Lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951- 1954
Lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951- 1954
Môn: Lịch sử Đảng (LSĐ)
Trường: Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
3. Lãnh đạo đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 1951- 1954
a. Đại hội đại biểu lần thứ II và Chính cương của Đảng 2-1951
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng họp từ ngày 11 đến ngày 192-
1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.
Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho
hơn 766.000 đảng viên toàn Đảng, ở cả ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Đại
hội được tiến hành trong bối cảnh Việt Nam và thế giới có nhiều chuyển biến mới.
Về phía kẻ địch, sau thất bại nặng nề trên phòng tuyến biên giới Việt-Trung,
thực dân Pháp càng lâm vào tình thế khó khăn hơn, tâm lý thất bại bắt đầu lan
truyền sang giới chính trị và kinh tế Pháp. Cuộc chiến tranh xâm lược của pháp ở
Đông Dương bị dư luận lên án, công kích kịch liệt là “cuộc chiến tranh bẩn thỉu”
tại nhiều nơi cả ở Pháp và các nước thuộc địa Pháp. Song, do bản chất ngoan cố,
hiếu chiến lại được các thế lực phản động, hiếu chiến Mỹ tiếp sức, hà hơi, can thiệp
và trực tiếp viện trợ quân sự, nên Pháp vẫn ngoan cố quyết chiếm giữ Đông
Dương. Ngày 6-12-1950, Chính phủ Pháp đã cử Đại tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi
(Delattre de Tassigny)-đang làm Tư lệnh lục quân khối NATO, một danh tướng tài
ba bậc nhất nước Pháp sang làm Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh kiêm chức Cao
ủy Pháp ở Đông Dương. Tướng Đờ Lát Đờ Tátxinhi đến Việt Nam mang theo một
kế hoạch quân sự-chính trị vô cùng thâm hiểm, đặt Việt Nam vào kế hoạch chống
cộng chung của Pháp-Mỹ ở Đông Dương, hòng cứu vãn tình thế thất bại của quân
đội viễn chinh Pháp, giành lại quyền chủ động và làm cơ sở xin tăng cường viện
trợ của Mỹ. Với kế hoạch này, trong những ngày đầu đã gây cho ta nhiều khó khăn
mới trên cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, địch đã thực hiện được một phần
âm mưu bình định vùng tạm bị chiếm, cưỡng đoạt nhân tài, vật lực bổ sung lực
lượng của chúng; phong trào đấu tranh của nhân dân bị giảm sút, cơ sở kháng
chiến bị tổn thất, nhất là ở vùng địch hậu
Về phía cách mạng, thời kỳ này Liên Xô lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt, các
nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa ra đời làm thay đổi so sánh
lực lượng có lợi cho hòa bình và phong trào cách mạng. Mỹ trở thành tên sen đầm
quốc tế, tăng cường giúp đỡ Pháp can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông
Dương. Ở trong nước, cuộc kháng chiến của nhân dân ta đã giành được nhiều
thắng lợi quan trọng. Cách mạng Lào và Campuchia cũng có những chuyển biến
tích cực. Điều kiện lịch sử đó đặt ra cho Đảng Cộng sản Đông Dương các yêu cầu
bổ sung và hoàn chính đường lối cách mạng và xây dựng tổ chức Đảng phù hợp
với mỗi nước ở Đông Dương để đưa kháng chiến đi đến thắng lợi.
Theo sáng kiến của những người cộng sản Việt Nam, được những người
cộng sản Lào và Campuchia nhất trí tán thành, Đại hội quyết định: Do nhu cầu
kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia
cần có một đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam .
Sau Diễn văn khai mạc của Tôn Đức Thắng, Đại hội đã nghiên cứu và thảo
luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Báo cáo Hoàn thành giải phóng
dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội của Trường Chinh,
Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của Lê Văn Lương…
Báo cáo chính trị đã tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng
Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, dự báo những triển vọng tốt đẹp của nửa thế
kỷ sau; rút ra bài học trong 21 năm hoạt động của Đảng. Báo cáo vạch rõ nhiệm vụ
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp
Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới. Để hoàn thành
nhiệm vụ đó, Đảng phải đề ra những chính sách và biện pháp tích cực tăng cường
lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc,
mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc, tăng cường đoàn kết quốc tế; đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng Lao động Việt Nam thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc
chắn, trong sạch, cách mạng triệt để” để lãnh đạo đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn.
Báo cáo của Tổng Bí thư Trường Chinh đã trình bày toàn bộ đường lối cách
mạng Việt Nam. Đó là đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Nội dung cơ bản của của báo cáo được phản ánh trong Chính cương
của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua. Cương lĩnh chính trị mới của Đảng nêu rõ:
“Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần
thuộc địa và nửa phong kiến” . Các tính chất đó đang đấu tranh lần nhau, “nhưng
mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất thuộc địa”
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ
dân chủ nhân dân với các thế lực phản động. Thế lực phản động chính là chủ nghĩa
đế quốc xâm lược. Những di tích phong kiến cũng làm cho xã hội Việt Nam đình
trệ. “Do đó cách mạng Việt Nam có hai đối tượng. Đối tượng chính hiện nay là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đối
tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản động”.
“Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế
quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc; xóa bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cầy có ruộng; phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội” . Ba nhiệm vụ đó khăng khít
với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hoàn thành giải phóng dân tộc. Lúc này phải
tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng quân xâm lược.
Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm các giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngoài ra, còn có những thân sĩ (địa
chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành
nhân dân mà nền tảng là công, nông và lao động trí tức. Giai cấp công nhân là giai
cấp lãnh đạo cách mạng.
Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Cách mạng
Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội,
tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen ẫn nhau.
Nhưng mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm.
Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng
chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
Điều lệ mới của Đảng. được Đại hội thông qua có 13 chương, 71 điều, trong
đó xác định rõ mục đích, tôn chỉ của Đảng là phấn đấu “để phát triển chế độ dân
chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc
cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số Việt
Nam” . Điều lệ Đảng cũng nêu ra những quy định về đảng viên, về nền tảng tư
tưởng của Đảng, nguyên tắc hoạt động của Đảng Lao động Việt Nam và nhấn
mạnh: “trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10
ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 7 ủy viên chính thức,
1 ủy viên dự khuyết và Ban Bí thư. Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng,
Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Đại hội II thành công là một bước tiến mới của Đảng về mọi mặt, là “Đại hội
kháng chiến kiến quốc”, “thúc đẩy kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây
dựng Đảng Lao động Việt Nam” Tuy nhiên, Đại hội cũng có hạn chế, khuyết điểm
về nhận thức là mắc vào tư tưởng “tả” khuynh, giáo điều, rập khuôn máy móc, đưa
cả lý luận Xtalin, tưởng Mao Trạch Đông vào làm “nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho mọi hành động của Đảng” .
b. Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
Sau đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng mở Hội nghị lần thứ
nhất (3-1951) bàn việc quán triệt Nghị quyết Đại hội và triển khai các nhiệm vụ
chính trị, quân sự trong tình hình mới. Tháng 9-1951, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ hai đề ra ba nhiệm vụ lớn: tích cực tiêu diệt sinh lực
địch; phá kế hoạch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt của địch; bồi dưỡng sức dân, xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương.
Để đối phó và làm thất bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, Đảng chủ trương
mở liên tiếp 3 chiến dịch tiến công quân sự có quy mô lớn đánh vào vùng chiếm
đóng của địch ở địa bàn trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhằm tiêu diệt, tiêu hao
sinh lực địch, tạo điều kiện phát triển cuộc chiến tranh du kích vùng sau lưng địch,
đó là các chiến dịch Trung du (Trần Hưng Đạo-12-1950), chiến dịch đường số 18
(Hoàng Hoa Thám-3-1951) và chiến dịch Hà Nam Ninh (Quang Trung-5-1951).
Tiếp đó ta mở chiến dịch Hòa Bình (12-1951) đánh vào chỗ yếu của địch, phát huy
lợi thế của ta và giành được thắng lợi to lớn. Thu Đông 1952, Đảng chủ trương mở
tiếp chiến dịch Tây Bắc nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một
phần đất đai và nhân dân vùng Tây Bắc, phá âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực
dân Pháp. Sau hơn 2 tháng chiến đấu quyết liệt, gian khổ ta đã làm chủ một vùng
đất đai rộng lớn, đẩy địch ra khỏi địa bàn chiến lược này, địch chỉ còn chiếm đóng
được ở thị xã Lai châu và Nà Sản (Sơn la). Trên chiến trường Liên khu V, tháng
10-1952, đã mở hội nghị bàn chuyên đề về chiến tranh du kích của Liên khu.
Phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh ở địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, Bắc
Quảng Nam, Khánh Hòa, nam Bình Thuận... Trên địa bàn Nam Bộ, theo chỉ đạo
của Xứ ủy, lực lượng vũ trang được tổ chức và sắp xếp lại cho phù hợp với nhiệm
vụ phát triển chiến tranh du kích. Quân và dân Nam Bộ tích cực tiến công địch trên
các mặt trận bằng các hình thức tập kích, phục kích, đánh đặc công, tiêu biểu là
trận đánh vào khu hậu cần của Pháp ở Phú Thọ (Sài Gòn), ngày 8-5-1952, đốt cháy
hơn 5 triệu lít xăng, phá hủy hơn 1 nghìn quả bom và diệt gọn một đại đội quân Pháp...
Tháng 4-1953, phát huy thắng lợi của các chiến dịch quân sự trong nước,
Đảng quyết định phối hợp với cách mạng Lào mở chiến dịch Thượng Lào (tỉnh
Hủa Phăn và Xiêng Khoảng), giải phóng thêm một phần đất đai, giúp Chính phủ
kháng chiến Lào xây dựng và mở rộng khu căn cứ địa, đồng thời phá thế bố trí
chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương.
Trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng, Chính phủ ra sức
chăm lo phát triển lực lượng, củng cố và tăng cường sức mạnh của hậu phương
kháng chiến. Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba của
Đảng quyết định công tác chỉnh Đảng, chỉnh quân và xác định đó là nhiệm vụ
trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, xây dựng quân đội giai đoạn này. Chính
phủ phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, động viên mọi
tầng lớp công nhân, nông dân, cán bộ viên chức khắc phục khó khăn, hăng hái lao
động, tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm; bảo đảm đạn dược,
thuốc men, quân trang, quân dụng cung cấp đủ cho bộ đội. Đi đôi với đẩy mạnh
sản xuất, Đảng, Chính phủ còn quan tâm chấn chỉnh lại chế độ thuế khóa, tài chính,
xây dựng ngành thương nghiệp, ngân hàng; thực hiện từng bước chính sách ruộng
đất, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách địa tô. Nông dân được tạm cấp gần
180.000 héc ta ruộng đất vốn là của thực dân, địa chủ Việt gian, ruộng công, ruộng
hoang hóa, vắng chủ. Các mặt văn hóa, y tế, giáo dục, xây dựng nếp sống mới,
củng cố mặt trận dân tộc thống nhất cũng được phát triển và đạt được nhiều thành tựu mới...
Sau thắng lợi của các chiến dịch quân sự lớn trên chiến trường, cuộc kháng
chiến của nhân dân ta có chuyển biến mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi cho ta, đẩy
địch vào tình thế bất lợi, khó khăn, ngày càng nguy khốn. Quân đội Pháp mắc kẹt
trong mâu thuẫn giữa tập trung và chiếm giữ, giữa tiến công và phòng ngự, giữa
bảo vệ đồng bằng Bắc Bộ và bảo vệ vùng Tây Bắc, Thượng Lào. Nước Pháp lúng
túng, bị động lệ thuộc ngày càng sâu vào viện trợ quân sự Mỹ; giới quân sự Pháp
hung hăng, tuyệt vọng, đang loay hoay tìm mọi cố gắng đẩy mạnh chiến tranh hòng
tìm một lối thoát trong danh dự.
c. Kết hợp đấu tranh quân sự và ngoại giao kết thúc thắng lợi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
Tháng 5-1953, được sự thỏa thuận, đồng tình và hối thúc của Mỹ, Chính phủ
Pháp quyết định cử Đại tướng H.Navarre (Hăngri Nava) đang đảm nhiệm chức vụ
Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn
chinh Pháp ở Đông Dương. Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trịquân
sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava”, kế hoạch này đã được Hội đồng Quốc phòng
Pháp nhanh chóng thông qua. Chi phí vật chất cho kế hoạch Nava chủ yếu do Mỹ
thực hiện. Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng với 2 bước cơ bản
nhằm “chuyển bại thành thắng”. Đây được coi là cố gắng cao nhất và cuối cùng của
Pháp và Mỹ trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Trong quá trình thực hiện kế hoạch
chiến lược này, Nava chủ trương tăng cường tập trung binh lực, hình thành những
“quả đấm thép” để quyết chiến với Việt Minh và trong quá trình đó đã từng bước
đưa Điện Biên Phủ-một địa danh của vùng Tây Bắc Việt Nam trở thành một căn cứ
quân sự khổng lồ, mạnh nhất Đông Dương và trở thành trung tâm điểm của kế hoạch
Nava. Điện Biên Phủ được Nava coi là địa bàn quyết chiến chiến lược với chủ lực Việt Minh.
Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị và sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Quân ủy
và Bộ Tổng Tư lệnh, đầu tháng 9-1953, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân
Việt Nam đã nghiên cứu, đánh giá toàn diện tình hình quân sự trên chiến trường và
vạch ra kế hoạch tác chiến mới. Cuối tháng 9-1953, Hội nghị Bộ Chính trị họp bàn
về nhiệm vụ quân sự Đông-Xuân 1953-1954 và đã thông qua chủ trương tác chiến
Đông-Xuân 1953-1954 với phương châm: “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”
và tư tưởng chỉ đạo tác chiến: tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng của ta,
đánh ăn chắc, chắc thắng; chọn nơi địch sở hở để đánh; giữ vững thế chủ động,
buộc địch phải phân tán lực lượng để đối phó. Nghị quyết quan trọng này Bộ
Chính trị đã mở đường đi tới những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến công chiến
lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ. Nghị quyết
Bộ Chính trị được quán triệt tới các cấp, các ngành; các kế hoạch phối hợp chiến
đấu với cách mạng Lào và Campuchia cũng được bạn hoàn toàn nhất trí và ủng hộ.
Thực hiện chủ trương tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, đến tháng
12-1953, Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng xong các kế hoạch tác chiến cụ thể cho
các chiến trường và được Bộ Chính trị phê chuẩn. Trên cơ sở báo cáo quyết tâm
của Tổng Quân ủy, tại cuộc họp của Bộ Chính trị, ngày 6-12-1953, đã quyết định
mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng
Quân ủy và cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp-Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư
lệnh quân đội trực tiếp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ
và góp phần nghi binh, phân tán lực lượng địch trên chiến trường Đông Dương, Bộ
Tổng Tư lệnh chỉ đạo các đơn vị quân đội mở các cuộc tấn công địch đồng loạt,
mạnh mẽ trên các hướng chiến lược quan trọng, như: Lai Châu (12-1953); Trung
Lào (12-1953), Hạ Lào và Đông Campuchia (12-1953); mặt trận Tây Nguyên
(11954); Thượng Lào (1-1954). Một số địa bàn quan trọng khác ở Bình Trị Thiên,
cực Nam Trung Bộ, Nam Bộ ta tổ chức tấn công địch đồng loạt bằng việc kết hợp
phát động quần chúng phá tề, trừ gian, mở các chiến dịch địch vận, ngụy vận, phá
hủy giao thông, đẩy mạnh chiến tranh du kích chiến tiêu hao sinh lực địch...
Chiến dịch Điện Biên Phủ được ráo riết chuẩn bị, tháng 7-1953, Bộ Chính trị
quyết định thành lập Ủy ban chi viện tiền tuyến. Hội đồng cung cấp mặt trận Trung
ương và các địa phương được thành lập. Ban Bí thư chỉ đạo tăng cường công tác
làm đường, cầu, giao thông vận tải và chi viện cho tiền tuyến. Cả nước, từ những
vùng tự do, vùng mới giải phóng đến vùng căn cứ du kích đồng bằng đều tập trung
mọi nguồn lực, nhân lực dân công, chuẩn bị tiếp tế, chi viện nhân tài, vật lực cho
mặt trận Điện Biên Phủ. Bên cạnh đó, công tác bảo vệ vùng giải phóng, bảo vệ bí
mật cho chiến dịch, đẩy mạnh tiến công địch trên mặt trận ngoại giao cũng được
chú ý đúng tầm quan trọng của vấn đề. Công tác tiễu phỉ được tiến hành ở Sơn La,
Lai Châu, mở đường cho bộ đội tiến lên Lai Châu; công tác đấu tranh phòng chống
hoạt động gián điệp, gián điệp biệt kích (Commandeau), do thám, tình báo của
Pháp, bảo vệ dân công, kho tàng, vũ khí phương tiện chiến tranh được tăng cường,
nhất là dọc theo tuyến đường chi viện lên Điện Biên Phủ. Phong trào phòng gian,
bảo vệ bí mật, “ba không” được phát động mạnh mẽ và tổ chức sâu rộng trong toàn
dân, toàn quân, nhất trong các đội dân công hỏa tuyến tải hàng ra mặt trận... Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “chiến dịch này là một chiến dịch rất quan trọng,
không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà
đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành
cho kỳ được” . Khẩu hiệu hành động: tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng.
Đầu năm 1954, với cố gắng cao nhất của Pháp và Mỹ, Điện Biên Phủ đã
được xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với tổng số
binh lực lúc cao nhất lên đến 16.200 tên, có sức cơ động mạnh, bố trí trong 49 cụm
cứ điểm chia làm 3 phân khu Bắc, Nam và Trung tâm liên thông, yểm trợ cho nhau
rất chặt chẽ. Điện Biên Phủ được xây dựng hệ thống công sự chìm, hầm ngầm dầy
đặc, có sức phòng ngự, đề kháng rất kiên cố theo kiểu hiện đại; được trang bị nhiều
loại vũ khí, phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất lúc bấy giờ, gồm pháo binh, máy
bay, xe tăng, xe cơ giới,. Điện Biên Phủ trở thành một “pháo đài khổng lồ không
thể công phá”, được giới quân sự, chính trị Pháp-Mỹ đánh giá là một “con nhím
khổng lồ giữa núi rừng Tây Bắc”, “một cỗ máy để nghiền Việt Minh”...
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị và chỉ thị của Hồ Chủ tịch,
Quân đội ta đã tập trung khoảng 5 vạn quân với mọi nỗ lực và quyết tâm cao nhất
bao vây chặt quân địch ở Điện Biên Phủ. Để bảo đảm chắc thắng, Đại tướng Tổng
tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán, kịp thời chuyển hướng phương châm tác
chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”, “đánh chắc
thắng”. Ngày 13-3-1954, quân ta nổ súng tấn công địch ở phân khu phía Bắc trung
tâm Mường Thanh, mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chiến dịch Điện Biên Phủ
diễn ra theo 3 đợt và đến 17 giờ 30 phút, ngày 7-5-1954, Quân đội nhân dân Việt
Nam đã đánh chiếm hầm chỉ huy, bắt sống tướng De Castries (Đờ Cátơri) chỉ huy
trưởng và toàn bộ Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Toàn bộ lực lượng
địch ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt sống, các vũ khí, phương tiện chiến
tranh bị phá hủy và tịch thu. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị đập tan hoàn toàn.
Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục,
kiên cường, thông minh sáng tạo và vô cùng anh dũng, hy sinh vô bờ bến của Quân
đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ là chiến
thắng của toàn dân tộc Việt Nam, của lòng yêu nước sâu sắc, ý chí và khát vọng
độc lập tự do của nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là lực lượng Quân đội nhân dân
Việt Nam anh hùng. Chiến dịch đánh dấu sự thất bại thảm hại của chủ nghĩa thực
dân Pháp, của quân đội Pháp và hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc,
thực dân trong thế kỷ XX. Điện Biên Phủ được coi như một trận Waterloo mới đối
với nước Pháp, “Điện Biên Phủ thất thủ gây nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Đó là
một trong những thảm bại lớn nhất của phương Tây... Tiếng sấm Điện Biên Phủ
hãy còn vang vọng” . Thắng lợi ở Điện Biên Phủ “là cột mốc lịch sử bằng vàng”, là
“thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam”. Chiến thắng Điện Biên Phủ “được ghi vào
lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ
XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, báo hiệu sự thắng lợi
của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân” .
Cùng với thắng lợi to lớn, vang dội ở Điện Biên Phủ, ở các mặt trận khác
trên toàn chiến trường Đông Dương trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân
1953-1954, quân và dân ta cũng giành nhiều thắng lợi quan trọng. Trong các đô thị
nổ ra nhiều cuộc biểu tình, bãi công, bãi thị, bãi khóa của các tầng lớp nhân dân,
chống bắt lính, đòi hòa bình, chấm dứt chiến tranh được kết hợp với các hoạt động
vũ trang, đấu tranh chính trị diễn ra nhịp nhàng, mạnh mẽ. Ở đồng bằng và trung
du Bắc Bộ, nhiều trận tập kích, phục kích, đánh đồn, bao vây, bức hàng địch đã
tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, triệt nguồn tiếp tế của chúng. Phần lớn các
tỉnh đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Mặt trận Bình Trị Thiên, quân ta đánh
nhiều trận phục kích, tập kích trên đường giao thông, xe lửa và giành được thắng
lợi lớn. Ở Nam Trung Bộ, quân dân Liên khu V tập kích thị xã Plâyku, phục kích
địch trên đèo An Khê diệt và làm bị thương nhiều sinh lực địch. Ở Nam Bộ, chiến
tranh du kích được đẩy mạnh, bộ đội địa phương và nhân dân phối hợp đánh địch,
hạ nhiều đồn bốt và tháp canh, làm tan rã ngụy quyền ở một số nơi, nhiều vùng căn
cứ địa, vùng giải phóng được củng cố và mở rộng thêm, làm thất bại âm mưu bình
định của địch, bao vây, giam chân không cho chúng cơ động tiếp ứng cho Điện Biên Phủ....
Cuối năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta phát
triển mạnh mẽ buộc chính giới Pháp phải tìm một giải pháp hòa bình dàn xếp cuộc
xung đột ở Việt Nam. Đảng, Chính phủ và Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng “tiếp
ứng” và nêu rõ lập trường quan điểm của Việt Nam là “Chính phủ Pháp phải thật
thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”, phải đình chỉ cuộc chiến
tranh xâm lược và phải thương lượng trực tiếp và chủ yếu với Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ... Tuyên bố này mở đường cho cuộc đấu tranh ngoại giao của
Việt Nam tại Hội nghị Geneve (Giơnevơ, Thụy Sỹ) về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương sau này.
Trước áp lực dư luận đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương và triển vọng
thất bại thảm hại ở Điện Biên Phủ và trên toàn chiến trường Đông Dương, Chính
phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải thống nhất với các nước Mỹ,
Anh, Liên Xô, Trung Quốc đồng ý Hội nghị Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh
lập lại hòa bình ở Đông Dương với sự tham gia của các bên hữu quan gồm: Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa, 3 đoàn đại biểu của chính quyền thân Pháp là Vương
quốc Campuchia, Vương quốc Lào và chính quyền Bảo Đại Việt Nam. Việt Nam
đòi có sự tham gia của Chính phủ kháng chiến Lào và Campuchia nhưng không
được chấp nhận. Hội nghị chính thức bàn về Đông Dương diễn ra từ ngày 8-5 đến
ngày 21-7-1954 tại thành phố Geneve (Giơnevơ, Thụy Sĩ).
Ngay sau thắng lợi ở mặt trận Điện Biên Phủ, với thiện chí hòa bình, mong
muốn chấm dứt chiến tranh, ngày 8-5-1954, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế
của một dân tộc chiến thắng. Sau 75 ngày đàm phán căng thẳng, gay go, phức tạp,
trải qua 8 phiên họp toàn thể, 23 phiên họp hẹp và phải chịu nhiều tác động, áp lực
của diễn biến tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các nước lớn, nhưng với
thiện chí hòa bình, tinh thần chủ động, kiên trì đấu tranh, giữ vững nguyên tắc,
nhân nhượng có điều kiện, ngày 21-7-1954, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã
chấp nhận ký kết với Pháp bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam. Trong quá
trình diễn ra Hội nghị Mỹ gây sức ép buộc Pháp đưa Ngô Đình Diệm về nước làm
Thủ tướng trong chính quyền Bảo Đại, nhằm xây dựng chính quyền thân Mỹ thay
thế chính quyền thâm Pháp ở Việt Nam.
Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố cuối cùng về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương có chữ ký của các bên (riêng phía đại biểu Mỹ không ký, nhưng
tuyên bố cam kết tôn trọng Hiệp định). Tinh thần cao nhất của bản Tuyên bố là:
Pháp và các nước tham dự Hội nghị long trọng cam kết tôn trọng các quyền dân tộc
cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó; cam kết chấm
dứt cuộc chiến tranh và lập lại hòa bình trên bán đảo Đông Dương. Trong suốt quá
trình Hội nghị đoàn đại biểu Việt Nam dân Chủ Cộng hòa đã tích cực đấu tranh để
bảo vệ quyền lợi chính trị của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia.
Nhưng Hội nghị chỉ chấp nhận cho lực lượng kháng chiến Lào có vùng tập kết
gồm hai tỉnh Sầm Nưa và Phôngxaly, lực lượng kháng chiến Campuchia phải phục viên tại chỗ.
Hội nghị Giơnevơ kết thúc với bản Tuyên bố cuối cùng được các bên tham
gia ghi nhận là một thắng lợi to lớn, căn bản bước đầu của cách mạng ba nước
Đông Dương, phản ánh xu thế chung của tình hình quốc tế lúc bấy giờ. Đây là văn
bản pháp lý quốc tế đầu tiên ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt
Nam, Lào và Campuchia trên bán đảo Đông Dương. Nội dung bản Hiệp định đình
chỉ chiến sự ở Việt Nam chưa phản ánh đúng thực chất thực lực của ta trên chiến
trường, nhưng được ghi nhận là sự kiện lịch sử đánh dấu kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động
Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; nó mở ra một trang lịch sử mới của
dân tộc Việt Nam, mở đường cho cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất hoàn
toàn cho nhân dân 3 nước Đông Dương sau này.
Chiến thắng Biên giới đã mở ra một cục diện mới. Quyền chủ động trên
chiến trường chính đã về tay ta, biên giới được khai thông, thế bị bao vây cả trong
lẫn ngoài bị phá vỡ, căn cứ địa Việt Bắc được củng cố và mở rộng, ta càng có điều
kiện thuận lợi để phát triển lực lượng về mọi mặt, đẩy mạnh kháng chiến tiến tới.
Chiến dịch Biên giới là kết tinh thành quả của những nỗ lực phi thường về đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao của quân và dân ta từ ngày đầu kháng chiến
toàn quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ.
Mở rộng biên giới, nối liền cuộc kháng chiến của nhân dân ta với nhân dân
Trung Quốc, với phe xã hội chủ nghĩa, những thắng lợi trên cả hai mặt trận quân sự
và ngoại giao trong năm 1950 đã đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta sang một
giai đoạn mới: giai đoạn giữ vững và phát huy thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính.
Chủ trương của Đảng và Chính phủ Việt Nam trước sau như một là nỗ lực
vãn hồi hòa bình, kết hợp giành thắng lợi về quân sự với giải pháp ngoại giao để
kết thúc cuộc kháng chiến. Ngày 26 - 11 - 1953, trong bài trả lời phỏng vấn báo
Expressen (Thụy Điển), Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ nguyên nhân và tình hình
cuộc chiến tranh ở Việt Nam, tuyên bố lập trường của Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hòa là sẵn sàng đàm phán với Chính phủ Pháp để kết thúc chiến tranh trên cơ
sở:“Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.
Ngày 26 - 4 - 1954, Hội nghị Genève bắt đầu họp về vấn đề Triều Tiên.
Chiều 7-5 - 1954, toàn bộ sĩ quan, binh lính Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ đầu hàng. Thất bại ở Điện Biên Phủ làm tan vỡ mưu đồ thương lượng trên thế
mạnh của các thế lực đế quốc hiếu chiến. Trái lại, thắng lợi này đã hỗ trợ mạnh mẽ
cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam để chấm dứt chiến tranh.
Ngày 8 - 5 - 1954, vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông
Dương được đưa ra thảo luận.
Hội nghị Genève về Đông Dương diễn ra trong bối cảnh khác trước: Cuộc
kháng chiến của ta đã giành được nhiều thắng lợi vang dội mà đỉnh cao là chiến
thắng Điện Biên Phủ. Mặt khác, trên bình diện ngoại giao, vấn đề Đông Dương
cũng được quốc tế hóa. Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bên chủ yếu của
chiến tranh, đã tham dự Hội nghị Genève để bàn về chính công việc của mình.
Ngày 21 -7 - 1954, các nước tham dự Hội nghị đã ra tuyên bố cuối cùng và
ký các văn bản hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia, tạo nên
khung khổ pháp lý của Hiệp định Genève về Đông Dương.
Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève đã kết thúc cuộc
kháng chiến chống Pháp lâu dài và gian khổ của dân tộc Việt Nam.
Những thắng lợi đạt được là kết quả của sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
Chính phủ qua việc kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại
giao để giành được thắng lợi. Lấy đấu tranh quân sự làm cơ sở để đấu tranh ngoại
giao và đấu tranh ngoại giao để tạo những điều kiện thuận lợi cho đấu tranh quân
sự phát triển mạnh. Đặc biệt, chúng ta đã tranh thủ sự ủng hộ về tinh thần của nhân
dân lao động tiến bộ trên thế giới, sự giúp đỡ về vật chất lẫn tinh thần của các nước
trong phe xã hội chủ nghĩa, sự giúp đỡ của các nước láng giềng trong cuộc đấu
tranh chính nghĩa vì độc lập, tự do của dân tộc. Một khi quân sự mạnh lên, thế và
lực vững vàng, sẽ tiến hành đấu tranh quân sự để giành một thắng lợi quyết định
buộc kẻ thù phải ngồi vào bàn đàm phán với ta.
Thắng lợi Điện Biên Phủ và Hiệp định Genève được ký kết là hai sự kiện lớn
thể hiện sự kết hợp nhịp nhàng giữa hai mặt trận quân sự và ngoại giao, trong đó
thắng lợi quân sự làm cơ sở để đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, kết thúc
chiến tranh. Đây cũng là nghệ thuật đấu tranh, một bài học quý báu được tiếp tục
vận dụng và phát huy trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để giành thắng
lợi trọn vẹn, vẻ vang nhất.
1.2. Bối cảnh - đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng và
chủ trương kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn 1954 - 1967 1.2.1. Bối cảnh
Cuộc kháng chiến bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam, mà đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ, đã buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Genève.
Đây là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân
ta. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát
triển mới, với những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp. Thuận lợi
Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và của hệ thống xã hội chủ nghĩa
cùng với sự giúp đỡ, hợp tác của hệ thống ấy là một thuận lợi cho Việt Nam. Cùng
với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế là sự phát triển
mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đã tranh thủ được sự đồng
tình ủng hộ ngày càng rộng lớn của nhân dân thế giới để tăng cường thế và lực của mình.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Genève được ký kết, cách
mạng nước ta chuyển sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và tiếp tục hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, do Đảng Lao động Việt Nam
lãnh đạo. Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, nhân dân ta ở miền Bắc hoàn toàn làm
chủ xí nghiệp, hầm mỏ, đất nước, tài nguyên và cuộc sống của mình. “Miền Bắc
được giải phóng là một thắng lợi to lớn của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và
đặt cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh để thực hiện một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Miền Bắc được giải phóng, trở thành hậu phương lớn của
Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ (từ 13/3 đến 7/5/1954)
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn ở phía tây vùng rừng núi Tây Bắc,
có lòng chảo Mường Thanh dài gần 20km rộng từ 6 đến 8km, cách Hà Nội khoảng 200km đường chim bay.
Thung lũng này nằm sát biên giới Việt - Lào trên một đầu mối giao thông
quan trọng, có tuyến đường đi Lào, có con sông Nậm Rốm chảy theo hướng nam -
bắc đổ xuống Nậm Hu, có sân bay Mường Thanh được xây dựng từ năm 1889.
Dân số Điện Biên Phủ có 2 vạn người thuộc 11 dân tộc khác nhau (Kinh, Thái,
Mèo, Nùng, Mường, Tây, Lào, Xá, Puộc, Hoa, Púnoi...)
Theo đánh giá của Nava và nhiều nhà quân sự Pháp - Mĩ thì Điện Biên Phủ
là “một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông
Dương, mà còn đối với miền Đông Nam Á”.
Nava xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương. Tổng số binh lực ở tập đoàn này vào lúc cao nhất là 16.200 người, gồm 12
tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại
đội tăng M24, 1 đại đội vận tải 1 phi đội 12 máy bay thường trực được bố trí thành
ba phân khu, 49 cứ điểm tổ chức thành các cụm cứ điểm đề kháng có khả năng
phòng ngừa mạnh. Các tướng lĩnh, chính khách Pháp (Cogny, Navarre, Dejean,
Chevigne, Pléven, Jacquet) đã đến tận nơi để kiểm tra đều thống nhất đánh giá tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là một “pháo đài khổng lồ không thể công phá”,
“Pháo đài bất khả xâm phạm”. Từ ngày 3/12/1953, chúng quyết định chấp nhận
cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ, thách quân ta đánh lên đó để tiêu diệt.
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên
Phủ của Tổng Quân uỷ.
Bộ Chính trị cho rằng, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng
có cái yếu cơ bản là bị cô lập. Nó rất xa hậu phương của địch, mọi tiếp tế vận
chuyển đều dựa vào đường hàng không. Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa
hậu phương lớn (cách Việt Bắc và Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 300 đến 500 kilômét).
Để tiến hành Điện Biên Phủ, khó khăn lớn nhất của ta là vấn đề tiếp tế. Nhưng
nhân dân ta có nhiều khả năng khắc phục khó khăn hơn kẻ địch. Đó là hậu phương
của ta đang chuyển mình trong cuộc cách mạng ruộng đất. Hơn nữa quân đội ta đã
trưởng thành sau thắng lợi trong các chiến dịch Biên giới, Hoà Bình, Tây Bắc,
Thượng Lào... nên có nhiều kinh nghiệm trong tác chiến và nhiều tiến bộ về trang
bị kĩ thuật, nhất là với ý chí “quyết chiến quyết thắng” có thể đánh được tập đoàn cứ điểm.
Trong Chỉ thị ngày 22/12/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Chiến dịch
này là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị,
không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn
quân phải tập trung giành thắng lợi cho kì được. .
Để công tác chuẩn bị và chỉ huy chiến dịch được tốt, Bộ Chính trị quyết định
thành lập Bộ chỉ huy và Đảng uỷ mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên
Bộ Chính trị, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam trực tiếp làm chỉ huy
kiêm bí thư Đảng uỷ mặt trận.
Với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng", hàng chục vạn
dân công vượt qua đèo cao, núi dốc, nắng mưa rét mướt, vượt qua bom đạn,
chuyển lương thực và đạn cho bộ đội đánh giặc. 261.453 dân công miền xuôi, miền
ngược với trên 18.301.570 ngày công đã tham gia chiến dịch cùng 25.056 tấn gạo,
907 tấn thịt, 971 tấn thực phẩm khác được huy động cung cấp cho mặt trận Điện
Biên Phủ. 628 chiếc xe vận tải 21.000 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng nghìn xe
trâu bò thổ được huy động phục vụ chiến dịch.
Chiến dịch được bắt đầu từ ngày 13 - 3 đến ngày 7/5/1954 chia làm 3 đợt
(đợt 1 từ 13 đến 17/3; đợt 2 từ 30/3 đến 26/4; đợt 3 từ 1/5 đến 7/5). Chiều 7/5,
tướng Đờ Caxtơri (Decastries) cùng toàn bộ Ban tham mưu của địch đầu hàng. Sau
56 ngày đêm chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc oanh liệt Cuộc tiến công chiến lược
Đông Xuân 1953 – 1954 của quân và dân Việt Nam, đánh bại kế hoạch quân sự
Nava, làm sụp đổ niềm hi vọng của các giới quân sự và chính trị ở Pháp, làm xoay
chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở cho cuộc chiến đấu tranh ngoại giao thắng
lợi ở Giơnevơ (Genève).
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc.
1. Bối cảnh lịch sử
Trải qua 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược phủ nghĩa, nước Pháp đã
bị những thiệt hại nặng nề về người và của, càng mở rộng và kéo dài cuộc chiến
tranh, thất bại càng lớn, nội bộ chính giới Pháp càng phân hóa đưa đến hình thành
hai phái chủ hoà và phái chủ chiến.
Tháng 7/1953, Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên được ký kết đã gây tiếng
vang lớn thúc đẩy xu thế giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng con đường đàm phán ngoại giao.
Ở nước Pháp, cuộc đấu tranh giữa phải chủ chiến và phái chủ hoà về vấn đề
chiến tranh ở Đông Dương ngày càng gay gắt. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ
hơn đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược ở Đông Dương.
Trung Quốc và Liên Xô cũng chủ trương sớm đi tới một giải pháp hoà bình
cho vấn đề Đông Dương theo kiểu đình chiến ở Triều Tiên.
Ngày 10/9/1953 Ban Thường trực Hội đồng hòa bình thế giới cũng thông qua
Nghị quyết kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh giải
quyết hòa bình ở Đông Dương.
Tháng 10/1953, Đại hội Công đoàn thế giới lần thứ III họp ở Viện (Áo) cũng
quyết định lấy ngày 19/12/1953 làm ngày lao động thế giới, đoàn kết tích cực với
nhân dân Việt Nam, đòi chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp.
Sau 9 năm kháng chiến, lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành mọi mặt.
2. Chủ trương của Đảng
Phối hợp với Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954, Đảng và
Chính phủ ta đã mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao. Ngày 26/11/1953, trả
lời phỏng vấn báo Expressen của Thụy Điển về vấn để chấm dứt chiến tranh, lập
lại hòa bình ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cuộc chiến tranh ở Việt Nam
là do Chính phủ Pháp gây ra. Nhân dân Việt Nam phải cầm vũ khí anh dũng chiến
đấu bảy, tám năm nay chống kẻ xâm lược chính để bảo vệ nền độc lập và quyền tự
do được sống hoà bình. Hiện nay nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm
lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng
lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến
tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng
và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hoà bình thì nhân dân và Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở
Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.
Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuất phát từ nguyện vọng hoà bình
của nhân dân ta, có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh cho hòa bình ở Pháp và
trên thế giới, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh Đông Dương.
3. Hội nghị Giơnevơ
Chủ trương mở mặt trận ngoại giao của Hồ Chí Minh đưa ra giữa lúc thực
dân Pháp đang đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch Nava, càng thúc đẩy nhân dân
Pháp đấu tranh đòi Chính phủ Pháp phải thương lượng với Chính phủ Việt Nam và
gây tiếng vang lớn trên thế giới.
Ngày 25/1/1954, Hội nghị ngoại trưởng bốn nước (Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp)
họp tại Béclin đã thoả thuận về việc triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Gionevơ để
giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương. -
Ngày 26/4/1954 Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương chính thức khai
mạc vàbắt đầu thảo luận về vấn để lập lại hòa bình ở Đông Dương từ ngày 8/5/1954.
Tham gia hội nghị có 8 nước: đoàn đại biểu Liên Xô do Mộtolốp đứng đầu,
đoàn đại biểu Công hòa Nhân dân Trung Hoa do Chu n Lai đứng đầu, đoàn đại
biểu Cộng hoà Pháp do Biđôn (G. Bidault) đứng đầu, đoàn đại biểu Mĩ do Smít
đứng đầu, đoàn đại biểu Anh do Idợn (Eden) đứng đầu, phái đoàn Chính phủ Việt
Nam do Phạm Văn Đồng đứng đầu, cùng các đoàn đại biểu của chính quyền Bảo
Đại (Nguyễn Quốc Định), Chính phủ Vương quốc Cămpuchia (Nhiếp Tiên Long)
và Chính phủ Vương quốc Lào (Rhout Sananikone).
Do sự đối sánh của các lực lượng trên phạm vi thế giới và khu vực, trực tiếp
là sự đối sánh trên chiến trường chi phối và lợi ích của các nước tham dự Hội nghị,
nên cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở Hội nghị ngoại giao diễn ra gay go,
phức tạp. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, ngày 21/7/1954 các
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia lần lượt được kí kết.
Bản tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương đã được đại diện
các nước dự hội nghị chấp nhận cam kết chính thức. Đại diện Mĩ ra tuyên bố riêng
thừa nhận tôn trọng Hiệp định.
Nội dung hiệp định nêu rõ: -
Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trong các quyền dân tộc cơ
bản là Hai bên tham chiến lực lượng kháng chiến các nước ở Đông Dương và lực
lượng quân đội Pháp) cùng ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương. -
Hai bên tham chiến thực hiện cuộc di chuyển, tập kết quân đội ở hai
vùng ởViệt Nam, quân đội cách mạng Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập
kết ở hai miền Bắc - Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải, Quảng Trị) là
giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Ở
Lào, lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh Sầm Nưa và Phong Xali, ở
Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết.
Hiệp định cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào
các nước Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối
liên minh quân sự nào và không để cho nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc
gây chiến tranh hoặc phục vụ cho mục đích xâm lược. -
Không phân biệt đối xử, không trả thù đối với những cá nhân, những
tập thể cũng như với gia đình của người đã cộng tác với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh. -
Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả
nước, sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế
(gồm Ấn Độ, Ba Lan, Canada và do Ấn Độ làm chủ tịch).
Giữa năm 1953, với sự thỏa thuận của đế quốc Mỹ, tướng Pháp H. Nava
được chỉ định làm Tổng chỉ huy các lực lượng viễn chinh ở Đông Dương, thực
hiện kế hoạch Nava đầy tham vọng hòng giành lại thế chủ động chiến lược, chuyển
bại thành thắng ở Đông Dương. Biện pháp thực hiện: tập trung quân cơ động, chủ
động mở các cuộc tấn công vào vùng tự do, tiêu diệt quân chủ lực ta. •
Bộ Chính trị quyết định mở chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 với
chủ trương: giữ vững và phát triển mạnh mẽ thế tiến công chiến lược, đập tan kế
hoạch Nava, chớp lấy thời cơ giành thắng lợi quyết định cho cuộc kháng chiến chống Pháp. •
Phương châm chiến lược của ta là tập trung lực lượng, mở những cuộc
tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược, ở đó, địch đang trong thế
tương đối yếu, buộc chúng phải phân tán lực lượng đối phó, tạo ra những điều kiện
thuận lợi mới để tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch, giải phóng, mở rộng đất đai.
Đồng thời, ta đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các vùng sau lưng địch, bảo vệ
vùng tự do, tạo điều kiện để quân chủ lực của ta tiêu diệt địch ở những hướng đã định. •
Theo kế hoạch đó, đầu tháng 12-1953, bộ đội chủ lực của ta tiến lên Tây
Bắc giải phóng Lai Châu. Trước tình thế đó, Nava vội điều quân từ đồng bằng Bắc
Bộ lên tăng cường cho Tây Bắc, Tây Bắc trở thành nơi tập trung binh lực lớn thứ
hai của địch, chỉ đứng sau đồng bằng Bắc Bộ. •
Tháng 12-1953, liên quân Lào - Việt bất ngờ tấn công địch ở Trung
Lào, địch phải tăng viện cho Sênộ. Sênó trở thành nơi tập trung binh lực lớn thứ ba của địch. •
Đầu tháng 2-1954, quân ta giải phóng thị xã Kon Tum và phía Bắc Tây
Nguyên, buộc địch phải bỏ dở chiến dịch Atlăng ở Tuy Hòa - Phú Yên và điều
quân lên ứng cứu cho Tây Nguyên. Tây Nguyên trở thành nơi tập trung binh lực |
lớn thứ tư của địch. •
Ngày 26-1-1954, bộ đội chủ lực Việt Nam phối hợp với quân giải
phóng Lào mở chiến dịch Thượng Lào. Nava vội điều quân sang ứng cứu Luông
Pha Băng. Luông Pha Băng trở thành nơi tập trung binh lực lớn thứ năm của địch. •
Các trận tiến công chiến lược theo các hướng chủ yếu của chiến cuộc
Đông- Xuân 1953-1954 đập tan ý đồ tập trung binh lực của địch, buộc chúng phải
phân tán lực lượng và bị động đối phó trên các chiến trường. •
Trung tâm kế hoạch Nava là xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn
phòngngự chiến lược mạnh nhất, án ngữ và kiểm soát toàn bộ chiến trường Đông
Dương. Dự đoán chính xác âm mưu địch và khả năng phát triển của cuộc chiến đấu
trên các chiến trường, Đảng ta lựa chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến lược. •
Ngày 6-12-1953, mở đầu chiến cuộc Đông - Xuân 19531954, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch tiêu diệt địch ở Điện Biên Phủ ngay trong tình
thế phòng ngự của địch. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Chiến dịch này là một chiến
dịch rất quan trọng, không những về quân sự, mà cả về chính trị, không những đối
với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập
trung hoàn thành cho kỳ được. Thắng lợi của các trận đánh mở màn của chiến cuộc
Đông - Xuân 1953-1954 tạo tiền đề thắng lợi cho trận quyết chiến chiến lược ở Điện Biên Phủ. •
Đầu năm 1954, vòng vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của quân ta
bắt đầu xiết chặt. Trong khi đó Pháp và Mỹ huênh hoang tuyên bố: "Điện Biên Phủ
là một pháo đài bất khả xâm phạm", "sẵn sàng nghiền nát bộ đội chủ lực của đối
phương"... Ngày 13-3-1954, bộ đội ta tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ với phương châm của chiến dịch do Trung ương Đảng đề ra là "đánh chắc, tiến
chắc". Sau 55 ngày đêm chiến đấu liên tục và anh dũng trước sự phản kích quyết
liệt của địch, chiều ngày 7-5-1954 chiến dịch Điện Biên Phủ đã thắng lợi. Quân ta
đã loại khỏi vòng chiến đấu toàn bộ tập đoàn cứ điểm với 16.200 tên địch; trang bị,
vũ khí của địch bị thu hồi hoặc bị phá hủy hoàn toàn. •
Sức mạnh tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ là sức mạnh của cả
nước. Vớikhẩu hiệu: "Tất cả cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Tất cả để chiến
thắng!", từ đồng bằng đến trung du, miền núi, từ vùng tự do đến vùng sau lưng
địch, sức người, sức của đều được huy động cho chiến dịch Điện Biên Phủ. •
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, mà đỉnh cao là
chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Trong cuộc tiến công chiến lược này,
quân và dân ta đã tiêu diệt 112.000 tên địch, thu hồi và phá hủy số lượng lớn
phương tiện chiến tranh quan trọng của địch.
2. Ý nghĩa lịch sử •
Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến
lâu dài chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ. Chiến thắng đó đã bảo vệ
và phát triển các thành quả của Cách mạng Tháng Tám, giải phóng miền Bắc, đánh
đổ ách thống trị của thực dân Pháp suốt gần một thế kỷ, tạo điều kiện xóa bỏ hoàn
toàn giai cấp địa chủ, phong kiến. •
Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 và chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ đã đập tan kế hoạch Nava, Cố gắng lớn nhất trong chiến tranh xâm lược Việt
Nam của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm
lược của thực dân Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định
Giơnevơ, kết thúc chiến tranh, công nhận các quyền cơ bản của các dân tộc Đông Dương. •
Chiến cuộc Đông - Xuân 1953-1954 và chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một Bạch Đằng, hay một Chi Lăng, một
Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi
đột phá thành trì của chủ nghĩa đế quốc thực dân. Đó là niềm phấn khởi và tự hào
của toàn quân và toàn dân ta, là nguồn Cổ vũ đối với phong trào giải phóng dân tộc
trên thế giới nhất là các dân tộc ở Á - Phi, chứng minh sức mạnh của một chân lý
lớn của thời đại: độc lập, tự do.
Chủ trương quân sự của Trung ương Đảng được toàn Đảng, toàn quân và dân
ta tích cực chuẩn bị và khẩn trương thực hiện kế hoạch tác chiến, quân đội nhân
dân Việt Nam đã liên tiếp mở các cuộc tấn công trên các hướng chiến lược trên
chiến trường Đông Dương; tiến công địch ở Tây Bắc, giải phóng Lai Châu, uy hiếp
Điện Biên Phủ, tiến công địch ở Trung Lào, giải phóng Thà Khẹt và nhiều vùng
quan trọng ở Trung Lào, tiến công địch ở Hạ Lào về đồng Campuchia, mở rộng
xuống tây - bắc Campuchia, tiến công địch ở Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon
Tum, uy hiếp Playcu. Đến tháng 11954, để tiếp tục chuẩn bị, bố trí thế trận đánh
Điện Biên Phủ theo phương châm "đánh chắc, tiến chắc", quân đội ta còn phối hợp
với quân giải phóng Lào tiến công địch ở phòng tuyến sông Nậm Hu, Thượng Lào,
giải phóng Nậm Hu và toàn bộ tỉnh Phôngxalỳ. Phối hợp với các đòn tiến công của
chủ lực ở trên, quân và dân ta ở các chiến trường đã đẩy mạnh tác chiến, tiêu diệt
nhiều sinh lực địch, mở rộng các căn cứ du kích. Kế hoạch quân sự Nava bước đầu
bị phá sản, tạo điều kiện thuận lợi cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Giữa lúc quân đội ta bắt đầu tiến quân lên Tây Bắc, ngày 20-11-1953 Nava
vội vàng cho thực hiện cuộc hành trình Hải Ly (Castor) cho quân nhảy dù xuống
Điện Biên Phủ rồi tiếp tục tăng quân, vũ khí để xây dựng ở Điện Biên Phủ một tập
đoàn cứ điểm quy mô lớn.
Hạ tuần tháng 12-1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm
điểm quyết chiến chiến lược trong Đông Xuân 1953-1954. Chiến dịch Điện Biên
Phủ có ý nghĩa quân sự và chính trị quan trọng. Chiến dịch diễn ra từ ngày 13-
31954 và kết thúc vào ngày 7-5-1954.
Với chiến thắng Điện Biên Phủ, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống 16.000 tên
địch, trong đó có tướng Đờ Caxtơri (De Castrics) và toàn bộ tham mưu của tập
đoàn cứ điểm bị diệt và bắt sống.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi lớn nhất của cuộc đọ sức toàn diện
và quyết liệt của quân dân Việt Nam với quân đội xâm lược Pháp. Chiến công đó
được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa
trong thế kỷ XX và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công hiển hách, bảo hiệu
sự thắng lợi của nhân dân các dân tộc bị áp bức, sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Cùng với chủ trương mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao,
Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Expresses Thụy
Điển về việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
"Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm
nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn
đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó...
Cơ sở của việc định chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng
nền độc lập thật sự của nước Việt Nam".
Chủ trương mở mặt trận ngoại giao của ta đưa ra giữa lúc thực dân Pháp
đang thực hiện Kế hoạch Nava đã thúc đẩy nhân dân Pháp đấu tranh đòi Chính phủ
Pháp phải thương lượng với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và gây tiếng
vang trên thế giới. Song, chúng ta không ảo tưởng.
Ngày 27-12-1953, Ban Bí thư ra thông tư nói rõ: Hồ Chủ tịch đã tuyên bố rõ
"lập trường của nhân dân Việt Nam là kiên quyết kháng chiến đến thắng lợi cuối
cùng. Song nhân dân và Chính phủ ta cũng tán thành thương lượng nhằm mục đích
giải quyết hòa bình vẫn để Việt Nam". "Chúng ta tuyệt đối không nên có ảo tưởng
rằng hòa bình sẽ đến một cách mau chóng và dễ dàng. Hòa bình cũng như độc lập
phải đấu tranh gian khổ mới giành được".
Cuối năm 1953, Hội nghị cấp Bộ trưởng ngoại giao giữa Liên Xô, Anh,
Pháp, Mỹ, Trung Quốc (Hội nghị Berlin) đã ra thông báo sẽ triệu tập Hội nghị
Giơnevơ, để bàn giải pháp cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông
Dương, Việt Nam không bỏ lỡ cơ hội, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh vũ trang, tạo cơ
sở cho phái đoàn Việt Nam tới Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng. Ngày
8-5-1954, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt
chiến tranh Đông Dương khai mạc Giơnevơ (Thụy Sĩ).
Cuộc đấu tranh này không kém phần quyết liệt và phức tạp. Đối với Việt
Nam, đây là lần đầu tiên Việt Nam tham dự một hội nghị quốc tế lớn, mặc dù chưa
được Anh, Mỹ, Pháp công nhận về mặt ngoại giao. Đoàn đại biểu của Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã đấu tranh hết sức kiên quyết và khôn khéo. Ngày
21-7-1954, các văn bản của Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại
hòa bình ở Đông Dương được ký kết. Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tham
dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân
Campuchia, Pháp rút quân khỏi ba nước Đông Dương; vĩ tuyến 17 là giới tuyến
quân sự tạm thời ở Việt Nam và đến tháng 7-1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.
Giải pháp ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương lúc bấy
giờ, biểu hiện cụ thể Việt Nam là một nước nhỏ, lại phải đương đầu với các đế
quốc xâm lược lớn trong bối cảnh các quan hệ quốc tế vô cùng phức tạp nên cuộc
đấu tranh giành độc lập dân tộc và tự do của nhân dân ta là lâu dài, gian khổ, quanh
co để giành lấy thắng lợi từng bước là một vấn đề có tính quy luật.
Như vậy, cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định đã chấm dứt chiến
tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Mỹ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở
rộng chiến tranh ở Đông Dương. Miền Bắc được giải phóng, chúng ta có điều kiện xây dựng trong hoà bình.
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào cả nước đã
nêu rõ: "Đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập,
dân chủ cũng mạnh đối với quân Pháp.
Năm 1953, thắng lợi trong việc thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt
sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta và phá tan kế hoạch bình định của giặc Pháp
đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân, dân ta trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.
VI- CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG - XU N 1953 1954,
CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
Qua 8 năm kháng chiến, so sánh lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi lớn. Ở
Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc, Tây
Bắc và tỉnh Hòa Bình. Vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp. Tại Trung Bộ, hai vùng tự
do rộng lớn gồm : Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh (Liên khu IV) và các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu V) được củng cố. Tại Nam Bộ,
các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích đứng vững, cơ sở kháng chiến được xây
dựng ở cả nông thôn và thành thị. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn
lực lượng cơ động chiến lược của địch.
Trước những khó khăn gay gắt ở Pháp và ở Đông Dương, Pháp ngày càng lệ
thuộc Mỹ. Quân Pháp tăng cường về số lượng lên tới 465.000 tên năm 1953)
nhưng chất lượng kém. Mỹ đã can thiệp sâu vào Đông Dương chờ cơ hội hất cẳng
Pháp. Tháng 5-1953, Tướng Nava (Navarre) được phái sang Đông Dương làm
Tổng Chỉ huy quân đội viễn chinh và với sự thỏa thuận của Mỹ, kế hoạch Nava ra
đời nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Pháp là tìm con đường thoát bằng
chính trị, tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có
danh dự. Kế hoạch Nava có nhiệm vụ tăng gấp ba lần số đơn vị cơ động chiến lược
thành 27 binh đoàn và về tác chiến chia làm hai bước: -
Bước thứ nhất (Thu - Đông 1953 và Xuân 1954): Phòng ngự chiến
lược ở Bắc vĩ tuyến 18 và xây dựng lực lượng, tiến công ở Nam vĩ tuyến 18 nhằm
bình định miền Nam và miền Trung, xóa bỏ vùng tự do Liên khu V, ra sức mở rộng
ngụy quân, xây dựng quân đội cơ động lớn. -
Bước thứ hai: Sau khi có ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu
năm 1954 chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công quân sự gây
sức ép buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện của chúng.
Theo kế hoạch đó, tháng 7-1953, quân nhảy dù. Pháp tập kích bất ngờ vào thị
xã Lạng Sơn, tăng cường hoạt động biệt kích ở Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và càn
quét ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên và Nam Bộ. Tháng 8-1953, sau khi rút
quân ở Nà Sản về, địch tập trung hơn 90% lực lượng cơ động ở Bắc Bộ.
Cuối tháng 9-1953, tại Định Hóa, Thái Nguyên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953-1954. Bộ
Chính trị chủ trương đưa bộ đội chủ lực lên Tây Bắc để buộc địch phải phân tán
lực lượng và ta có thể tiêu diệt sinh lực của chúng, phối hợp các chiến trường,
chuẩn bị điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. .
Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 gồm ba đòn tiến công chiến
lược: Đánh vào Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc; phối hợp với quân giải
phóng Lào giải phóng Phong Xa Lộ, tiến công ở Trung Lào và Hạ Lào, phối hợp
với quân giải phóng Campuchia đánh
Đông Bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, giành
lấy Tây Nguyên và phá âm mưu bình định của địch ở miền Nam. Phương châm tác
chiến: Đánh ăn chắc, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ hở và tương đối yếu buộc
địch phải phân tán; tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, - Trong lúc ta chuẩn bị
cho cuộc tiến công chiến lược, giữa tháng 10-1953, quân Pháp đánh vào tây nam
Ninh Bình nhưng bị lực lượng vũ trang của ta phản công ngay từ đầu nên chúng buộc phải rút lui.
Theo kế hoạch đã định, giữa tháng 11-1953, bộ đội ta tiến lên Lai Châu và
sang Trung Lào. Ngày 20-11-1953, Nava vội vã cho quân nhảy dù chiếm Điện
Biên Phủ và xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối liền Thượng Lào với Điện
Biên Phủ. Từ đầu tháng 12-1953, Pháp tăng thêm quân ở Điện Biên Phủ để xây
dựng thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố, sẵn sàng “nghiền nát” quân chủ lực của
ta. Như vậy, ngay từ đầu kế hoạch Nava đã bị đảo lộn.
Ngày 06-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Ngày 10-12-1953, bộ đội ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến
lược Đông - Xuân 1953 - 1954 bắt đầu. Sau 10 ngày đêm chiến đấu, quân ta giải
phóng Lai Châu trữ Điện Biên Phủ. Nava quyết định điều thêm quân cơ động lên
Điện Biên Phủ, đưa lực lượng đây lên 12 tiểu đoàn.
Hạ tuần tháng 12-1953, quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng Lào
tiến công giải phóng hầu hết vùng Trung Lào. Nava phải điều quân từ Bắc Bộ sang
cùng lực lượng tại chỗ lập tập đoàn cứ điểm ở Xên (Xavẳnnakhệt). Liên quân Lào
Việt tiến xuống Hạ Lào và cuối tháng 01-1954 giải phóng cao nguyên Bolôven.
Một bộ phận quân ta phối hợp với quân giải phóng Campuchia tiến công mở rộng
vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào.
Cuối tháng 01-1954, địch tập trung một lực lượng lớn đánh Phú Yên hòng
chiếm Liên khu V. Quân ta đánh chặn địch ở Phú Yên đồng thời tiến công Tây
Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum và bắc Tây Nguyên, tập kích Plâyku. Quân
Pháp buộc phải ngừng tiến công ở Phú Yên, điều lực lượng lên Tây Nguyên tổ
chức hai tập đoàn cứ điểm An Khê và Plâyku. .
Cuối tháng 01-1954, bị đánh mạnh ở Thượng Lào và mất tỉnh Phong Xa Lộ,
Nava phải điều quan tới Mường Sài và Luổng Phạbăng chốt giữ.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, quân và
dân ta hoạt động đều khắp, giam chân và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc địch
phải phân tán lực lượng.
Đầu tháng 3-1954, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên tới hơn 20 tiểu
đoàn, phần lớn là lính u - Phi, bố trí 49 cứ điểm, được sự tiếp tế và hỗ trợ chiến
đấu của 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương.
Với khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng đã động
viên sức người, sức của cho mặt trận Điện Biên Phủ. Hơn 26 vạn dân công với trên
10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. 27.400 tấn gạo được huy động
chuyển đến mặt trận, trong đó đồng bào Tây Bắc mới giải phóng góp 7.300 tấn.
Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa
hàng nghìn kilômét đường. Các loại phương tiện vận tải, kể cả xe đạp được huy động tối đa.
Kế hoạch tác chiến đề ra hai phương châm: Một là “đánh nhanh thắng nhanh”; Hai
là “đánh chắc tiến chắc”. Khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quân và
dân ta chuẩn bị “đánh nhanh thắng nhanh”. Trước ngày quân ta dự định nổ súng
tiến công (ngày 25-01-1954), tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tăng
cường. Bộ Chính trị chuẩn y đề nghị Đảng ủy Mặt trận chuyển sang phương châm
“đánh chắc tiến chắc” và hoãn ngày mở đầu chiến dịch.
Cùng với những hoạt động về quân sự và chuẩn bị chiến dịch, Đảng ta mở
cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất. Ba đợt thí điểm được tiến hành từ
tháng 4 đến tháng 12-1953. Tháng 11-1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ
năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất khóa II của Đảng thông qua Cương lĩnh về
vấn đề ruộng đất'. Ngày 01-12-1953, Quốc hội khóa I thông qua Luật cải cách
ruộng đất. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến
hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số nơi thuộc vùng tự do. Việc
làm đó đã có ảnh hưởng tốt đến nhiều vùng trong nước, tới cả vùng sau lưng địch.
Không khí phấn khởi của nông dân đã truyền tới các chiến sĩ ngoài mặt trận, góp
phần củng cố quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược.
Ngày 13-3-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ. Bộ đội ta tiêu diệt gọn hai cứ điểm Him Lam, Độc Lập, tiếp đó uy
hiếp sân bay Mường Thanh Thắng lợi đầu tiên của ta làm cho tinh thần binh sĩ địch
dao động, thực dân Pháp ở Hà Nội, Sài Gòn và Chính phủ Pháp bàng hoàng.
Đợt tiến công thứ hai bắt đầu ngày 30-3-1954. Quân ta chiếm được phần lớn
cứ điểm quan trọng ở phía đông, chia cắt, bao vây, khống chế được tiếp viện của
địch. Quân Pháp được tăng thêm 4 tiểu đoàn, chống cự quyết liệt. Đế quốc Mỹ tăng
viện gấp cho Pháp 179 máy bay và giặc lái, dự định mở chiến dịch “con diều hâu”
dùng máy bay ném bom hạng nặng để cứu nguy cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị nhận định: Hai đợt 1 tiến công của ta đã giành
được thắng lợi, nhưng thắng lợi còn hạn chế và ta đã phải chịu nhiều tổn thất; trong
một số cán bộ, đảng viên xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, thiếu ý thức
trách nhiệm. Bộ Chính trị quyết định tăng cường chi viện cho Điện Biên Phủ, cử
nhiều Ủy viên Trung ương Đảng ra mặt trận, chuyển một bộ phận cán bộ của cuộc
vận động thực hiện chính sách ruộng đất sang phục vụ chiến dịch và mở đợt sinh
hoạt chính trị nâng cao tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận.
Ngày 01-5-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ ba nhằm tổng công kích, tiêu
diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Sau ba ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta chỉ
còn cách Sở chỉ huy địch 300 m. Thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt, địch định phá vòng
vây tháo chạy sang Lào nhưng không kịp. 17 giờ 30 phút ngày 07-5-1954, tướng
Đờ Caxtơri (De Castries) và toàn bộ Bộ Tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống,
12.000 quân địch ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, quân ta đã tiêu diệt toàn
bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống 16.200 quân địch, bắn rơi và
phá hủy 62 chiếc máy bay, thu nhiều vũ khí. Ngày 08-5-1954, Chủ tịch Hồ Chí
Minh gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây
Bắc; Người căn dặn: Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu. | Chiến thắng Điện
Biên Phủ cổ vũ và tạo điều kiện cho cuộc tiến công và nổi dậy (phá tề, trừ gian,
chống bắt lính, làm tan rã hàng ngũ địch) của quân và dân ta ở vùng địch chiếm
đóng. Ngày 27-5-1954, hơn 20.000 nhân dân thành phố Hải Phòng xuống đường
biểu tình chống bắt lính, diễu qua các đường lớn, phá phòng động viên Cầu Đất và
đốt phá một số đồn cảnh sát.
Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là Chiến
dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thành công. Gần một phần tư tổng lực của địch đã
bị tiêu diệt. Quân và dân ta đã đánh bại kế hoạch Nava là cố gắng chiến tranh cao
nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, giáng đòn quyết định đập tan ý
chí xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp.
Ngày 14-5-1954, Chính phủ Pháp chủ trương rút quân khỏi phía nam đồng
bằng Bắc Bộ và xác định mục tiêu chính của Pháp ở Đông Dương là bảo vệ quân
đội viễn chinh. Tính đến giữa tháng 7-1954, quân Pháp rút 175 vị trí ở phía nam
đồng bằng Bắc Bộ, rút khỏi Việt Trì và hầu hết các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình,
Nam Định, Hà Nam. Gần 90% đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng.
Thắng lợi của Nhân dân ta có sự đóng góp quý báu của nhân dân Pháp và
nhân dân tiến bộ trên thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ Nhân dân ta kháng chiến chống
cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” của thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được kết thúc bằng cuộc
đấu tranh về ngoại giao.. . - Sau khi Quốc hội Pháp biểu quyết ủng hộ Chính
phủ Pháp tìm giải pháp thương lượng cho cuộc chiến tranh, ngày 26-111953,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Etxprétxen (Thụy
Điển) nói rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về thương lượng: Cơ sở của việc
đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật
sự của nước Việt Nam.
Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thảm bại ở Điện Biên Phủ, Hội
nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc ở Giơnevơ (Thụy
Sĩ). Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 bện: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào,
Campuchia. Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng, Trưởng đoàn đại biểu của
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên bố lập trường về một giải pháp
hoàn chỉnh: Đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải
pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở
tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở
Đông Dương. Chủ trương của phía Pháp là chỉ giải quyết vấn đề quân sự, tách vấn
đề Lào và vấn đề Campuchia khỏi vấn đề Việt Nam. Do lập trường các bên khác
nhau, mỗi đế quốc lại có ý đồ riêng nên đến trung tuần tháng 6-1954, Hội nghị hầu
như giẫm chân tại chỗ. Một số vấn đề tồn tại là: Đường ranh giới tập kết ở Việt
Nam; thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; thời hạn rút quân Pháp khỏi miền Bắc
Việt Nam, Lào và Campuchia.
Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơnevơ đi đến giải pháp và ký kết Hiệp định,
Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của
Nhân dân Việt Nam, Nhân dân Lào, Nhân dân Campuchia; Pháp rút quân khỏi ba
nước Đông Dương; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời; tháng 7-1956, tổng
tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.
Trong số 9 đoàn tham dự Hội nghị Giơnevơ, có 8 đoàn tham gia ký vào Hiệp
định. Riêng đoàn Mỹ không ký mà chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận. Đây là sự
chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định sau này.
Hiệp định Giơnevơ đã góp phần cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ chấm
dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được giải
phóng, có điều kiện xây dựng trong hòa bình, làm cơ sở cho sự nghiệp giải phóng miền Nam sau này.
Hiệp định Giơnevơ có mặt hạn chế là không phản ánh đầy đủ những thắng
lợi của quân và dân ta trên chiến trường. Điều đó được thể hiện trong việc chia giới
tuyến quân sự tạm thời, thời hạn tổng tuyển cử, giải pháp về Lào và Campuchia.
Nguyên nhân của hạn chế đó là do ta không nắm được đầy đủ tình hình và ý đồ của
các bên, chưa có kinh nghiệm để giữ vững độc lập tự chủ trong một Hội nghị quốc tế.