho tâm thanh tịnh, để tạo ra loại trí-tuệ giải thoát khỏi khổ.
Tứ Diệu Đế là cốt-lõi của giáo lý Đức Phật. Phật đã nói rằng bởi vì chúng ta
không hiểu được bốn chân lý Tứ Diệu Đế này nên chúng ta còn mãi đi trôi
giạt trong vòng luân hồi sinh tử. Tứ Diệu Đế đã được Đức Phật khai giảng
trong bài thuyết giảng đầu tiên cho bốn người bạn tu trước đó là nhóm ngài
Kiều-Trần-Như (Kodanna) tại khu Vườn Nai ở Sarnath, Ấn Độ vào Năm 588 trước Công Nguyên.
Cũng như đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn của muối. Giáo Pháp
của Phật cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát
”.
(kinh Phật Tự Thuyết”-Udana 56) Vậy bốn chân lý “Tứ Diệu Đế” là gì?. 1. Chân lý thứ nhất:
Tất cả chúng sinh, con người đều phải phụ thuộc và chịu đựng tất cả
những thứ như buồn phiền, thất vọng, khó chịu, đau bệnh, già, chết, bất an,
lo lắng… Nói tóm lại, tất cả đều bị “Khổ”, tức là luôn luôn phụ thuộc vào
những sự khổ và và bất toại nguyện. Không ai thoát được. 2. Chân lý thứ hai:
Những nguyên nhân của tất cả các dạng “Khổ” trong tất cả chúng sinh
và con người là dục-vọng (sự tham muốn, thèm muốn). Mà dục vọng chính
là cái “ảo tưởng sai lầm” của con người về một ‘linh hồn’, về một cái ‘ta’ của
mình20. Vì có cái ‘ta’ nên người ta tham lam, muốn có, muốn được, muốn
được cho hiện tại, muốn có cho tương lai, và kết cục là cả đống những cái-
muốn và dục-vọng đó dẫn đến khổ: khổ vì bất toại nguyện, khổ vì những điều
không tốt, khổ vì bị tái sinh…
Nói tóm lại, theo Phật giáo, nếu không có dục- vọng thì không có khổ và
không phải bị tái sinh sinh tử như vậy. Khi nào hết dục-vọng thì sẽ không
còn khổ, vì cũng không còn sinh tử tái sinh. Nguyên lý là vậy. 3. Chân lý thứ ba:
Sự chấm dứt hay tiêu diệt hết “khổ” là trạng thái thoát khổ và hạnh phúc.
Muốn tiêu diệt hết khổ thì phải nhổ sạch nguồn gốc và nguyên nhân của khổ.
Nguồn gốc và nguyên nhân của khổ chính là dục- vọng và tham-muốn. Dục-
vọng thì biểu hiện bằng những bản chất Tham, Sân, Si của tâm chúng ta.
Vậy phải thực hành việc tiêu diệt hết những bản chất tham, sân, si đó để
tiêu diệt dục-vọng. Nguyên lý là vậy. 4. Chân lý thứ tư:
Việc tiêu diệt hết “khổ” và nguồn gốc tạo ra “khổ” là có-thể-làm-được thông
qua một con đường thực hành. Có một con đường để thành tựu việc này là
con đường tám phần (Bát Chánh Đạo) do chính Đức Phật tìm ra và chỉ dạy lại cho chúng ta.21
Không nên cho rằng giáo lý ở đây là “bi quan” vì chỉ dựa vào nền tảng của
sự “khổ”. Giáo lý Phật giáo ở đây là “thực-tiễn”, là “hữu-dụng” khi chỉ ra được
lẽ-thật và nguyên-nhân của cuộc đời, và cách đối diện với nó. Hơn nữa, Phật
giáo cũng nên được coi là giáo lý “lạc quan” vì đã chỉ ra con đường để dẫn
đến sự giải thoát, dẫn đến giác ngộ và trạng thái hạnh phúc lâu bền và mãi
mãi (Niết-bàn). Vậy đạo Phật là một con đường hạnh phúc.
Bước đi trên con đường này thì các người sẽ diệt trừ được mọi khổ đau. Ta
đã tìm ra cách nhổ sạch gai độc dục vọng, và nay Ta chỉ cho các người
.”
(Kinh Pháp Cú–Kệ 257).
Nếu chúng ta muốn diệt trừ đau khổ hay giải thoát khỏi đau khổ thì chúng ta
cần biết rõ nguyên- nhân gây ra đau khổ. Theo Đức Phật, dục-vọng chính là
nguyên-nhân và nguồn-gốc của mọi khổ đau. Đây là Chân Lý Thứ Hai đã
nói ở trên. Mọi người đều chạy theo khoái lạc giác quan, chạy theo tiện nghi
và của cải vật chất, vì tham lam ích kỷ luôn tìm cầu sự sống bất diệt cho kiếp
sau, vì bất mãn vô vọng thì cho rằng chết là hết và thỏa thích chạy theo thỏa
mãn kiếp này, bất chấp quy luật nhân quả. Không phải mọi người chỉ dính
vào những dục-vọng về vật-chất phàm tục như khoái lạc, của cải, quyền
lực…mà nhiều người còn dính vào những dục-vọng về tinh-thần khác như tư
tưởng, lý tưởng, cách nhìn, thiên kiến, khái niệm, niềm tin, tín ngưỡng.
Và mọi dục-vọng cũng đều do sự ngu dốt si mê [vô minh] mà ra, vì không
thấy được bản chất đích thực của mọi sự trên đời như-chúng-là. Sự ngu-si
hay vô-minh cũng giống như màn đêm che mờ làm người ta không thấy được
cái gì cả. Hoặc sự ngu-si hay vô-minh cũng giống như cái kính viễn vọng hay
ống dòm hay màn sương mù làm cho ta luôn thấy mọi sự vật lúc to lúc nhỏ,
lúc đậm lúc lợt, lúc ẩn lúc hiện, không đúng như hình hài vật lý đích thực của nó.
Vì vô minh và không nhận ra được bản chất của sự sống nên ta sinh ra cái
‘ngã’, cái ‘ta’, cái ‘linh hồn’ và dính chấp bảo thủ vào ‘nó’, bảo vệ ‘nó’, cho ‘nó’
là cái ‘hồn’ bất biến và bất tử của mình, nhưng thật ra nó chỉ là sản phẩm của
những yếu tố luôn luôn thay-đổi và vô-thường trong từng giây phút. Chưa
bao giờ có hơn hai khoảng khắc nó là một cái gì bất biến cả. Và khi dính
chấp vào nó, bảo vệ nó, dung dưỡng nó, chăm sóc nó, thỏa mãn nó không
được thì dẫn đến đau khổ và thất vọng. Lúc nào cũng vậy, thói đời là vậy, thói tâm là vậy.
Món quà nào cao quý bằng món quà Chân Lý. Vị nào cao quý bằng vị của Chân Lý.
Khoái lạc nào cao quý bằng niềm vui Chân Lý. Người đã diệt trừ được mọi
dục vọng vượt qua mọi phiền não.
(Kinh Pháp Cú – Kệ 354).
Dục-vọng là lửa thiêu đốt mọi chúng sinh: Mọi hành vi là do sự thúc đẩy của
dục-vọng. Có thể xếp loại từ những ham muốn ăn uống thông thường của
những loài vật cho đến những ham muốn phức tạp của con người—thường
là do mình tạo ra, do mình nghĩ ra, tự tạo ra, do ‘văn minh’ tạo ra. Để thỏa
mãn những dục vọng ăn ở và sinh tồn, loài vật săn đuổi giết nhau, và loài
người thì tranh đấu, giết hại, lừa dối, gạt gẫm nhau theo đủ dạng từ những
dạng vô- luật cho đến có-luật-lệ, và làm nhiều hành động bất thiện, xấu ác.
Dục-vọng là nguồn lực mạnh mẽ nhất có mặt trong mọi dạng của sự sống, và
nó là nguyên nhân “chính” tạo ra mọi điều xấu ác bất thiện ở trên đời.
Và chính mọi điều xấu, ác, bất thiện… này tạo ra nghiệp, và đó là nguyên
nhân tạo ra tái-sinh. Mà mỗi lần tái-sinh là mỗi lần mang theo và dính mắc
vào trùng trùng những nguồn-gốc và nguyên-nhân của mọi khổ đau.
Khi chúng ta đã nhận ra được nguyên-nhân tạo ra đau khổ, thì chúng ta
luôn có xu hướng diệt trừ lần lần nguyên-nhân đó, và chấm dứt đau khổ.
Làm thế nào để chúng ta chấm dứt đau khổ? Đó là nhổ hết “gốc” của nó
bằng cách “xóa sạch” dục-vọng trong tâm của chúng ta, theo đạo Phật là vậy.
Đây là Chân Lý Thứ Ba. Khi một người nhổ sạch tận gốc của dục-vọng, thì
người đó được giải thoát, không còn nguyên-nhân tạo ra đau khổ và tái
sinh…, không còn sinh ra, khổ, già, bệnh, rồi chết nữa. Trạng thái giải thoát
như vậy được gọi là Niết-bàn (Nibbana). Trạng thái này còn được gọi là vô-
sinh, vô-hình, vô- tạo-tác, vô-vi, vượt qua những khái niệm và cảm nhận
thông thường của chúng ta.
Làm thế nào để thành tựu và thụ hưởng được trạng thái này của tâm?. Điều
đó không dễ dàng một chút nào. Tuy nhiên, cách dễ dàng nhất và khoa học
nhất là bắt đầu bước đi trên con đường “đạo” một cách đúng đắn, thực hành
từng bước con đường Bát Chánh Đạo mà Đức Phật đã cố gắng hết
phần đời còn lại của mình chỉ dạy cho con người.
Document Outline

  • Khổ Đế là gì? Chân lý của khổ đế là gì?
    • 1. Đau Khổ và Ngã Tưởng
    • 2. Sự Chối Bỏ Đau Khổ
    • 3. Đạo Đức và Từ Bi
    • 4. Để Khảo Cứu Sự Đau Khổ
    • 5. Thỏa Mãn và Bất Mãn
    • 6. Các bài giảng pháp hay về Khổ đế trong Tứ diệu
    • 7. Một số câu hỏi thường gặp về Đạo Phật và luận g
      • 7.1 Ý Nghĩa của danh từ “Phật” (Buddha) ?
      • 7.2 Có phải đạo Phật là bi quan hay không?
      • 7.3 Bốn Chân Lý làm nền tảng giáo lý của Phật giáo