-
Thông tin
-
Quiz
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc bảo vệ quyền tác giả | Tiểu luận Bản quyền và sở hữu trí tuệ
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Quyền tác giả, quyền liên quan đang phải đối mặt với những thách thức nặng nề, đặc biệt là trong thời đại số hóa và bùng nổ công nghệ kỹ thuật số. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Bản quyền và sở hữu trí tuệ 1 tài liệu
Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về việc bảo vệ quyền tác giả | Tiểu luận Bản quyền và sở hữu trí tuệ
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, việc bảo vệ sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Quyền tác giả, quyền liên quan đang phải đối mặt với những thách thức nặng nề, đặc biệt là trong thời đại số hóa và bùng nổ công nghệ kỹ thuật số. Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời đọc đón xem!
Môn: Bản quyền và sở hữu trí tuệ 1 tài liệu
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền 1.6 K tài liệu
Thông tin:
Tác giả:
Tài liệu khác của Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Preview text:
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN VIỆN BÁO CHÍ TIỂU LUẬN
BẢN QUYỀN VÀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ Đ ề tài
: HÃY NÊU KINH NGHIỆM CỦA MỘT
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THANH PHONG
Mã sinh viên : 2051050093
Lớp : TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG K40A2
Giảng viên hướng dẫn: Th.S NGUYỄN THÚY QUỲNH
Hà Nội, tháng 11 năm 2023 MỤC LỤC Trang
MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
1. Tính cấp thiết của đề tài.........................................................................4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.........................................................5
2.1. Mục đích nghiên cứu........................................................................5
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................5
3.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................5
3.2. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................5
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu............................................5
4.1. Cơ sở lý luận.....................................................................................5
4.2. Cơ sở thực tiễn..................................................................................6
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..................................................6
5.1. Ý nghĩa lý luận.................................................................................6
5.2. Ý nghĩa thực tiễn..............................................................................6
6. Kết cấu.....................................................................................................6
NỘI DUNG......................................................................................................7
Chương 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ
QUYỀN TÁC GIẢ......................................................................................7
1.1. Khái niệm quyền tác giả..................................................................7
1.2. Đối tượng được bảo hộ bởi quyền tác giả.......................................8
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI VIỆT
NAM...........................................................................................................10
2.1. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả tại Việt Nam.............................10 2
2.2. Nguyên nhân dẫn đến các xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam
................................................................................................................12
Chương 3: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM......................................................................................15
3.1. Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả tại Hàn Quốc.........................15
3.1.1. Tính đa dạng của các biện pháp và các chế tài có tính răn đe
cao......................................................................................................15
3.1.2. Tòa chuyên trách về Sở hữu trí tuệ có vị trí ngang bằng với
Tòa cấp cao........................................................................................18
3.2. Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả tại Thái Lan..........................19
3.2.1. Trách nhiệm của người xâm phạm........................................19
3.2.2. Trách nhiệm của ISP (Internet Service Provider)................21
3.3. Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả tại Nigeria.............................22
3.3.1. Hiệu lực của luật mới về bản quyền tác giả tại Nigeria........22
3.3.2. 5 khía cạnh khác của Luật mới về bản quyền tác giả tại
Nigeria................................................................................................23
3.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam...............................................25
KẾT LUẬN....................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................29 3 MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế,
việc bảo vệ sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng và có ảnh hưởng
sâu sắc đến sự phát triển của mỗi quốc gia. Quyền tác giả, quyền liên
quan đang phải đối mặt với những thách thức nặng nề, đặc biệt là trong
thời đại số hóa và bùng nổ công nghệ kỹ thuật số.
Thực tế cho thấy, tình trạng vi phạm bản quyền diễn ra ở hầu hết
các lĩnh vực với các hình thức và mức độ khác nhau. Đặc biệt, trong môi
trường chuyển đổi số, quyền tác giả và quyền liên quan càng trở nên phổ
biến nhưng đồng thời, việc giám sát và kiểm soát cũng gặp phải nhiều
khó khăn. Sự tự động bảo hộ của quyền sở hữu trí tuệ đã tạo ra những
thách thức mới, khiến cho việc chứng minh trong trường hợp xảy ra
tranh chấp trở nên phức tạp và gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
sáng tạo và phát triển kinh tế xã hội.
Hơn thế, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và công nghệ kỹ thuật
số với những ứng dụng to lớn của nó trong mọi mặt của đời sống xã hội
cũng đặt ra yêu cầu về việc điều chỉnh các quan hệ liên quan đến quyền
sở hữu trí tuệ. Do đó, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã phải nhanh
chóng ban hành quy định pháp luật để đáp ứng thách thức này và đảm
bảo sự công bằng và bền vững trong quản lý sở hữu trí tuệ. Điều này
không chỉ là một xu hướng mà còn là một yếu tố quyết định quyền lợi và
cạnh tranh của mỗi quốc gia trong thế giới ngày nay; đòi hỏi Việt Nam
cũng cần phải có những bước thay đổi và phát triển vượt bậc.
Chính vì vậy, sinh viên đã lựa chọn đề tài: “Kinh nghiệm của một
số nước trên thế giới về việc bảo vệ quyền tác giả” làm đề tài nghiên cứu của mình. 4
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là làm rõ những kinh nghiệm của một số nước
trên thế giới về việc bảo vệ quyền tác giả. Từ đó, nghiên cứu thực tiễn
bảo vệ quyền tác giả và nguyên nhân dẫn đến các xâm phạm về bảo vệ
quyền tác giả tại Việt Nam để rút ra được bài học kinh nghiệm đúng đắn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Cụ thể, tương ứng với 3 chương:
Một là, trình bày khái quát một số cơ sở lý luận pháp luật về bảo vệ quyền tác giả.
Hai là, đưa ra thực trạng việc bảo vệ quyền tác giả và nguyên nhân
dẫn đến những xâm phạm về quyền tác giả tại Việt Nam.
Ba là, tìm hiểu về kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về bảo
vệ quyền tác giả và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về bảo vệ quyền tác giả.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về
bảo vệ quyền tác giả trong thời đại hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên những cơ sở lý luận pháp luật về bảo vệ
quyền tác giả tại Việt Nam và thế giới, các nghiên cứu về bảo vệ quyền tác giả. 5
4.2. Cơ sở thực tiễn
Tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: phân tích
và tổng hợp, lôgic và lịch sử, đối chiếu và so sánh, khái quát và thống kê,...
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. Ý nghĩa lý luận
Nêu ra được những kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về
bảo vệ quyền tác giả trong thời đại hiện nay. Từ đó, rút ra bài học cho
Việt Nam về việc bảo vệ quyền tác giả.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền tác giả tại Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc nghiên cứu tại các cơ quan nghiên cứu, các học viện và nhà
trường về các vấn đề liên quan đến quyền tác giả. 6. Kết cấu
Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, tiểu luận
bao gồm 3 chương, chia làm 5 tiết. 6 NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ
1.1. Khái niệm quyền tác giả
Theo khoản 2 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung
2009, 2019), quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác
phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu1.
Trong đó, đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ
thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ
tinh mang chương trình được mã hóa.
(Khoản 1 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019))
Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. * Quyền nhân thân
Quyền nhân thân bao gồm các quyền sau đây: - Đặt tên cho tác phẩm;
- Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc
bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng;
- Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
- Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả. * Quyền tài sản
1 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, 50/2005/QH11, 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 7
Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây: - Làm tác phẩm phái sinh;
- Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; - Sao chép tác phẩm;
- Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
- Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến,
vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
- Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
(Điều 19 và Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2009, 2019))1
1.2. Đối tượng được bảo hộ bởi quyền tác giả
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005,
sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019: “Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến
quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương
trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”2.
Tác phẩm là thành quả lao động sáng tạo của tác giả được thể hiện
dưới hình thức nhất định. Căn cứ theo khoản 1 Điều 14, các loại hình tác
phẩm được bảo hộ ở Việt Nam bao gồm:
(i) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác
phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác (chữ nổi
cho người khiếm thị, ký hiệu tốc ký và các ký hiệu tương tự thay cho
1Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, 50/2005/QH11, 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, 50/2005/QH11, 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 8
chữ viết mà các đối tượng tiếp cận có thể sao chép được nhiều hình thức khác nhau);
(ii) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; (iii) Tác phẩm báo chí; (iv) Tác phẩm âm nhạc; (v) Tác phẩm sân khấu;
(vi) Tác phẩm điện ảnh và tác phẩm được tạo theo phương pháp
tương tự (gọi chung là tác phẩm điện ảnh);
(vii) Tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng;
(viii) Tác phẩm nhiếp ảnh;
(ix) Tác phẩm kiến trúc;
(x) Bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến
trúc, công trình khoa học;
(xi) Tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian;
(xii) Chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu.1
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng bảo vệ quyền tác giả tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, việc thực thi về sở hữu trí tuệ, đặc biệt
là quyền tác giả và quyền liên quan đã trở thành một vấn đề đáng chú ý.
Sự nhận thức về vấn đề này từ phía tổ chức và cá nhân đã trở nên cao
hơn, và việc thanh toán đối với chủ sở hữu quyền tác giả và quyền liên
1 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005, 50/2005/QH11, 29/11/2005, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 9
quan đang được thực hiện một cách nghiêm túc. Tuy nhiên, tình trạng vi
phạm bản quyền tác giả và quyền liên quan vẫn phổ biến ở nhiều lĩnh
vực, bao gồm văn học, nghệ thuật và khoa học. Quản lý và xử lý các
trường hợp vi phạm bản quyền gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong bối
cảnh internet và nền tảng mạng xã hội ngày càng phát triển.
Về góc độ pháp lý, hệ thống pháp luật hiện nay đã khá đầy đủ, đáp
ứng được các cam kết của Việt Nam trong các hiệp định thương mại và
quốc tế mà nước ta đã ký kết. Luật sở hữu trí tuệ đã trải qua ba lần sửa
đổi, và chúng ta có một hệ thống nghị định và thông tư để thực hiện luật
đó. Về mặt pháp luật, chúng ta đã có một công cụ khá hoàn thiện để bảo
vệ các vấn đề liên quan đến quyền tác giả và quyền sở hữu trí tuệ nói chung.
Tuy nhiên, thách thức đặt ra ở mức độ thực tiễn, tức là cách chúng
ta triển khai và sử dụng hệ thống này. Về mặt thực thi quyền, các cơ
quan Nhà nước hiện nay chưa thực sự mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Chúng ta cũng chưa có hệ thống tòa án chuyên ngành về sở hữu trí tuệ,
trong khi số lượng vụ án và vấn đề liên quan càng ngày càng gia tăng,
đặc biệt là trong môi trường số ngày càng phức tạp. Thời gian giải quyết
các vụ án về quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam thường kéo dài vài ba năm,
thậm chí đến chục năm trong một số trường hợp, điều này là khó chấp
nhận đối với các bên liên quan.
Hơn thế, vấn đề xâm phạm quyền tác giả, đặc biệt là quyền sở hữu
trí tuệ trên không gian mạng, ngày càng trở nên nghiêm trọng. Một số ví
dụ điển hình bao gồm hành vi streaming1 chương trình biểu diễn của các
nghệ sĩ, nhóm nhạc nổi tiếng trực tuyến, hoặc các sự kiện thể thao mà
chúng ta đã phải chi tiền mua bản quyền. Ngay lập tức, những sự kiện
1 Việt Anh, Thực trạng bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam, Ban Văn hóa – Xã hội,
Đài tiếng nói Việt Nam VOV2, 18/11/2022. 10
này lại được livestream và trở nên miễn phí cho bất kỳ ai muốn xem, gây
ra tổn thất lớn cho những nhà cung cấp dịch vụ.
Về mặt pháp luật, chúng ta đã có các quy định khá chặt chẽ về vấn
đề này, đặc biệt là đối với những hành vi xâm phạm rõ ràng. Tuy nhiên,
khi xâm phạm diễn ra trên không gian mạng, thách thức đặt ra là làm thế
nào chúng ta có thể xác định được đối tượng xâm phạm là ai, người thực
hiện hành vi đó đang ở đâu, và các thông tin liên quan. Điều này là một
điểm mà tôi nhận thấy hệ thống pháp luật còn đang sơ hở.
Mặc dù có sự nỗ lực từ các cơ quan chức năng và ý thức tôn trọng,
thực thi pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan đã được nâng cao
tại nhiều tổ chức, đơn vị và cá nhân. Điều này thể hiện qua việc ghi rõ
nguồn, bản quyền sản phẩm, công trình khi sử dụng lại hoặc trích dẫn.
Tuy nhiên, tình trạng xâm phạm và vi phạm pháp luật về quyền sở hữu
trí tuệ vẫn diễn ra rộng rãi.
Trong lĩnh vực báo chí, một số sai phạm như sử dụng tên miền gây
nhầm lẫn với cơ quan báo chí, đăng tải tin từ các nguồn chưa được phép
đã dẫn đến việc thu hồi giấy phép của trang tin tintucnamdinh.vn vào
tháng 10/20211. Tình trạng này không chỉ giới hạn trong lĩnh vực báo chí
mà còn lan rộng vào các lĩnh vực văn học, nhiếp ảnh, âm nhạc, nơi việc
vi phạm bản quyền có thể thấy rõ trên biển rôn, khẩu hiệu, biển quảng
cáo và trong các doanh nghiệp âm nhạc và phim truyền hình.
Đặc biệt, với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, việc vi phạm bản
quyền và bảo hộ quyền tác giả trở nên phức tạp hơn. Các nền tảng ứng
dụng và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ, mọi người dễ dàng trở thành
đối tượng xâm phạm hoặc bị xâm phạm bản quyền. Thói quen "xài chùa"
và tình trạng "Nhà nhà vi phạm, người người vi phạm" dường như trở
thành hiện thực đau lòng trong xã hội hiện nay.
1 Ngọc Ánh, Những vấn đề cần quan tâm về thực trạng quyền tác giả và quyền liên quan, Nam Định điện tử, 05/11/2021. 11
2.2. Nguyên nhân dẫn đến các xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam
Tình trạng vi phạm quyền tác giả xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có điều kiện kinh tế - xã hội và ý thức chấp hành của người sử
dụng. Đặc biệt, hộ kinh doanh nhỏ lẻ thường có xu hướng sử dụng sách
lậu không tuân theo bản quyền tác giả, thường là vì mục tiêu lợi luận cá
nhân. Tình trạng này được kích thích bởi sự gia tăng của cá nhân và tổ
chức vi phạm pháp luật, không tôn trọng người tạo ra tác phẩm hay chủ
sở hữu, mà tất cả đều hướng đến mục tiêu lợi nhuận1. Họ sẵn sàng sao
chép, xuất bản lậu các tác phẩm văn học, sách giáo khoa, giáo trình...
Một nguyên nhân khác là thu nhập bình quân đầu người thấp, điều
kiện kinh tế khó khăn, đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên. Nhóm này
thường tìm đến những cuốn sách có giá thấp, sử dụng sách photocopy
hoặc sách lậu, tạo điều kiện cho các cá nhân và tổ chức vi phạm pháp luật.
Thanh tra và kiểm tra cơ sở kinh doanh chưa được thực hiện một
cách nghiêm túc, và ngay cả khi có, hình phạt hành chính không đủ
mạnh mẽ để ngăn chặn tình trạng sao chép.
Bên cạnh đó, người tạo ra tác phẩm thường không chú trọng bảo vệ
tác phẩm của mình. Hiện nay, ít doanh nghiệp quan tâm đến sở hữu trí
tuệ, và chưa có doanh nghiệp nào xây dựng chiến lược về sở hữu trí tuệ,
coi đó chỉ là một phần nhỏ trong chiến lược phát triển của họ. Tài sản trí
tuệ chưa được quản lý như tài sản thông thường.
Tính đến thời điểm hiện tại, Tổ chức thi hành Nghị định và Thanh
tra Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tiến hành 534 cuộc thanh tra,
kiểm tra để đảm bảo việc chấp hành các quy định pháp luật trong lĩnh
vực quyền tác giả và quyền liên quan. Kết quả là có 447 tổ chức và 3 cá
1 Nguyên nhân dẫn đến vi phạm bản quyền tác giả, Oceanlaw, 31/08/2016. 12
nhân bị xử phạt hành chính, và 56 giấy phép phổ biến phim đã được kiến
nghị thu hồi để điều chỉnh chủ sở hữu bản quyền. Tổng số tiền xử phạt vi
phạm hành chính là 12,8 tỷ đồng theo Nghị định số 131/2013/NĐ-CP1.
Tuy nhiên, tình trạng sao chép chương trình phần mềm máy tính mà
không được phép chiếm đến 99,5% trong tổng số vụ việc bị xử lý. Mặc
dù đã có những nỗ lực, nhưng thực tế thực thi Nghị định vẫn còn tồn tại
những hạn chế và bất cập. Mức xử phạt đối với các hành vi xâm phạm
quyền tác giả và quyền liên quan vẫn còn thấp, không căn cứ vào mức độ
thiệt hại gây ra bởi hành vi đó. Sự thiếu phân loại theo đối tượng quyền
tác giả, quyền liên quan cũng khiến cho việc xử phạt không phù hợp và
không đảm bảo tính răn đe, đặc biệt là đối với các vi phạm trên môi trường số.
Phó Cục trưởng Cục Bản quyền tác giả, Phạm Thị Kim Oanh, chỉ ra
rằng mức xử phạt hiện tại là quá thấp và không đủ để tạo ra sức răn đe2.
Sự so sánh giữa mức xử phạt và số tiền thu lợi bất chính từ việc vi phạm
bản quyền càng làm nổi bật sự chênh lệch đáng kể giữa họ.
Tại Hội nghị tổng kết, đánh giá việc thực hiện Nghị định số
131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan, Phó Chánh Thanh
tra Sở VH&TT Hà Nội, Trần Xuân Phúc, báo cáo rằng mặc dù lực lượng
thanh tra đã tích cực tuyên truyền và nhắc nhở về việc thực hiện quyền
tác giả và quyền liên quan, nhưng nhiều tổ chức, cá nhân vẫn cố tình trì
hoãn, né tránh, thậm chí không hợp tác, tạo khó khăn cho cơ quan chức năng.
Tại điểm a Khoản 1 Điều 13 của Nghị định, mức phạt đối với cá
nhân là từ 5 – 10 triệu đồng, đối với tổ chức là từ 10 – 20 triệu đồng.
Đây được xem là mức phạt quá thấp so với quy mô và doanh thu của các
1 Minh An, Làm rõ nguyên nhân của 99,5% vụ vi phạm quyền tác giả, Kinh tế & Đô thị, 08/04/2023.
2 Minh An, Làm rõ nguyên nhân của 99,5% vụ vi phạm quyền tác giả, Kinh tế & Đô thị, 08/04/2023. 13
chương trình biểu diễn hiện nay, cũng như nhỏ hơn giá trị tiền nhuận bút
mà các đơn vị tránh né không trả cho tác giả. Điều này dẫn đến tâm lý và
thói quen coi thường nghĩa vụ luật định, công khai xâm phạm quyền tác
giả để giảm chi phí và tăng lợi nhuận.
Do đó, cần có mức xử phạt cao hơn và đủ sức răn đe đối với hành
vi xâm phạm để tạo nề nếp và ý thức tuân thủ quy định về quyền tác giả
theo Luật Sở hữu trí tuệ, ngăn chặn hành vi xâm phạm và tái phạm.
Trong Hội nghị, Thanh tra Bộ VHTT&DL đã kiến nghị ban hành
Nghị định thay thế Nghị định số 131/2013/NĐ-CP. Trong kiến nghị, có
các điều khoản như bổ sung thủ tục xử phạt cho những hành vi được quy
định trong Bộ luật hình sự Điều 225. Bổ sung các biện pháp khắc phục
hậu quả như "Buộc xin lỗi tác giả, người biểu diễn" và "Buộc nộp lại số
lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền tài sản
của chủ sở hữu quyền tác giả, quyền tài sản của người biểu diễn, quyền
của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng". Rà
soát thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với một số chức danh
thanh tra sẽ có sự thay đổi sau khi Luật Thanh tra có hiệu lực từ ngày 1/7/2023.
Chương 3: KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI VỀ VIỆC BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1. Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả tại Hàn Quốc
3.1.1. Tính đa dạng của các biện pháp và các chế tài có tính răn đe cao
Hàn Quốc là một trong những quốc gia có hệ thống pháp luật bảo
hộ quyền sở hữu trí tuệ rất phát triển, tiệm cận với các quy tắc về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ của WTO và tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO). 14
Người có hành vi vi phạm sáng chế có thể bị phạt tù tới 7 năm hoặc bị
phạt tiền tới 100 triệu won (tương đương khoảng 2 tỷ VNĐ)1.
Luật Nhãn hiệu Hàn Quốc cũng quy định rằng nhãn hiệu đã đăng
ký có thể bị chấm dứt nếu không sử dụng trong 03 năm liên tiếp2. Theo
đó, không chỉ các bên có quyền lợi liên quan mà là bất kể cá nhân/pháp
nhân/bên liên quan nào, nếu muốn, đều có thể nộp yêu cầu chấm dứt
hiệu lực một nhãn hiệu đã đăng ký trên cơ sở không được sử dụng trong
thời gian là 03 năm liên tiếp tại Hàn Quốc.
Khi một nhãn hiệu đã được đăng ký tại Hàn Quốc nhận quyết định
chấm dứt hiệu lực, hiệu lực của nhãn hiệu này sẽ chấm dứt kể từ ngày
yêu cầu chấm dứt được nộp. Thay đổi này đã mở rộng phạm vi người có
thể nộp yêu cầu chấm dứt hiệu lực cho một nhãn hiệu đã đăng ký. Điều
này mang lại hai ảnh hưởng quan trọng: giảm thời gian xem xét về thẩm
quyền của "bên có quyền lợi liên quan" và tạo cơ hội mới cho những bên
không liên quan nhưng thực sự có ý định sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký
mà không được sử dụng trong thực tế.
Theo quy định hiện tại, một nhãn hiệu sẽ không được bảo hộ tại
Hàn Quốc nếu nó tương tự và có thể gây nhầm lẫn với đơn nhãn hiệu
hoặc đăng ký nhãn hiệu trước đó. Việc xem xét về khả năng tương tự
này thường xuyên diễn ra tại thời điểm đơn được nộp với Cơ quan Sở
hữu Trí tuệ Hàn Quốc (KIPO). Tuy nhiên, theo quy định mới, sự đánh
giá về sự tương tự gây nhầm lẫn giữa nhãn hiệu mới và các nhãn hiệu đã
được nộp đơn/đăng ký trước đó sẽ diễn ra trong quá trình xem xét khả
năng đăng ký, không phải tại thời điểm đơn được nộp.
Thay đổi này thực sự đã mang lại nhiều lợi ích cho người nộp đơn,
đặc biệt là trong việc giảm thời gian xem xét thẩm quyền và tạo điều
1 Phúc Anh – Đăng Công, Hàn Quốc: Quốc gia có hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ rất
phát triển, Tạp chí điện tử Pháp lý, 07/08/2023.
2 Tuyết Loan, Bảo vệ bản quyền, bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc, Báo Nhân dân, 02/06/2014. 15
kiện công bằng hơn trong việc xem xét khả năng đăng ký. Nếu các nhãn
hiệu đối chứng được phát hiện trong thời gian đơn được xem xét khả
năng đăng ký bị từ chối, hủy bỏ hoặc chấm dứt hiệu lực, chúng sẽ không
còn được sử dụng làm cơ sở để từ chối nhãn hiệu mới nữa. Điều này
đảm bảo rằng quá trình xem xét đăng ký sẽ trở nên hợp lý và công bằng
hơn cho nhãn hiệu mới được đăng ký.
Ngoài ra, để thiết lập một môi trường sử dụng bản quyền công
bằng, Hàn Quốc đã thực hiện điều chỉnh trong Luật Bản quyền và xây
dựng hệ thống thu thập thông tin về sử dụng bản quyền trong lĩnh vực
âm nhạc trực tuyến. Điều này bao gồm việc mở rộng các tác phẩm miễn
phí tác quyền, cải thiện quản lý và giám sát ngành nghề quản lý ủy thác
về bản quyền, mở rộng phạm vi sử dụng tác phẩm có bản quyền như
sách vở trong giảng dạy và cải tiến quy trình đăng ký bản quyền. Hàn
Quốc cũng áp dụng cơ chế trọng tài để giải quyết tranh chấp.
Trong thời đại số, nước này đối mặt với những vấn đề và thách thức
mới trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, Hàn Quốc
đã nhanh chóng đáp ứng bằng cách cải tiến hệ thống Luật Bản quyền để
thích ứng với môi trường công nghệ mới. Đồng thời, họ tăng cường
tuyên truyền văn hóa sử dụng bản quyền đúng đắn bằng cách cung cấp
thông tin và giáo dục về bản quyền, cũng như nâng cao năng lực của các cơ quan chuyên trách.
Hơn thế, Hàn Quốc còn tập trung vào việc tạo lập một môi trường
phân phối công bằng và minh bạch bằng cách tăng cường trách nhiệm tự
chủ của các tổ chức quản lý tập trung và xây dựng nền tảng chung để sử
dụng thông tin phân phối bản quyền. Họ cũng nỗ lực cung cấp các tác
phẩm sở hữu chung và tác phẩm không được sử dụng.
Bên cạnh đó, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác đang tích cực thiết
lập mạng lưới hợp tác để ngăn chặn hành vi vi phạm trực tuyến thông 16
qua hợp tác liên chính phủ và các hiệp định kinh tế đa phương trong khu
vực. Họ cũng hợp tác với các tổ chức quốc tế như WIPO và Interpol để
đối mặt với thách thức này.
Trong tương lai, Hàn Quốc dự kiến sẽ cải thiện các chính sách ứng
phó với chuyển đổi số, bao gồm việc xây dựng quyền yêu cầu bồi
thường bổ sung, cho phép sử dụng các tác phẩm bản quyền trong lĩnh
vực đặc thù thông qua các tổ chức được chỉ định. Họ cũng đặt ra quy
định về giấy phép khai thác dữ liệu và nêu rõ quyền công khai, công bố.
Ở một quốc gia mạnh về công nghệ thông tin như Hàn Quốc, cả
Cục sáng chế và hệ thống tòa án đều công nhận khả năng cấp văn bằng
bảo hộ sáng chế liên quan đến giải pháp kinh doanh liên quan đến
internet. Quá trình nộp đơn và đăng ký sáng chế về giải pháp kinh doanh
được thực hiện một cách thuận lợi. Cục sáng chế đã xây dựng tiêu chuẩn
thẩm tra phát minh liên quan đến máy tính từ năm 20001 và đã thẩm tra
sáng chế giải pháp kinh doanh liên quan cho đến nay. Họ cũng đã chuẩn
bị các nguyên tắc cơ sở về thẩm tra sáng chế liên quan đến internet và
giao dịch điện tử. Hàn Quốc đang hướng đến việc tận dụng quyền lợi
đăng ký liên quan đến internet bằng cách đưa các phát minh liên quan
đến giao dịch điện tử vào đối tượng thẩm định ưu tiên.
3.1.2. Tòa chuyên trách về Sở hữu trí tuệ có vị trí ngang bằng với Tòa cấp cao
Tòa Sáng chế Hàn Quốc, một cơ quan đặc biệt thuộc Tòa án tối cao,
đảm nhận vai trò quan trọng trong xử lý các vụ án liên quan đến sở hữu
trí tuệ trên toàn lãnh thổ Hàn Quốc. Cụ thể, Tòa Sáng chế giải quyết các
vấn đề như phán quyết và quyết định của Viện Phân xử sáng chế, bao
gồm các quyết định về từ chối, vô hiệu hóa, hủy bỏ hoặc không ra hạn văn bằng bảo hộ.
1 Phúc Anh – Đăng Công, Hàn Quốc: Quốc gia có hệ thống pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ rất
phát triển, Tạp chí điện tử Pháp lý, 07/08/2023. 17
Tại Hàn Quốc, Viện Phân xử sáng chế đóng vai trò quan trọng như
một bước tiền xử lý trước khi các tranh chấp được đưa ra Tòa Sáng chế.
Phán quyết của Viện Phân xử sáng chế có thể coi là "bản án sơ thẩm," và
đương sự có quyền khởi kiện tới Tòa Sáng chế nếu họ không đồng ý với
phán quyết này. Nếu vấn đề vẫn chưa được giải quyết, đương sự có thể
tiến đến Tòa án tối cao để kháng cáo.
Tuy nhiên, hiện tại, Tòa Sáng chế Hàn Quốc chỉ có thẩm quyền đối
với các vấn đề liên quan đến cấp, hủy bỏ, và ra hạn văn bằng bảo hộ,
chưa xét xử các vụ án dân sự hay thương mại liên quan đến quyền tài sản
trí tuệ. Điều này gây khó khăn cho các tòa án thông thường khi phải xem
xét các tranh chấp liên quan đến quyền tài sản trí tuệ, đặc biệt là trong
việc đánh giá các yếu tố kỹ thuật của vấn đề tranh chấp.
Hiện nay, Hàn Quốc đang tiến hành quá trình tổ chức lại Tòa Sáng
chế để mở rộng thẩm quyền, cho phép Tòa Sáng chế xét xử tất cả các vụ
án liên quan đến quyền tài sản trí tuệ, nhằm tăng cường khả năng giải
quyết tranh chấp và đảm bảo công bằng trong hệ thống pháp luật.
3.2. Kinh nghiệm bảo vệ quyền tác giả tại Thái Lan
Tính đến nay, Thái Lan đã chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng về
số lượng người sử dụng internet, điều này là một xu hướng toàn cầu và
Thái Lan không phải là ngoại lệ. Với sự phát triển đáng kể của internet,
các trường hợp xâm phạm quyền tác giả trên mạng cũng đã tăng lên
đáng kể. Tuy nhiên, đa số người dân Thái Lan vẫn chưa có nhận thức
đầy đủ về mối quan hệ giữa quyền tác giả và đời sống nói chung. Do đó,
có nhiều tổ chức tổ chức các hoạt động tuyên truyền và giáo dục về
quyền tác giả cho người dân, trong đó có Cục Sở hữu trí tuệ của Bộ
Thương mại (DIP), Hiệp hội các nhà sản xuất phim ảnh Thái Lan
(TECA), Đại học Băng Cốc, Cảnh sát Vương quốc Thái Lan, Hiệp hội
phim ảnh Hoa Kỳ (MPAA), Hiệp hội thời trang Băng Cốc... 18
Trước năm 2015, Thái Lan chưa có luật riêng để xử lý các vi phạm
quyền tác giả trên internet. Tuy nhiên, vào năm 2015, nước này đã sửa
đổi Luật Quyền tác giả năm 1994 để thêm vào đó các quy định liên quan
đến trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ internet (Internet Service
Provider - ISP)1. Hiện tại, Thái Lan vẫn chưa gia nhập Công ước về
quyền tác giả của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) cũng như
Công ước về biểu diễn và bản ghi âm của WIPO (WPPT). Tuy nhiên,
Thái Lan đang tiến hành thảo luận về việc sửa đổi luật để có thể gia nhập
cả hai hiệp định quốc tế này.
3.2.1. Trách nhiệm của người xâm phạm
Trước năm 2015, khi Luật Quyền tác giả ở Thái Lan chưa được sửa
đổi, đã có nhiều lựa chọn biện pháp để chống lại hành vi xâm phạm
quyền tác giả trên internet. Một trong những cách hiệu quả là truy cứu
trách nhiệm hình sự thông qua cơ quan nhà nước, ví dụ như Cục Xử lý
tội phạm công nghệ (TCSD) và Cục Xử lý tội phạm kinh tế (ECD) của
Cảnh sát Vương quốc Thái Lan2.
Ngoài ra, có thể hợp tác với các tổ chức tư nhân như Hiệp hội các
nhà sản xuất phim ảnh Thái Lan (TECA) để yêu cầu Internet Service
Providers (ISP) xóa bỏ trang thông tin có nội dung xâm phạm quyền tác
giả3. Hơn thế, cũng có thể tự mình liên hệ với ISP để yêu cầu xóa bỏ thông tin xâm phạm.
Về trách nhiệm dân sự, tác giả của tác phẩm bị xâm phạm có thể
tùy chọn khởi kiện dân sự đối với người vi phạm quyền tác giả trên
internet cư trú tại Thái Lan. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất là phải xác
1 Ths. Nguyễn Đức Việt & ThS. Hoàng Thanh Phương – Đại học Luật Hà Nội, Bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số tại Thái Lan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, 27/06/2018.
2 Ths. Nguyễn Đức Việt & ThS. Hoàng Thanh Phương – Đại học Luật Hà Nội, Bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số tại Thái Lan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, 27/06/2018.
3 Ths. Nguyễn Đức Việt & ThS. Hoàng Thanh Phương – Đại học Luật Hà Nội, Bảo hộ quyền tác giả
trong môi trường kỹ thuật số tại Thái Lan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, 27/06/2018. 19
định được đối tượng vi phạm. Đối với khía cạnh quốc tế, tác giả có thể
khởi kiện tại Tòa án Sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế (IPIT). IPIT có
thẩm quyền xét xử dân sự quốc tế và sẽ áp dụng Luật Quyền tác giả Thái
Lan tùy thuộc vào tình huống cụ thể. Những biện pháp này có thể được
kết hợp nhằm tối đa hóa cơ hội chống lại hành vi xâm phạm quyền tác giả trên internet.
Trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm
quyền tác giả trên internet tại Thái Lan, hai cơ quan chính là Cục Xử lý
tội phạm công nghệ (TCSD) và Cục Xử lý tội phạm kinh tế (ECD) của
Cảnh sát Vương quốc Thái Lan đảm nhận vai trò quan trọng. Việc yêu
cầu điều tra cưỡng chế có thể được gửi đến TCSD hoặc ECD. Tuy hiện
tại, việc này chưa thực hiện nhiều, nhưng trong trường hợp có thể xác
định được địa điểm thực tế quản lý vận hành trang web, việc điều tra
cưỡng chế có thể được thực hiện, bao gồm cả tịch thu máy tính cá nhân
và các trang thiết bị liên quan sử dụng để quản lý, vận hành trang web.
Đặc biệt, nếu máy chủ của ISP được sử dụng làm web chủ để đăng tải
bản copy lậu, TCSD và ECD có thể tịch thu server đó như một chứng cứ trong vụ án.
Ngoài ra, ở Thái Lan, tồn tại các tổ chức như Hiệp hội các nhà sản
xuất phim ảnh (TECA) và Liên minh kinh doanh phần mềm (BSA), đang
chủ động tham gia vào việc phòng chống xâm phạm quyền tác giả trên
internet. Trong trường hợp chủ sở hữu quyền tác giả bị thiệt hại, họ có
thể tìm sự hỗ trợ từ các tổ chức này. Cụ thể, có hai phương thức hỗ trợ:
Một là áp đặt áp lực lên ISP để xoá bỏ trang thông tin vi phạm quyền tác
giả, được thực hiện bởi cả tổ chức công và tư. Hai là thương lượng với
các cyberlocker site, nhằm đạt được sự đồng ý không chấp nhận file
MP3 sử dụng cho việc chuyển đổi tác phẩm. Tuy nhiên, có ý kiến cho
rằng sự thỏa thuận này vẫn còn hạn chế do khả năng dễ dàng thay đổi tên
file, không đảm bảo sự không tồn tại của các file MP3. 20