



















Preview text:
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
CHƯƠNG 1: KIẾN TRÚC ẤN ĐỘ
I. KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO
Phật giáo ra đời ở Ấn Độ từ thế kỉ VI TCN. Sau này Phật giáo được lan truyền sang các
nước phương Đông. Kiến trúc Ấn Độ bao gồm 3 thể loại chính:
+ Tòa Stupa:phù đồ.
+ Chaitya: chùa hang.
+ Vihara: tịnh xá.
1. Tòa Stupa (phù đồ)
Nổi tiếng nhất là tòa Stupa ở Sanchi được xây dựng vào thế kỉ thứ II TCN có mặt bằng
hình tròn với đường kính 32m, cao 12,8m, tường rào cao 4,3m, cổng cao 10m.Cổng ở phía
Bắc được trang trì bằng những khối đá chạm khắc khá công phu, trong lăng mộ có nhiều
phù điêu điễn tả sự tích của Phật.
Mô hình tòa Stupa gồm có 4 phần: + Tường rào. + Đế. + Hình vòm cầu.
+ Chóp có những khối đá lớn để trám lọng.
Xung quanh tòa Stupa có 2 đường chạy đàn: 1 ở đế, 2 là ở lưng chừng vòm cầu.
Tòa Stupa được xây dựng ở ĐB Ấn Độ (nơi sinh ra Phật giáo) tại những nơi thiêng liêng,
là nơi lưu giữ phật tích, ban đầu là nơi chôn giữ xá lợi và dần dần trở thành biểu tượng của
tôn giáo, tượng trưng cho vũ trụ bao la 4 phương 5 hướng, không gian bên ngoài như là một
xã hội tấp nập còn bên trong là không gian tu hành tách biệt với TG bên ngoài. 1
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
2. Chaitya (chùa hang)
Kiến trúc gồm có mặt bằng hình chữ nhật, đầu phía trong uốn cong hình bán nguyệt.Ở
tâm đặt tòa Stupa hoặc tượng phật để thờ. Ở 2 bên có 2 dãy cột ngăn cách tạo thành hành
lang bên ngoài và không gian bên trong có các phù điêu nói về sự tích của Phật và cũng là
nơi làm lễ, nghe giảng đạo lí kinh thánh.
Mặt đứng có 1 lối vào chính và 2 bên là tượng các vị thần gác cổng, đặc biệt ở phía trên
có cửa sổ hình lá đề để lấy sáng vào không gian bên trong, 2 bên cửa sổ được trạm trổ bằng
những phù điêu đẹp mắt.
Tất cả kiến trúc Chaitya đều được đục vào trong hang đá đặc biệt ở vùng Ajanta – trung
tâm Phật giáo nổi tiếng được xây dựng vào thế kỉ II TCN. 2
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
3. Vihara(tịnh xá)
Tu viện cũng được đục vào trong núi đá ở những nơi như Ajanta. Có mặt bằng hình
vuông hoặc gần như chữ nhật, có những dãy cột tách ra khỏi tường rào tạo thành những
hành lang đi xung quanh, xung quanh hàng lang là các phòng tu sĩ ở, không gian ở trong là
nơi để cho các tu sĩ tu hành.Không gian bên trong được trang trí bằng các tượng, phù
điêu.Mặt đứng gần giống như Chaitya. 3
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Vào khoảng TK V có những ngôi chùa, tu viện được xây dựng bằng đá chẻ ở ngoài trời
có mặt bằng HCN ở cuối có đường cong, hình dáng bên ngoài có phần đế và phía trước có
hành lang gồm 4 cột chống đỡ và lối vào ở giữa. Do được xây dựng ngoài trời nên kiến trúc
gây ấn tượng mạnh đến mộ đạo. II. K I Ế N TRÚC BÀ LA MÔN GIÁO
Từ thế kỉ VIII trở đi kiến trúc Bà La Môn phát triển mạnh và kiến trúc Phật giáo giảm
dần dưới triều đại Gupta.
Bà La Môn thời 3 vị thần:
+ Thần Siva: phá hoại để sáng tạo. + Thần Brahma: sáng tạo. + Thần Visnu: bảo tồn. 4
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Kiến trúc Bà La Môn giáo gồm 3 thể loại: + Kiến trúc Chămpa.
+ Kiến trúc đục vào khối đá nguyên.
+ Kiến trúc xây dựng bằng đá chẻ.
Xuất phát từ truyền thuyết về núi vũ trụ Mêru, nơi mà các vị thần ngự trị trên ngọn núi
đó.Từ đó dẫn đến kiến trúc Bà La Môn xây dựng những ngôi đền núi để thờ các vị thần.
1. Kiến trúc Bà La Môn được đục vào trong hang đá.
Gần giống như kiến trúc Phật giáo cũng được đục vào trong hang đá thường có mặt bằng
hình chữ nhật, chung quanh có những dãy cột để chia thành không gian hành lang và không
gian giữa, Ở vách cột có những dãy phòng nhỏ cho nhà tu hành ở. Đặc biệt không gian bên
trong được chạm khắc bằng các phù điêu với chủ đề Bà La Môn, bên cạnh đó cũng có nhiều
gian liên kết với nhau tạo thành không gian liên hoàn rộng lớn, không những thế còn có
nhiều tầng (từ 2 – 3 tầng).
2. Kiến trúc Bà La Môn được chạm từ những hòn đá nguyên khối.
Có những công trình kiến trúc Bà La Môn được đục vào những khối đá nguyên với chiều
sâu khoảng 4m, dài 7m và cao 4m và được chia thành 3 loại:
+ Loại 1 ở bên ngoài có những cột gỗ được chạm khắc.
+ Tiếp theo là trên mặt đứng người ta bắt đầu chạm khắc những mảng phù điêu.
+ Và cuối cùng là tạc toàn bộ tảng đá nguyên chất thành những khối kiến trúc ngôi đền
(Ratha) có cấu tạo gồm 3 phần: đế (nhiều bậc), thân phía trước có cột, chung quanh cũng có
cột và trên là mái có dạng đống rơm, đỉnh mái có hình Linga, cũng có dạng mái 1 tầng, 2
tầng trên cùng chốt lại bằng hình quả đào và cũng có loại mái dạng mui thuyền. Ngoài ra
phía trước ngôi đền còn thờ hình tượng con bò thần.
Như vậy công trình kiến trúc từ những khối đá nguyên đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp từ
kiến trúc trong hang ra ngoài hang. 5
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
3. Công trình kiến trúc xây bằng đá chẻ
Từ thế kỉ XIX trở đi người Ấn Độ bắt đầu xây dựng những công trình bằng đá chẻ vì nó
nhanh hơn đá nguyên, làm được những công trình to lớn hơn kéo theo không gian bên trong
cũng rông lớn hơn và không gian bên ngoài gây cho con người ấn tượng mạnh hơn, thu hút
hơn.Nổi bật trong đó là Ngôi đền Kailaxa Nathan (1 công trình độc nhất vô nhị lúc bấy giờ).
Là công trình được đục vào núi đá vào thế kỉ thứ VIII SCN.Để làm được công trình
người ta phải mở ra một công trường rộng 20 – 30m sâu từ 15 – 50m.trên một sường đồi để
tách ra một khối đá lớn để tạo nên ngôi đền.
Công trình gồm 3 khối chính: phía trước là sảnh và cổng vào, 2 bên có trụ biểu. Sau nữa
là gian hành lễ rộng thấp hơn điện thờ.Và cuối cùng là điện thờ cao nhỏ có mái hình kim tự
tháp giật cấp, xung quanh là sân vườn.
Để tạo ra không gian rộng lớn trong gian hành lễ người ta tạo ra 4 nhóm cột ở 4 góc và
mỗi góc cột có 4 cột nhỏ chống đỡ.Bằng cách đó người Ấn Độ đã tạo ra gian hành lễ rộng lớn và lộng lẫy. 6
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Bên ngoài được chạm khắc bằng những phù điêu và đồng thời thờ tượng thần bò ở phía trước. Đền Kailaxa 7
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Công trình bằng đáchẻ hình thành 2 phong cách theo 2 thề loại khác nhau:
+ Bắc Ấn Độ: với đặc trưng là những đường cong parabol, trên đỉnh tháp có chum bất
tử Kailaxa có hình dạng giống như quả bí đỏ dẹp.
+ Nam Ấn Độ: mái có hình kim tự tháp giật cấp, trên mái là chum bất tử hình quả đào,
mặt đứng có dạng hình thang cân. Sau này từ TK XIII ở miền Nam không xây những ngôi
đền mái giật cấpmà thay vào đó là mái bằng nhưng người ta xây dựng cổng vào hình
hyperbol cao lớn (biểu tượng chiến thắng).
Một vài ngôi đền đặc trưng ở miền Bắc: Muk Texvara:
Công trình gồm có ngôi thánh đường và gian hành lễ.Ngôi thánh đường là 1 tháp dọc
vươn cao, đỉnh parabol có lảng dẹp hình quả bí đỏ (chum bất tử Kailaxa). Bản thân ngôi
thánh đường được phân chia thành những mảng lớn nhỏ khác nhau theo phương đứngnhấn
mạnh tình hoành tráng của công trình nhưng đồng thời vì được build bằng đá chẻ do đó có
những lớp đá xếp chồng lên nhau theo phương ngang.
Phía trước là gian hành lễ có không gian rộng lớn hơn tuy nhiên có chiều cao thấp hơn.
Ở phần thân tháp ngoài có cửa chính còn có cửa sổ nhỏ lấy ít ánh sáng song trên mỗi thân
tháp lại được trang trí bằng những bức phù điêu dày đặc với những chủ đề của Bà La Môn giáo có con ngựa thần.
Ở bên ngoài còn có những cổng vòm dưới đỡ cột Doric. Lingaraja: 8
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Quần thể gồm 65 ngôi thần đường được xây dựng vào từng thời kì khác nhau gồm 4
space trên trục chính bên ngoài là cổng – sảnh – tiền sảnh – điện thờ. Ở giữa điện thờ
Lingaraja trong rỗng nhưng có cầu thang đi lên đến đỉnh cao 55m được phân vị theo phương
thẳng đứng bằng những mảng lớn nhỏ khác nhau nhằm nhấn mạnh sự vươn cao của công
trình. Trên mặt đứng được trang trí bằng những bức phù điêu. Mái bằng những nếp đá xếp
chồng lên nhau, thân có cửa sổ nhỏ lấy ánh sáng. Để tạo được không gian lớn như vậy
người Ấn Độ đã tạo ra 4 nhóm cột ở 4 góc và mỗi góc cột có 4 cột nhỏ chống đỡ . Kadamria Mahadervo:
Ngôi đền được xây dựng vào thế kỉ thứ 10 có mặt bằng gồm 4 không gian được nối
tiếp nhau theo một trục chính bao gồm điện thờ cuối cùng, tiếp theo là sảnh của điện thờ,
sau đó là gian hành lễ, tiếp đến là đại sảnh và ngoài cùng là cổng. Công trình đứng trên một
bệ cao với chiều cao 35m, dài 33m, rộng 18m song lại có hình dáng phức tạp bởi những
khối tháp chính và phụ bám vào tháp chính và chúng được nối liền nhau một cách mềm mại.
Riêng điện thờ có hành lang kính bao quanh nối liền 3 phía là 3 ban công được chống đỡ
bằng 2 trụ. Trên mặt đứng được trang trí bằng những bức tượng phù điêu (hơn 900 bức),
trong đó có 646 bức là bên ngoài, đa phần là tượng các vũ nữ Apxara, sư tử thần, ngựa thần, đôi nam nữ yêu nhau… 9
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013 Mamalapuram:
Ngôi đền trên bãi biển được xây dựng vào thế kỉ VII, có mái hình kim tự tháp giật cấp,
kết thúc trên đỉnh là hình quả đào. Đây là công trình duy nhất có một lối vào duy nhất trên trục chính.
Công trình gồm 2 khối chính: ngôi thánh đường và gian hành lễ nối liền nhau. Ngôi
thánh đường cao lớn ở phía sau còn phía trước là gian hành lễ nhỏ thấp.Không gian được
đặt ít ánh sáng và được xây bằng đá chẻ.
Ngoài chức năng tôn giáo (tâm linh) công trình như một ngọn hải đăng chỉ đường cho
tàu bè vào bến cảng. Cho đến thế kỉ XII những công trình ở phía nam được đặt trong khuôn
viên và trong đó có đặt thêm dãy hành lang là nơi nghỉ ngơi cho người hành hương và kế
bên có bể nước phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới ở miền nam Ấn Độ. 10
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
III. KIẾN TRÚC HỒI GIÁO
Kiến trúc Hồi giáo có hình thức khác hẳn kiến trúc Bà La Môn giáo và Phật giáo.Kiến
trúc Hồi Giáo có đường nét thanh mảnh, không gian thoáng đản hơn, trang trí ít chi tiết, ít
nặng nề hơn và đặc điểm có những chỏm cầu hình búp sen to nhỏ với các cửa cuốn nhọn
đầu hình lá đề, 4 góc có những chỏm cầu nhô cao. Kiến trúc Hồi giáo có 2 thể loại: lâu đài và lăng mộ.
Lăng mộ Tal Maham tiếng Ba Tư được gọi là vương miệng của người Môn Gô, được làm
bằng đá hoa cương chung quanh có 4 tháp đặt ở 4 góc trên bệ công trình tượng trưng cho sự
giao hòa giữa trời và đất. Ngoài lăng được trạm trổ tinh vi và gắn nhiều kim cương, đá quý.
Toàn bộ công trình được đặt trên bệ vuông cao 5,4m, mỗi cạnh dài 95m, có mặt bằng hình
vuông mỗi cạnh dài 56,7m và ở gian chính giữa là chỏm cầu có đường kính 17,7m.
Đây là công trỉnh của nhà vua Xagiaham tặng người vợ là Mutaz Maham với tổng chiều
cao toàn bộ công trình là 84m. Tal Maham là biểu hiện cho tài năng sáng tạo của người Ấn Độ. 11
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013 12
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
CHƯƠNG 2: KIẾN TRÚC INDONESIA
I. KIẾN TRÚC TÔN GIÁO Ở MIỀN TRUNG GIAVA
Từ thế kỉ VII nhà nước phong kiến ở miền trung Giava đã đạt đến mức cực thịnh, các
công trình kiến trúc cũng phát triển ở giai đoạn này. Đó là những ngôi tháp được build bằng
đá sa thạch lấy tại chỗ với kĩ thuật xây dựng không mạch vữa.
Kiến trúc hình lập phương đặt trên nền hình vuông, mở cửa chính ở phía đông, 3 mặt còn
lại không có cửa (hoặc cửa giả). Mặt đứng chia làm 3 phần: đế, thân và ngọn tháp.Mái giật
cấp 3 tầng, bên trong có không gian nhỏ, chính giữa đặt biểu tượng Linga để thờ tro người
chết. Tiêu biểu là 3 công trình nổi bật:
+ Chandi Kalaxan:được build vào thế kỉ VIII – XIX bằng đá lấy tại chỗ với mặt bằng
hình chữ thập tạo nên 4 phòng phụ 4 bên. Duy nhất có phòng phụ phía đông mới thông
được với phòng trung tâm thờ thần Siva. Công trình đứng trên nền hình vuông cạnh 45m,
phía trên có hành lang 20 cạnh và xung quanh có 4 cầu thang dẫn lên. Mái 3 tầng giật cấp.
+ Xê Vu: quần thể gồm có 250 công trình nằm trên một diện tích 185m × 165m, xung
quanh có tường đá bao bọc. Trong đó công trình trung tâm có mặt bằng hình chữ thập, bao
gồm 4 phòng ở 4 bên và 1 phòng trung tâm. Riêng chỉ có phòng phía Đông mới thông được
với phòng trung tâm, các phòng còn lại có lối vào riêng và đặc biệt giữa chúng có dãy hàng
lang liên thông với nhau ở bên trong. Trên đỉnh có tháp chuông kết thúc bằng tòa
Stupa.Quần thể Xê Vu là quần thể có bố cục hoàn chỉnh đầu tiên được xây dựng ở Indo. 13
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
+ Quần thể Purô Pudua:Nói đến Indonesia thì không thể không nói đến Purô Pudua vì
nền tảng ban đầu của Purô Pudua là 2 công trình ở Điêng và Xê Vu.
Đây là công trình kiến trúc Phật giáo rất to lớn nằm trong thung lũng Kê Du. Purô Pudua
là quần thể kiến trúc lớn hơn nhiều so với các quần thể khác ở đó và nó chế ngự cà một
vùng rộng lớn với chiều cao 42m, rộng 123m. Công trình có bố cục đặc sắc, nhìn từ xa có
dáng vóc cân đối của một tòa Stupa vĩ đại.
Purô Pudua là công trình gồm có 9 tầng chia làm 2 phần: phần dưới gồm 5 tầng có mặt
bằng hình vuông, trên là 4 tầngcó mặt bằng hình tròn. Trên mỗi tầng tròn là các tòa Stupa
xung quanh hình quả chuông có cửa sổ hình thoi đặt tượng Phật ở trong. Trên những trục
chính Bắc – Nam, Đông – Tây đều có lối đi lên đỉnh và trên mỗi tầng đều có hành lang để
cho những ngưởi ngộ đạo hành lễ. Đ ể phát triển thêm cảm xúc của những người ngộ đạo
trên con đường hành hương của mình đến đất Phật thì ở phía trong hành lang người ta chạm
khắc những bức phù điêu để nói lên
cuộc đời tu hành của người ngộ đạo.
Quần thể Purô Pudua 14
Downloaded by Nguyen Linh (vjt22@gmail.com)
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Ý nghĩa: khi con người đi đến tầng trên cùng, đứng trên nền cùa các tòa Stupa và nhìn
thấy bao quát cả không gian xung quanh, ở phía trên này cùng với sự yên lặng của các
tượng Phật và không gian kì bí xung quanh, con người cảm nhận được mình đang ở thế giới
thần linh. Trên con đường đi lên bản thân các điêi khắc ở các hành lang giúp cho những
người hành hương đang dần đến với thế giới của Phật.
+ Quần thể Lao Giông Giang: quần thể được build vào thế kỉ IX – X được xem là đỉnh
cao nghệ thuật kiến trúc miền Trung Giava thờ thần Silva của Ấn giáo. Trung tâm quần thể
có tháp cao nhất ở giữa và 4 tháp nhỏ ở 4 góc. Đặc trưng kiến trúc ngoài bố cục theo lối cổ
điển, bàn thân mỗi ngọn tháp như muốn vươn lên cao bầu trời toát lên vẻ thanh thoát. MẶt
đứng được trang trí rất đẹp.
CHƯƠNG 3: KIẾN TRÚC CAMPUCHIA
I. KIẾN TRÚC CAMPUCHIA TỪ THẾ KỈ VII – VIII Xem thêm
II. KIẾN TRÚC CAMPUCHIA TỪ THẾ KỈ IX – XIII Chia làm 3 giai đoạn:
+ Tiền Ăng kor (IX – X): phù hợp với thời kì hình thành chủ nghĩa phong kiến ở Campuchia.
+ Thời kì cổ điển (X – XII): kiến trúc Khơ me đạt đến đỉnh cao.
+ Thời kì suy tàn (XII – XIII): kiến trúc bắt đầu có chiều hướng đi xuống và không còn phân định được nữa. 15
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
1. Thời kì Ăng kor (IX – X) Phnom Pakheng:
Công trình nằm trên ngọn đồi cao 65m, xung quanh bao bọc bởi hồ nước và có 4 con
đường xuyên qua các trục chính dẫn đến ngôi đền, vật liệu chính bằng đá sa thạch, ngôi đền
có tất cả 6 tầng cao bằng nhau, tầng dưới có kích thước mỗi chiều 76m × 76m, tầng trên
cùng 47m × 47m, nổi lên một quần thể gồm 5 tháp chính bố cục theo lối ngủ điểm (1 tháp
chính ở trung tâm và 4 tháp ở 4 góc xung quanh). Ngoài ra còn có 66 tháp nhỏ nằm trên các
tầng nền đối xứng qua các trục chính và 44 tháp lớn nằm ở trong sân.
Ngôi đền có ý nghĩa như là trung tâm của vũ trụ, bao bọc xung quanh là đại dương (biển
sữa).Ở Pakheng có 108 ngọn tháp bao quanh tháp chính, chúng được sắp xếp sao cho khi đi
vào ngôi đền từ 4 hướng chính có thể thấy cung một lúc 33 ngọn tháp (phù hợp với 33 vị
thần ngự trị trên núi Mê ru).Các tháp có hướng chính quay về hướng Đông điều nhấn mạnh
hơn ý nghĩa tượng trưng của nó.
2. Thời kì cổ điển (X – XII)
Công trình Tà Kheo: (là công trình hoàn chỉnh đầu tiên của thể loại ngôi đền núi)
Ngôi đền được coi là sự hoàn chỉnh của thể loại ngôi đền núi với những dãy hành lang
nối liền nhau một cách liên tục, 5 ngọn tháp trung tâm được bố trí theo lối ngủ điểm nằm
trên 2 phần nền, phần nền dưới có kích thước 100m × 120m, phần nền trên có kích thước
47m mỗi chiều, riêng ngọn tháp ở giữa đứng trên một đế cao 5 tầng bao xung quanh là sân
và các dãy hành lang nối liền nhau. Công trình cao 36m.Trên các trục chính ở giữa còn có các tháp cổng. 16
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013 Ngôi đền Ăng kor Wat:
Quần thể có kích thước rất lớn dài 1500m, rộng 1300m, cao 65,5m là một trong những
công trình tôn giáo vĩ đại của nền kiến trúc thế giới được xây dựng trong 28 năm.
Công trình nằm ở phía Đông nam Ăng kor Thom là công trình kiến trúc duy nhất có lối
vào chính từ hướng tây.
Công trình thuộc thể loại ngôi đền núi đã phát triền đến đỉnh cao của bố cục đơn giản kết
hợp với màu sắc cổ điển. Khối chính hình kim tự tháp 3 tầng: tầng cuối cùng là nền, 2 tầng
còn lại được nối liền nhau bằng các dãy hành lang. Bao bọc xung quanh ngôi đền là hồ nước
dài 200m. Bên trong các ngôi đền được bố trí theo lối chữ thập nối liền nhau bởi các hàng
lang tạo nên 4 sân nhỏ, bên ngoài xây tường mang tính kiến tạo cao.
Mặt bằng của khối chính hình vuông có kích thước 75m mỗi chiều, nằm trên độ cao 25m,
tháp chính đặt quan tài nhà vua và 4 tháp góc xung quanh có dáng vóc hình búp sen, trước
đây còn được dát vàng. Trên trục chính phía tây được dát bằng đá sa thạch nặng từ 4 – 6 tấn.
Về mặt nghệ thuật, kiến trúc Ăng kor Wat đã kết hợp một cách hài hòa giữa các ngọn
tháp vươn lên bầu trời với những dãy hành lang yên tĩnh ở dưới. Ngoài ra ở Ăng kor Wat đã
use một tỉ lệ rất simple, từ cổng vào đến khu đền đài gấp 2 lần mặt đứng phía tây.
Ở Ăng kor Wat có sự kết hợp một cách hữu cơ giữa kiến trúc và trang trí, điêu khắc ở
Ăng kor Wat theo hướng tri thức hóa kiến trúc và đóng vai trò kiến tạo rất quan trọng.
Ngoài ra những bức phù điêu đắp nổi bên những dãy hành lang hàng chục cây số được trạm
trổ rất tinh vi và sống động nhờ sự có mặt của hàng vạn vũ nữ được tạc trên tường và 2 bên
lối vào. Điều đáng kinh ngạc là ko có sự trùng lập giữa các bức phù điêu. 17
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
3. Thời kì suy tàn (XII – XIII)
Đế quốc Khơ me thuộc triều đại Jaya Vacman III vẫn đóng vai trò quan trọng hàng đầu
ĐNA.Nhà nước Khơ me chiếm toàn bộ bán đảo Đông Dương lúc bấy giờ. Trong nước xảy
ra loạn lạc, thủ đô chuyền từ Ăng kor Wat sang Ăng kor Thom và người sáng lập là Jaya
Vacman VII và nghệ thuật kiến trúc đã đạt được thành tựu lớn không kém gì Ăng kor Wat
và còn độc đáo hơn về mặt biểu tượng.
Ăng kor Thom có diện tích gấp 4 lần Ăng kor Wat với chiều dài 3km mỗ chiều. Trong đó
có ngôi đền Payon ở trung tâm được cấu trúc hết sức tự do. 18
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
Đề không lặp lại đền Ăng kor Wat nhà vua Jaya Vacman VII nghĩ ra một ngôi đền đối
lập lại ngôi đền Ăng kor Wat nhưng vẫn giữ được phong cách nguyên lí chung của một
“ngôi đền núi” (tháp chính ở trung tâm và 4 ngọn tháp ở xung quanh).
Về cơ bản đền Payon có mặt bằng hình chữ thập bao quanh là 2 lớp hành lang kích thước
mỗi lớp 80m × 80m và 160m × 140m. Trung tâm ngôi đền có 16 ngọn tháp, cả quần thể
gồm 52 ngọn tháp với tổng chiều cao là 43m, riêng tháo trung tâm cao 43m nằm trên nền hình tròn bán kính 25m.
Công trình có cửa chính hướng Đông và 2 bên cửa là 2 hồ nước.Tổng thể cùa Ăng kor
Thom như một rừng núi đá, nét độc đáo là 4 mặt đều chạm tượng các vị thần với nụ cười
thân thiên tạo nên sức hút mãnh liệt cho công trình.Thêm vào đó tạo cho con người có cảm
giác như mình đang đứng trước không gian của thần linh.
Về nghệ thuật có sự thống nhất tuyệt vời giữa hình dáng kiến trúc với điêu khắc.Ở đây có
thể nói giữa chúng đã đạt đến một giới hạn tột đỉnh mà khi ranh giới giữa điêu khắc và kiến
trúc không còn nữa.Điêu khắc được thay thế cho các thành phần kết cấu và chính bản thân
nó cũng mang một ý nghĩa biểu tượng.Tất cả sự độc đáo đó làm cho nền kiến trúc
Campuchia đứng ngang tầm với nền kiến trúc TG lúc bấy giờ. 19
LỊCH SỬ KIẾN TRÚC PHƯƠNG ĐÔNG 2013
CHƯƠNG 4: KIẾN TRÚC TRUNG QUỐC
I. KIẾN TRÚC TRUNG QUỐC TỪ THẾ KỈ III – X
Thời kì này đạo Phật rất phát triển kéo theo những công trình kiến trúc Phật giáo cũng
phát triển. Kiến trúc phổ biến lúc bấy giờ là dạng cột tháp và chùa Hang.
1. Dạng cột tháp: cổ xưa nhất có mặt bằng hình vuông. Kiến trúc dạng mặt đứng hoàn toàn
giống với kiến trúc gỗ chia làm 2 loại:
+ Dạng cột tháp 3 tầng có diềm mái ở tầng 2 – 3 mô phỏng kết cấu gỗ và 4 mặt có các
hốc tường để thờ phật, trên tường có trang trí họa tiết. 20