







Preview text:
Khoan thư sức dân nghĩa là gì? Bài học trọng
dân, khoan thư sức dân và trọng dụng hiền tài
1. Khoan thư sức dân là gì?
Khoan thư sức dân là cụm từ nói đến kế sách trị nước của Hưng Đạo Đại
Vương Trần Quốc Tuấn. Ta có thể hiểu "Khoan thư" ở đây tức là khoan hồng,
tha thứ, hoặc xoá bỏ những gì gây tổn hại đến nhân dân. Ngày nay, trong
thời bình thì đây là một quốc sách trị nước mà Đảng và nhà nước ta ưu tiên
hàng đầu. Khoan thư sức dân ngày nay hiểu là làm sao cho nhân dân bớt
khổ, giảm nghèo để tập trung chăm sóc cho cái "gốc rễ" của một quốc gia là
đất nước. Nhân dân hạnh phúc thì đất nước mới hưng thịnh; mà nhân dân lại
là gốc rễ cần chăm lo lâu dài của quốc gia cho nên phải khoan thư sức dân.
Trong cuộc sống hiện nay, nhà nước ta vẫn có chính sách quan tâm chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đặc biệt là ở các vùng kinh tế
khó khăn. Mọi công dân đều được hưởng thụ cuộc sống đầy đủ, no ấm và
hạnh phúc, được học hành và tự do phát triển. Tóm lại, kế sách khoan thư
sức dân là chăm lo đến đời sống nhân dân và không lãng phí sức lực của
nhân dân là 1 quốc sách trị nước vĩ đại mà ngày nay chúng ta vẫn vận dụng.
"Khoan thư sức dân" ý chỉ đất nước khi ở trong thời bình thì triều đình càng
phải biết chăm lo đến dân, phục vụ nhân dân và đảm bảo lợi ích lâu dài giữa
quốc gia và dân tộc. Trần Hưng Đạo đã từng nói: "Khoan thư sức dân để
thành kế dày rễ bền gốc, đó là sách lược giữ nước".
Trong lịch sử Việt Nam, "khoan thư sức dân" được nói đến nhiều lần như một
chính sách đặc biệt nhằm cải thiện cuộc sống và phát triển kinh tế trong nhân
dân. Điển hình là lời của Trần Hưng Đạo trước khi lâm triều đã nói với vua
Trần Anh Tông: Thời bình, phải khoan thư sức dân mà làm kế dày rễ bền gốc.
Đó là kế sách cứu đất nước". "Khoan thư sức dân" trong thời bình, nghĩa
rộng nhất là giảm đi việc đóng góp/huy động nhân lực vật lực/sức người sức
của, thì giờ/tiền bạc..... . của nhân dân so với thời chiến, sao cho dân giàu có
hơn thời chiến, sung sướng hơn lên mà không bị đói như thời chiến, và nhàn
hơn thời chiến. Bên cạnh đó, cũng có nhiều nghĩa rộng hơn, bao quát hơn:
Lao thì có "lao lực", "lao tâm". Bớt tiền, bớt của mới chính là giảm "lao lực".
Bớt được "lao tâm" cũng là không ít. Cho nên, còn phải "khoan thư sức dân"
bằng việc làm cho dân không bị hoang mang, lo lắng, loạn tâm, bất an, buồn
bực mọi điều, nghĩa là làm cho dân "nhàn tâm". Vì thế mà Nguyễn Trãi mới
xin nhà vua chăm sóc dân sao cho "cả làng trong xóm đều không một tiếng
khóc oán sầu". Vì thế nên Bác Hồ dặn "đừng ăn uống linh đình làm mất thì
giờ và tiền bạc của nhân dân".... ... Người cũng từng nói: "Nếu nước độc lập
mà dân không hưởng được hạnh phúc, thì độc lập cũng đâu có nghĩa lý gì".
Giành tự do là việc thời chiến và làm cho nhân dân hạnh phúc là việc thời bình.. .
2. "Khoan thư sức dân" - quốc sách dựng nước và giữ nước
Tìm hiểu nguyên nhân để có những thành quả đó, cũng bước đầu thấy được
căn nguyên sâu xa nhưng rất khoa học đã làm nên thành quả dựng nước và
giữ nước của ông cha ta. Đó là một quá trình kế thừa, hoàn thiện, phát triển
rất phong phú, mới mẻ nghệ thuật dựng nước và giữ nước với nhiều điểm
độc đáo, đặc biệt mà sách lược "Khoan thư sức dân" là một trong số ấy.
Theo sử cũ và truyền thuyết, vua tổ Hùng Vương thứ nhất dựng nước cùng
những vua Hùng nối tiếp về sau đã sớm biết thương dân, trị dân, giúp dân
để duy trì sự thịnh vượng của triều đại này. Ngay khi dựng Quốc đô ở
Phong Châu (nay là Phú Thọ) , các vua Hùng đã biết phân đất ra thành
nhiều phần để chăm lo cuộc sống của dân. Chính vì biết quan tâm đến dân
nên nhà nước Văn Lang thời đại Hùng Vương là một nhà nước sớm có các
định chế và tổ chức xã hội tương đối hoàn chỉnh, đất nước có kỷ cương,
người dân được hưởng thái bình. Kẻ thù mà kẻ thù chính yếu là giặc
phương Bắc không thể nào làm gì nổi trong suốt một thời gian dài. Về thời
đại Hùng Vương, thiết nghĩ, trong thời gian tới, những người viết sử Việt
cần phải quan tâm và làm sáng tỏ một cách khoa học những thành tựu đạt
được của thời đại này. Việc nuôi dân, dựng nước cho dân hết lòng phục vụ
là một trong những thành công đặc biệt của thời đại Hùng Vương. Chính
nhờ điều này, nhân dân các dân tộc Việt Nam luôn đời đời nhớ đến công ơn
của Vua Hùng. Hàng năm, vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch là toàn dân
hướng về ngày Quốc lễ - Giỗ Tổ - cúng tế hết sức long trọng. Không phải
ngẫu nhiên mà 18 đời vua Hùng đều truyền nối. Trong nhiều lý do, chắc
chắn có một lý do là lòng dân đã tạo nền tảng vững chắc cho thời đại các vua Hùng.
Tiếp đó thời Thục An Dương Vương mà điển hình là Thục Phán thành lập
nước Âu Lạc đã táo bạo chuyển kinh đô xuống đồng bằng và lựa chọn đất
Kẻ Chủ thuộc bộ Vũ Ninh để xây dựng (nay thuộc Cổ Loa - Đông Anh - Hà
Nội) đây cũng là kinh đô đầu tiên của người Việt tại châu Á, ngay sát trung
tâm Hà Nội ngày nay. Chúng tôi cho rằng, việc đóng đô ở Cổ Loa cũng là
nhờ vào nguyện vọng và ý chí của người dân. Chính vì biết dưỡng sức dân,
mở đất nuôi dân nên việc đóng đô ở địa hình bằng phẳng rộng rãi, nhờ vào
các địa thế sông ngòi liên hoàn cũng là biểu hiện ý chí của nhân dân là vô
tận mà những người đứng đầu nhà nước Âu Lạc đã biết cách vận dụng.
Thành Cổ Loa qua hơn hai nghìn năm lịch sử hiện vẫn đang là một di chỉ
văn hoá lịch sử quan trọng, minh chứng bàn tay lao động tài hoa của nhân dân nhà nước Âu Lạc.
Qua thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất với hai giai đoạn bị Triệu thống trị (179
đến 111 TCN) và Tây Hán đô hộ (111 TCN đến 39 SCN) đến thời Trưng Nữ
Vương đã cho thấy sự xa rời nhân dân làm mất nước, đất nước rơi vào
cảnh nô lệ. Thời Trưng Nữ Vương kéo không xa đã được nhiều nhà nghiên
cứu lịch sử lý giải khá thoả đáng nhưng theo chúng tôi, sở dĩ việc dựng
nước và giữ nước không được lâu bền là vì kẻ thù quá tàn ác đã gần như
giết hết người dân mà chúng bắt được hoặc những người đứng đầu các bộ
tộc bấy giờ chưa tập hợp được các tầng lớp nhân dân để giành lại nước.
Tiếp nữa là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài 5 thế kỷ: Đông Hán thống
trị từ năm 43 đến năm 220; Ngô thống trị từ năm 220 đến năm 280; Tấn,
Tống, Tề, Lương thống trị từ năm 280 đến 544. Đây có thể gọi là thời kỳ đen
tối nhất trong lịch sử Việt Nam mà điểm sáng chính là khởi nghĩa giành độc
lập của Triệu Thị Trinh với câu nói bất hủ: "Tôi muốn cưỡi ngọn gió lớn,
vượt sóng dữ, giết giặc ở biển Đông, đánh bại quân Ngô, lấy lại non sông,
cởi ách nô nệ chứ không thèm cúi đầu, khom lưng làm vợ người!" Cuộc
khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh đã cho thấy sức dân là vô hạn và chỉ khi nào
nhân dân hưởng ứng thì các cuộc khởi nghĩa mới có thể đạt được thành công.
Tiếp đó là thời tiền Lý do Lý Bí thành lập năm 544 với ba đời vua trị vì tổng
cộng 58 năm trước khi đất nước rơi vào sự kiểm soát của giặc phương Bắc.
Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba kéo dài trên 300 năm (603-907) dưới sự cai trị
của nhà Tuỳ và nhà Đường. Trong thời gian này, những cuộc khởi nghĩa
nông dân liên tục nổ ra và nhiều lần nước Việt đã giành được độc lập. Tiêu
biểu là ông vua đen Mai Hắc Đế - Mai Thúc Loan (721-726); Bố cái Đại
vương Phùng Hưng (766-789); Dương Thanh (819-820).
Tiếp đến là thời Khúc, Dương tự chủ (905-937) . Nguyên nhân để có được
sự độc lập cũng chính là lòng dân đã nổi dậy đứng lên lật đổ ách đô hộ
phương Bắc. Ngay khi cùng với nhân dân thực hiện quyền tự chủ, Khúc
Thừa Dụ, một hào trưởng vùng Hồng Châu (nay là Hải Dương) rất được
nhân dân tin yêu mến phục đã nhanh chóng tổ chức bộ máy chính quyền
trên tinh thần tôn trọng và phát huy lòng dân, miễn giảm nhiều sắc thuế cho
dân chúng. Chính vì được lòng dân nên nhà Đường đã phải hạ chiếu phong
Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, nghĩa là công nhận cho người
Việt làm chủ đất Việt.
Thời Ngô Vương Quyền (939-967), trước khi đánh bại quân Nam Hán trên
sông Bạch Đằng, đã mắng địch một câu nổi tiếng: "Hoằng Thao là một đứa
trẻ khờ dại, mang quân từ xa về, quân lính đang mệt mỏi, khi thấy Công
Tiễn đã chết, không có ai làm nội gián thì đã biết trước rồi. Quân ta lấy sức
còn mạnh so với quân địch, không thắng được. Nhưng bọn chúng có lợi ở
đây, nếu ta không đề phòng trước thì thế thắng thua chẳng biết ra sao. Nếu
đem cọc to vạt nhọn đầu, bịt sắt đóng ngầm ở cửa sông, thuyền của bọn
chúng theo nước triều chui vào trong hàng cọc rồi từ đó ta dễ dàng khống
chế, không có cách nào ra được". Chỉ có là người xuất thân từ nhân dân,
gần gũi với nhân dân, thông thạo từng lạch sông thì mới có thể bình tĩnh, tự
tin đánh thắng giặc phương Bắc được.
Tiếp đến thời Đinh (968-980) , thời Tiền Lê (980-1009) tuy ngắn ngủi nhưng
đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc, nhưng chỉ đến
thời Lý, vấn đề mở nước, yên dân mới phát triển rực rỡ trên nhiều lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội.....
Thời Lý có thể được xem là một thời đại cực thịnh của Đại Việt, thời kỳ Nho,
Phật và Lão đồng nguyên, trong đó đạo Phật là Quốc giáo. Ngay sau khi lên
ngôi, Lý Công Uẩn đã hạ chiếu cứu giúp dân nghèo suốt nhiều năm. Trong
gần 18 năm cai trị đã 3 lần tha và giảm tội cho dân chúng. Đây có thể là một
trong những ông vua hiền bậc nhất dân tộc Việt. Ông cũng là người đã dời
đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Chính nhờ biết quan tâm đến cuộc sống của
người dân mà Quốc gia Đại Việt thời Lý luôn có biên giới vững vàng, quốc
thổ thống nhất, có quân sự, có văn hoá và kinh tế, đặc biệt là những nghề
nông nghiệp phát triển rực rỡ. Lý Công Uẩn vừa khai sinh triều Lý, đã đem
thế nước lên cao làm nhiều nước láng giềng, thậm chí là giặc phương Bắc phải e dè, hãi sợ.
Bước qua vương triều Trần, một vương triều có võ công lừng lẫy của dân
tộc Việt: Đến nay nước sông còn chảy mãi/Mà hận quân thù không rửa nổi
(Bạch Đằng Giang phú - Trương Hán Siêu). Để có được những chiến công
đó thì việc yên dân và gắn bó với nhân dân chính là kế sách hàng đầu.
Người đứng đầu trong tư tưởng này có lẽ là Hưng đạo vương Trần Quốc
Tuấn. Chính ông có câu nói này cũng là kim chỉ nam xuyên suốt cuộc đời
ông, triều đại nhà Trần hay nhiều triều đại ở các giai đoạn tiến bộ sau đó
đều kế thừa trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tài năng xuất chúng
của Hưng Đạo vương còn là sự nhận thức rõ ràng nhân dân mới là nguồn
sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không
một kẻ thù tàn bạo nào có thể đánh bại. Ông luôn chăm lo sức dân ngay ở
thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh
cao là quan điểm: "Khoan thư sức dân để tính kế sâu rễ bền gốc mới là
cách giữ nước". Tư tưởng khoan thư sức dân để có kế dày rễ bền gốc trong
sự nghiệp dựng nước và giữ nước luôn là đạo lý của ông cha ta từ xa xưa rồi.
3. Bài học trọng dân, khoan thư sức dân và trọng dụng hiền tài
Sau 3 lần đánh thắng giặc Nguyên Mông (từ 1258 đến 1288) , mùa hè năm
Canh Tý (1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bị bệnh nặng. Nhà Vua
đến thăm hỏi, nhắc công lao của vị tướng lĩnh tài giỏi mà Triều đình kính
trọng như "Quốc Phụ". Rồi nhà Vua hỏi: "Nếu không may Vương chết, mà
giặc phương Bắc vẫn đến thì xử trí thế nào?". Hưng Đạo trả lời: Ngày xưa
Triệu Võ Đế dựng nước, vua Hán đưa quân đánh lấy nhân dân làm kế thanh
dã (phòng thủ), lại đem đại quân từ Khâm Châu đến Liên Châu tấn công vào
tỉnh Trường Sa, có đoàn binh ở đằng sau, đó là một thời. Đến thời Đinh Lê
lấy được nhiều nhân tài, đất phương Nam mới mạnh, còn phương bắc lại mỏi
mệt, suy yếu. Trên dưới cùng lòng, lòng người không chia, xây dựng thành
Bình Lỗ (khu vực Thái Nguyên ngày nay) đánh thắng quân Tống, đó cũng là
một thời. Nhà Lý mở nền, nhà Tống chiếm lĩnh lãnh thổ, sai Lý Thường Kiệt
đánh thẳng vào Khâm Châu và Liên Châu là vì có thể đánh được. Mới rồi Toa
Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, nhưng trên dưới hợp lòng, anh em hoà
thuận, nước nhà chung sức. Giặc tự bị bắt, đó là trời xui mà thế. Tóm lại, giặc
cậy trận dài thì ta dùng quân ngắn. Lấy ngắn chế dài là chuyện bình thường
của chiến tranh. Nếu thay binh địch đến ào ạt như cỏ cháy, gió thổi thì dễ
dàng khống chế. Nếu nó đi chậm như cách tằm ăn, không cần của dân,
không cầu thắng nhanh, thì phải lựa dùng người tài để xem xét sách lược,
như chơi cờ thế, tuỳ lúc mà đánh, có thu được binh sĩ trung thành như cha
con thì mới dùng được. Vả lại, thời bình khoan thư sức dân phải có kế dày
gốc bền rễ, đó là sách lược giữ nước. "Khoan thư sức dân" ở đây chính là
yêu cầu nhà cầm quyền phải nuôi dưỡng sức dân, thường xuyên quan tâm,
chăm lo cuộc sống của họ. Bài học không chỉ có giá trị trong lịch sử mà đến nay vẫn còn toả sáng.
Biết dùng và tiến cử nhân tài: Là một người có tài trị người và dụng binh thao
lược, ông tiến cử người tài giỏi cứu nước, ví như Dã Tượng, Yết Kiêu,..... đã
có công đánh dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đô. Những người nổi tiếng khác như Phạm
Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ
Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là học trò của ông cũng rất nổi tiếng trong văn
chương và chính sự. Vì có công lao to lớn mà nhà vua gia phong ông là
Thượng quốc công và cho phép ông được quyền phong tước cho người khác,
từ minh tự trở xuống, chỉ có tước hầu mới làm trước rồi tâu sau. Nhưng Trần
Hưng Đạo không hề phong chức cho một người nào. Khi quân Nguyên sang
xâm lược nước Việt, ông lệnh cho người ta bỏ tiền ra mua lương binh, mà
cũng chỉ cho họ chức lang tướng giả chứ không phong các tước quan thật,
ông luôn kính trọng giữ tiết làm tôi. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng
như nhiều vị vua khác trong lịch sử đã từ chối dùng quyền chức để tư lợi cho
bản thân mình và gia tộc mình. Họ sống một đời khá ung dung, thanh thản và
ra đi cũng để lại danh tiếng cho hậu thế. Họ đều là những con người thông
minh, đức độ, cho nên sự chọn lựa nhân tài của ông là có sự tính toán và có
căn cứ. Hưng Đạo Vương có tài đức độ, thông minh, luôn hết lòng bảo vệ
người quân tử cho nên đã giữ rất nhiều nhân tài xung quanh ông. Mùa thu
tháng 8, ngày 20 năm Canh Tý niên hiệu Hưng Long thứ 8, tức là ngày
5/9/1300 Ông mất. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả thiêu thu vào bình
đồng rồi táng trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc,
không xây dựng lăng tẩm. Sau khi ông qua đời triều đình phong tặng là Thái
Sư Thượng Phụ Quốc Công Tiết Chế Nhân Võ Hưng Đaọ Vương. Nhân dân
rất thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc
kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc
lập dân tộc nên dựng đền thờ Ông trên nền Vương Phủ gọi là đền Kiếp Bạc.
Dân ta kính trọng suy tôn Ông là Đức Thánh Hưng Đạo Đại Vương mở điện
thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
" Khoan thư sức dân " trong thời bình, nghĩa rộng nhất/biết ngay, là giảm đi
việc đóng góp/huy động nhân lực vật lực/sức người sức của, thì giờ/tiền
bạc.... . của nhân dân so với thời chiến, sao cho dân giàu có hơn thời chiến,
sung sướng hơn lên mà không bị đói như thời chiến, và "nhàn" hơn thời
chiến. Bên cạnh đó, cũng có nhiều nghĩa rộng hơn, bao quát hơn: "Lao" thì có
"lao lực", "lao tâm". Bớt tiền, bớt của mới chính là giảm "lao lực". Bớt được
"lao tâm" cũng là không ít. Cho nên, còn phải "khoan thư sức dân" bằng việc
làm cho dân không bị hoang mang, lo lắng, loạn tâm, bất an, buồn bực mọi
điều, nghĩa là làm cho dân "nhàn tâm". Vì thế mà Nguyễn Trãi mới xin nhà
vua chăm sóc dân sao cho "cả làng trong xóm đều không một tiếng khóc oán
sầu". Vì thế nên Bác Hồ dặn "đừng ăn uống linh đình làm tốn thì giờ và tiền
bạc của nhân dân". Người cũng từng nói: "Nếu nước độc lập mà dân không
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chả có nghĩa lý gì". Giành độc lập là
việc thời chiến, làm cho dân sung sướng là việc thời bình. Xem thế, đủ hiểu
lời Bác Hồ đã dẫn nhiều lời của tiền nhân. Cũng chính từ đó mà sau này,
ngoài Chỉ số tăng trưởng kinh tế, Liên hợp quốc đã đưa ra Chỉ số phát triển
con người. Cả hai chỉ số trên cũng đều có trong thời bình, đó là Chỉ số phát
triển hạnh phúc. Dân không hạnh phúc lâu ngày thì lòng tin sụp đổ. Thế mà,
"Được lòng dân là có tất cả, mất lòng dân là mất tất cả". Đông đã thế Tây
cũng vậy. Triều đình và vua ngày xưa đã thế thì chế độ và nhà nước nào
cũng vậy. Logic biện chứng hiện đại là, muốn có được lòng dân thì quan lại
xưa/cán bộ nay không được sách nhiễu nhân dân, không được tham ô,
phung phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân, tài nguyên của đất nước. Nói
theo cách dân gian, "Hành chính" không nhất thiết cứ "hành" là "chính".. ....
Muốn vậy, trước hết đảng viên và cán bộ cần phải yêu điều dân thích, ghét
điều dân ghét; chỉ thấy việc gì có lợi cho dân thì mới làm, việc gì có hại cho
dân thì cương quyết loại bỏ. Mà muôn đời, dân yêu nhất là " thái bình hạnh
phúc ", dân khinh nhất là "thuỷ, hoả, hoạ, trộm". Trong đó, "đạo" là "đạo
chích" - ăn cắp/trộm cướp. Tham nhũng kín đáo là ăn cắp, tham nhũng công
khai là trộm cướp! Tất nhiên, muốn "sâu rễ bền gốc", làm cho dân giàu, cũng
chính là để giữ cho quân cường, binh thịnh, phòng khi có ngoại xâm. Do đó
nên nhà nước phải điều tiết, tăng thu ngân sách, nhưng các sắc thuế, các
khoản vay cũng phải chọn, các mức thuế cần phải tính cho cân đối cả hai
việc "dân giàu" và "nước mạnh", trong " nước mạnh", lòng dân là yếu tố quan
trọng. Nhưng từ đâu mà cổ kim bàn chữ "dân" lắm vậy? Tại sao thời nào
cũng nói " khoan thư sức dân " như thế? Xưa, trả lời học trò khi họ hỏi: "Dân
là gì?" trông cây, đọc sách, nghĩ xa gần, "Vạn thế sư biểu" nói: " Dân là gốc ".
Thế là chuyển nghĩa: " Nhân dân là gốc rễ của đất nước ", không nói chuyện
cây cối nữa. " Vạn thế sư biểu " của Trung Hoa và một số nước khác là
Khổng Tử. Nước Việt Nam ta cũng có một người thầy lớn là Chu Văn An.
Cho nên, Văn miếu ở Việt Nam cũng thờ Khổng Tử, sau lại thờ thầy Chu Văn
An. " Khoan thư sức dân " chính là xây dựng " gốc rễ " của nước nhà, cho
nước nhà ngày càng phát triển, hưng thịnh, chớ thời bình mà không chăm lo "
gốc rễ ", chỉ dựa vào mồ hôi/công sức của tiền nhân để thu lợi riêng, " vinh
thân phì gia ", thế thì đừng bàn đến việc gì. Đang miên man sau đó, lúc Quốc
hội đã họp xong, anh bạn đưa lại bài báo, trong có câu của Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc: " Khoan thư sức dân thì đất nước mới khoẻ, mới sâu rễ,
bền gốc. Phải cắt giảm chi phí, tiết kiệm thời gian cho nhân dân và doanh
nghiệp; quyết liệt loại bỏ nạn quan liêu, tham nhũng, nhất là tham nhũng vặt.
Các cấp, các ngành phải nêu gương trong quản lý sử dụng ngân sách; kiên
quyết chống lãng phí, tham nhũng ", chợt thấy lời người xưa/người trước
đang còn " dài " tới tận hôm nay, thật vui! Nghĩ lại, nhất là khi Đảng ta cùng
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng " nhóm lò " chống tiêu cực,
làm lò nóng đến độ " củi tươi bỏ vô cũng phải cháy ", càng đáng hoan nghênh!
Vì thế là, cuối cùng, cả Đảng cầm quyền, cả Nhà nước ta, cùng với " gốc rễ "
cũng đã từng " ghét điều dân ghét " - " thuỷ, hoả, nông, thổ " - mà phát động
và chỉ đạo công cuộc chống " giặc nội xâm ", nhằm " Khoan thư sức dân cho
có kế dày rễ bền gốc ". Ý Đảng, lòng dân khi là một thì sức mạnh sẽ vô song,
chỉ cần lo việc lựa chọn cách làm và thời gian, mức độ cho phù hợp mà thôi.
Mà chuyện này, cứ hỏi dân là biết.
Document Outline
- Khoan thư sức dân nghĩa là gì? Bài học trọng dân,
- 1. Khoan thư sức dân là gì?
- 2. "Khoan thư sức dân" - quốc sách dựng nước và gi
- 3. Bài học trọng dân, khoan thư sức dân và trọng d