hiệu lực của trắc nghiệm. Nhưng mặt khác, chính sự tham gia trực tiếp và tích cực đó của nghiệm viên trong kiểu trắc nghiệm cá nhân, sự ghi
nhận không phải lúc nào cũng đầy đủ và chính xác về các phản ứng của nghiệm thể, sự đánh giá chủ quan của nghiệm viên về kết quả của từng
bài tập trắc nghiệm hoặc một nhóm các bài tập trắc nghiệm… dĩ nhiên sẽ hạ thấp độ tin cậy của các chỉ số trắc nghiệm khi sử dụng kiểu trắc
nghiệm cá nhân. Việc sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại (máy ghi âm, phim ảnh…) cũng như sự đánh giá độc lập về các hành vi của
nghiệm thể và về các kết quả thử nghiệm của hai hay nhiều quan sát viên và người tính toán đều được hướng vào việc nâng cao độ tin cậy của
các trắc nghiệm cá nhân.
Tất cả những vấn đề đó sẽ khác đi và được giải quyết theo một cách khác trong các trắc nghiệm nhóm. Ở đây nhiều nhân tố chủ quan của
nghiệm viên được giảm đến mức tối thiểu. Các phản ứng của nghiệm thể được ghi lại một cách chính xác, việc tính toán các kết quả được khách
quan hóa một cách tối đa, thường được tiến hành theo một mộ khuôn mẫu có sẵn hoặc bằng máy. Không nghi ngờ gì nữa, tất cả các điều đó cho
phép nâng cao độ tin cậy của các trắc nghiệm. Tuy nhiên mặt rất yếu của các trắc nghiệm nhóm là ở chỗ, chỉ ghi nhận được các là quả thực hiện
bài tập, chứ không phải là quá trình dẫn đến các kết quả đó. Tất nhiên, nhằm mục đích thực hành, chúng ta thường quan tâm đến những kết quả
cuối cùng của trắc nghiệm, nhưng con đường đạt đến kết quả đó cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Một câu trả lời đúng, thu được bằng trí nhớ giản
đơn hay bằng con đường thủ cựu, hoặc bằng sự đoán mò ngẫu nhiên… thì ít giá trị hơn nhiều so với câu trả lời không đúng, thu được bằng con
đường tư duy phức tạp, khi mà nghiệm thể nhìn thấy một cách sâu sắc hơn trong chính bản thân bài tập có cái gì đó khó hiểu hơn, phức tạp hơn
so với chính nghiệm viên dự tính.
Tuyệt đại đa số các trắc nghiệm tâm lí mang tính chất ngôn từ. Nhưng từ năm 1917, khi dùng trắc nghiệm quảng đại, tiến hành trong việc tổ
chức quân đội Mĩ, các nhà tâm lí học Mĩ đã gặp khó khăn trong việc sử dung các trắc nghiệm ngôn từ, dù là nói hoặc viết, đối với một phần lớn
dân số được động viên vào quân đội. Nhiều người không biết tiếng Anh hoặc mù chữ. Bởi vậy, song song với loại trắc nghiệm ALPHA lục quân
người ta đã soạn thảo loại BETA lục quân để thử nghiệm sự phát triển trí tuệ bằng kĩ năng thao tác các đối tượng phi ngôn ngữ khác nhau của
nghiệm thể. Kết quả là người ta đã có được những cái gọi là trắc nghiệm thực thi hay hành động để thử nghiệm trẻ em ở tuổi mẫu giáo, cũng như
cả những người lớn không biết tiếng Anh, hoặc khó đọc và viết bằng tiếng Anh. Thoạt đầu các trắc nghiệm này được coi là một biến dạng của trắc
nghiệm trí tuệ, nhưng cuối cùng nó đã được sử dụng rộng rãi trong việc tuyển chọn nghề nghiệp đối với các công việc khác nhau, đòi hỏi cái gọi
là “đầu óc thực hành”, kĩ năng thao tác với các đồ vật, các máy móc và con người, cũng như để thử nghiệm các năng lực chuyên môn khác. Ngày
nay, các trắc nghiệm về năng lực chuyên môn đã vượt trội so với các trắc nghiệm về trí tuệ, cả về số lượng lẫn sự đa dạng. Ở Mĩ, chúng được sử
dụng rộng rãi để tuyển chọn học viên vào các trường chuyên môn, vào các binh chủng quân đội khác nhau, để tuyển chọn nhân viên và cán bộ
trong các bộ máy quản lí, cho đến việc tuyển chọn cán bộ khoa học, kĩ thuật thuộc các chuyên môn và ngành nghề khác nhau. Những trắc nghiệm
chuyên biệt như vậy thường được sử dụng song song với các trắc nghiệm phát triển trí tuệ và cái gọi là trắc nghiệm về tính cách.
Trong việc lựa chọn các hình thức trắc nghiệm đã nảy sinh nhiều vấn đề quan trọng. Những trắc nghiệm cá nhân đầu tiên thường được xây
dựng trên cơ sở những câu trả lời độc lập, tự do củi nghiệm thể. Những câu trả lời càng đầy đủ thì càng cung cấp cho nghiệm viên nhiều tài liệu
để phán đoán và đánh giá năng lực được đo. Tuy nhiên, việc đánh giá những câu trả lời tự do đòi hỏi nghiệm viên phải có trình độ chuyên môn,
khoa học cao và dĩ nhiên, họ đều mang trong mình dấu ấn của tính chủ quan. Với sự chuyển sang các trắc nghiệm nhóm, thì vấn đề tiêu chuẩn
hóa các điều kiện cho các nghiệm thể đã được đặt ra. Đã nảy sinh nhiều hình thức đa dạng đặt tất cả mọi nghiệm thể trong những khuôn khổ thời
gian và không gian như nhau. Các câu trả lời tự do đã được quy lại thành một số từ hạn chế, mà nghiệm thể phải đặt vào một vị trí nhất định: vào
cuối câu hay bằng cách điền vào chỗ trống trong bài tập. Tuy nhiên, sự giới hạn như thế không khắc phục hoàn toàn được tính chủ quan của việc
đánh giá, vì những câu trả lời tự do có đặc điểm là rất đa dạng và thường vượt ra khỏi giới hạn mà người lập tức nghiệm dự tính và chờ đợi.
Để khắc phục nhân tố chủ quan đó khi đánh giá các câu trả lời, người ta bắt đầu đưa ra các hình thức trắc nghiệm khác nhau, đòi hỏi các
nghiệm thể phải lựa chọn một câu nào đó trong số một vài câu trả lời có sẵn. Ở đây bao gồm tất cả các hình thức chọn một trong hai: đúng – sai,
có - không, “+” - “–“ . Ở đây cũng gồm tất cả các trắc nghiệm mà trong đó người ta yêu cầu nghiệm thể chọn lấy một trong số ba, bốn hai năm
câu trả lời cho sẵn mà mình cho là đúng hoặc đúng nhất. Cuối cùng, ở đây còn bao gồm cả hình thức trắc nghiệm mà trong đó người ta đưa ra
cho nghiệm thể hai loạt đối tượng hay những câu khẳng định, được phân bộ theo cách khác nhau (ví dụ, bản liệt kê tên các quốc gia ở một cột và
tên các thủ đô của chúng ở cột kia), và nghiệm thể phải nối bằng một đường kẻ mà đối tượng ở loạt này với đối tượng phù hợp với nó ở loạt kia
(mỗi quốc gia với thủ đô của nó) – hình thức đối chiếu cặp đôi.
Trong thời gian gần đây phương pháp lựa chọn trở thành hình thức trắc nghiệm thống trị. Nó cũng đã được sử dụng rộng rãi như là một
phương pháp kiểm tra trong dạy học chương trình hóa và trong các máy dạy học. Vì vậy cũng nên dừng lại đôi chút ở những ưu điểm và nhược
điểm của nó.
Vì sự đánh dấu đơn giản vào một trong số những câu trả lời cho sẵn mất ít thời gian hơn so với sự suy nghĩ và ghi câu trả lòi độc lập,
thường gồm nhiều từ, nên phương pháp lựa chọn cho phép đưa vào trong trắc nghiệm nhiều bài tập hơn nhiều so với phương pháp trả lời tự do.
Điều này cho pháp nghiên cứu một phạm vi rộng lớn và toàn diện hơn (ví dụ, tài liệu theo chương trình của mỗi môn học, hoặc các mặt khác nhau
của hoạt động tư duy). Và như trên đã nói, số lượng các bài tập trong trắc nghiệm càng lớn thì độ tin cậy của nó càng cao.
Phương pháp lựa chọn cho phép xử lí mỗi bài tập tốt hơn: kiểm tra cẩn thận và nhiều lần các cách diễn tả khác nhau của cả câu hỏi lẫn các
câu trả lời trong mỗi bài tập, làm dễ dàng cho việc xây dựng một vài loại song song cần cho sự xác định độ tin cậy của trắc nghiệm. Nó cho phép
xác định, bằng kinh nghiệm, độ khó của mỗi bài tập, cường độ phân biệt của nó, tính thuận tiện đối với việc làm bộc lộ những mặt khác nhau của
tri thức và năng lực. Việc kiểm tra sơ bộ cho phép vạch ra được những chỗ còn chưa rõ, những chỗ có hai nghĩa và những “cạm bẫy” mà chúng
thường làm cho trắc nghiệm bị vẩn đục. Tất nhiên, trắc nghiệm được xây dựng trên cơ sở những câu trả lời độc lập, tự do của nghiệm thể sẽ
không thể tiến hành xử lí sơ bộ như vậy được, bởi vì không một nghiệm viên nào lại có thể dự kiến trước được tất cả các câu trả lời có thể có (mà
trong thực tế là không có giới hạn), vì chúng là những câu trả lời tự do.
Phương pháp lựa chọn còn làm cho việc tính toán các kết quả trở nên đơn giản, khắc phục được nhân tố chủ quan trong việc đánh giá, cho
phép sử dụng các khuôn mẫu khác nhau khi tính toán, hoặc có thể tính toán bằng máy được.
Bên cạnh những ưu thế trên đây, phương pháp lựa chọn cũng có nhiều thiếu sót đáng kể.
Thứ nhất, thiếu sót chính của nó là ở chỗ: trong nhiều trường hợp nó được dựa trên một chức năng tâm lí sơ đẳng là sự nhận lại, mà sự
nhận lại thì dễ hơn nhiều so với sự nhớ lại. Chỉ cần làm quen lớt phớt bên ngoài với đối tượng được đề cập trong câu hỏi, cũng đủ để nhận lại
thành công rồi.