CÂU 1. Phân tích bối cảnh nước ta sau cmt 8- 1945, chủ trương, biện pháp
của Đảng nhằm giữ vững chính quyền non trẻ.
Trả lời
Bối cảnh nước ta sau Cách mạng Tháng Tám
Thuận lợi:
Thế giới: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 128-129
Sau ctranh tg2, cục diện tg và khu vực có nhiều thay đôỉ lớn có lợi cho
CM VN.
Liên trở thành thành trì của CNXH, nhiều nước Đông, Trung Âu phát
triển theo chủ nghĩa xã hội với sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô.
Phong to giải phóng dân tộc các nước thuộc địa châu Á, châu Phi
khu vực Mỹ Latinh dâng cao.
Trong nước: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 128-129
1. VN trở thành nc độc lập, tự do, ndan VN từ thân p lệ, bị áp bức trở
thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
2. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đo cách mạng trong cả
nước, hình thành hthong chính quyền CM vs bộ máy thống I từ TW đến
cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích Tổ quốc, nhân dân.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là
trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
4. Quân đội quốc gia lực lượng công an, hệ thống luật pháp của chính
quyền cách mạng được xây dựng phát huy vai trò đối với cuộc đấu
tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
Khó khăn: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 129-131
Thế giới:
1. Phe đế quốc chủ nghĩa âm mưu “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong
đó có cách mạng Việt Nam. (thêm dô)
Trong nước: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 129-131
2. Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn non
trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt.
3. Hậu quả của chế độ để lại hết sức nặng nề: Nền kinh tế
xơ xác, tiêu điều.
Công nghiệp đình đốn.
Nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bá hoang.
Nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng.
Các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục.
95% dân số thất hßc, chữ, nạn đói 1944-1945 làm 2 triệu người
chết.
Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đối phó nạn đói, nạn dốt và thù trong, giặc
ngoài.
Các thế lực thù địch, phản động trong nước, như “Việt Nam quốc dân
đảng” (Việt Quốc) của Hồng Khanh, “Việt Nam cách mạng đồng chí hội”
(Việt Cách) của Nguyễn Hải Thần, Đại Việt quốc dân đảng”, “Đại Việt quốc gia
xã hội đảng”,… tìm moị cách phá hoại thành quả của Đảng ta, nhân dân ta.
Ngoài ra, dưới danh nghĩa quân Đồng minh, gần 20 vạn quân Tưởng Giới
Thạch kéo vào miền Bắc thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân Nhật; nhưng thực
chất thực hin âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bonj phản
động trong nước lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ tay sai cho chúng.
Cùng lúc, quân Anh kéo vào miền Nam cũng để tước khí quân Nhật, song thực
chất là bí mật tìm cách giúp quân Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2.
Chủ trương, biện pháp của Đảng để giữ vững chính quyền cách mạng
trong thời kỳ 1945 - 1946 .
Trước tình hình của nước nhà lúc bấy giờ Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã những đối sách vô cùng sáng suốt, linh hoạt, mềm do nhưng
cũng rất kiên quyết. Đảng đã đề ra những đường lối chiến lược sách lược đúng
đắn, vạch ra chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ
nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
Chính phủ lâm thời đã đra hai nhiệm vụ cấp bách cứu đói miền Bắc
kháng chiến ở miền Nam.
Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của
ta và địch, Chỉ thị đã chra rằng: Cuộc cách mạng Đông Dương c này vẫn
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy vẫn còn đang tiếp diễn,
nó chưa hoàn thành vì nước chưa hoàn toàn được độc lập.
Xác định kẻ thù chíh của CM là tdan Pháp xâm lược, khẩu hiệu “ Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết!”, xác định tính chất cuả CM vẫn là cuộc CM Dân tôcj
giải phóng. Đề ra 4 nhiệm vụ câp bách song vẫn rất căn bản.
Nhiệm vụ trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ trung tâm bao trùm bảo vệ
và củng cố chính quyền cách mạng.
Đảng đưa ra nhiều biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực công tác:
- Về chính trị: Đảng đẩy mạnh việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính
phủ, soạn thảo Hiến pháp tổ chức bu cử Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn
bộ máy chính quyền từ Trung ương đếnsở. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (tức Mặt trận Liên Việt) vào
tháng 5 - 1946 nhằm thu hút cả tng lớp tư sản và địa chủ yêu nước tiến bộ. Để
bảo toàn lực lượng trước sự tấn công của địch, vào tháng 11-1945, Đảng ta tuyên
bố tự giải tán mà thực chất là hoạt động bí mật, chỉ để lại một bộ phận hoạt động
công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác.
- Về kinh tế: Trước mắt Đảng tổ chức lạc quyên cứu đói. Biện pháp
cơ bản và lâu dài là tăng gia sản xuất phát động phong trào tăng gia sản xuất với
khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng", khôi phục các nhà máy, hầm má, mở hợp tác xã,
lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc. Nhờ đó, sản xuất nhanh chóng được
khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi. Đồng thời, Chính phủ ra sắc lệnh tịch
thu ruộng đất của địa chủ Việt gian chia cho dân cày nghèo: chia lại ruộng
công cho cả nam lẫn nữ; giảm 25%; giảm miễn thuế cho nhân dân các vùng
bị lụt. Phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của, hưởng ứng "Tuần lễ
vàng" trong đó, thương nhân tư sản đóng vai trò chủ chốt, xây dựng "Quỹ độc
lập". Ngân sách quốc gia tăng lên hàng chục triệu đồng với hàng trăm kilôgam
vàng, nền tài chính độc lập từng bước được xây dựng
- Về quốc phòng, an ninh: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì
kháng chiến, tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. Đảng coi trßng xây
dựng và phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng. Cuối năm 1946, quân đội
thường trực đã lên đến 8 vạn người. Việc quân sự hoá toàn n được thực hiện
rộng khắp, hầu hết các khu phố, xã, hm má đều có đội tự vệ. Đó là "bức tường
sắt của Tổ quốc" để bảo vệ thành quả cách mạng.
- Về văn hoá, xã hội: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá
mới, xoá mßi tệ nạn văn hoá nô dịch, thực hiện nền giáo dục mới, phát triển
"bình dân học vụ để diệt "giặc dốt". Chỉ sau một năm, cả nước đã 2,5 triệu
người biết đọc, biết viết.
- Về ngoại giao: Để thoát khái "vòng vây đế quốc", tnh tình thế phải
đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng thực hiện sách lược ngoại giao mềm
dẻo nhằm ngăn chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng lực
lượng cách mạng. Đối với Tàu tưởng, đối với Pháp... SGK 132 - Về tuyên truyền:
SGK 132 Những chủ trương đó là:
+ Thứ nhất: Tạm thời hòa hoãn với Trung Quốc miền Bắc để tập trung sức
chống thực dân Pháp ở miền Nam (từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946), nhưng ta
vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững thành quả cách mạng và đm bảo sự lãnh đạo
của Đảng đối với chính quyền. Sách lược ngoại giao sáng suốt này đã làm thất
bại một bước âm u chống phá cách mạng của Tưởng tay sai, giữ vững và
củng cchính quyền cách mạng, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quân dân c
nước tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, hậu thuẫn
cho cuộc đấu tranh đẩy lùi (hoặc chí ít cũng làm chậm) nguy cơ chiến tranh lan
rộng ra cả nước, đồng thời chuẩn bị tạo thế lực để đưa cách mạng phát triển
trong điều kiện mới.
+ Thứ hai: Tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về
nước (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946). Tạm thời hòa hoãn, có nhân nhượng
cần thiết với Pháp trên nguyên tắc bảo đảm quyền tchủ của dân tộc. Do vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ với đại diện Chính phủ Pháp bản
Hiệp định bộ ngày 6-3- 1946. Theo đó, Pháp công nhận nước ta một quốc
gia tự do. Việc quân Pháp vào miền Bắc cũng được quy định rõ về địa điểm, thời
gian số lượng, cụ thể Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào
thay quân Tưởng. Quân Pháp phải rút khái Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút một
phần năm. Quân đội hai bên ngừng bắn nguyên vị trí. Hai bên sẽ mở cuộc
đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.
+ Sau khi ký Hiệp định Đảng và Chính phủ kiên trì giải quyết quan hệ Việt Pháp
bằng con đường hoà bình. Tuy nhiên, do tâm xâm lược của thực dân Pháp,
cuộc đàm phán chính thức tại Phôngtennơblô không đi đến kết quả. Để tranh th
tối đa khả năng hoà bình, trong thời gian thăm chính thức nước Pháp (từ tháng 5
đến tháng 9-1946) trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã với đại diện
Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14-9 -1946. Đây nhân nhượng cuối cùng
của ta đối với Pháp. Chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đang đến gần. Với sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong giai đoạn 1945-1946, sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ chính quyền cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc của nhân dân ta
không những vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát triển thành
quả Cách mạng Tháng Tám, đặt nn móng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp, còn lại những kinh nghiệm quý cho kho tàng lý luận về chiến
tranh nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam không
những giữ vng được chính quyền cách mạng non trẻ, còn tạo được sức mạnh
căn bản, ban đầu để chủ động bước vào kháng chiến toàn quốc.

Preview text:

CÂU 1. Phân tích bối cảnh nước ta sau cmt 8- 1945, chủ trương, biện pháp
của Đảng nhằm giữ vững chính quyền non trẻ.
Trả lời
Bối cảnh nước ta sau Cách mạng Tháng Tám Thuận lợi:
Thế giới: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 128-129
Sau ctranh tg2, cục diện tg và khu vực có nhiều thay đôỉ lớn có lợi cho CM VN.
Liên Xô trở thành thành trì của CNXH, nhiều nước ở Đông, Trung Âu phát
triển theo chủ nghĩa xã hội với sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên Xô.
Phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi và
khu vực Mỹ Latinh dâng cao.
Trong nước: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 128-129
1. VN trở thành nc độc lập, tự do, ndan VN từ thân p nô lệ, bị áp bức trở
thành chủ nhân của chế độ dân chủ mới.
2. Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền lãnh đạo cách mạng trong cả
nước, hình thành hthong chính quyền CM vs bộ máy thống I từ TW đến
cơ sở, ra sức phục vụ lợi ích Tổ quốc, nhân dân.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của nền độc lập, tự do, là
trung tâm của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
4. Quân đội quốc gia và lực lượng công an, hệ thống luật pháp của chính
quyền cách mạng được xây dựng và phát huy vai trò đối với cuộc đấu
tranh chống thù trong, giặc ngoài, xây dựng chế độ mới.
Khó khăn: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 129-131 Thế giới:
1. Phe đế quốc chủ nghĩa âm mưu “chia lại hệ thống thuộc địa
thế giới”, ra sức tấn công, đàn áp phong trào cách mạng thế giới, trong
đó có cách mạng Việt Nam. (thêm dô)
Trong nước: NÊU THÊM TRONG SÁCH TRANG 129-131
2. Hệ thống chính quyền cách mạng mới được thiết lập, còn non
trẻ, thiếu thốn, yếu kém về nhiều mặt.
3. Hậu quả của chế độ cũ để lại hết sức nặng nề: Nền kinh tế xơ xác, tiêu điều.
Công nghiệp đình đốn.
Nông nghiệp bị hoang hóa, 50% ruộng đất bị bá hoang.
Nền tài chính, ngân khố kiệt quệ, kho bạc trống rỗng.
Các hủ tục lạc hậu, thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội chưa được khắc phục.
95% dân số thất hßc, mù chữ, và nạn đói 1944-1945 làm 2 triệu người chết.
Tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, đối phó nạn đói, nạn dốt và thù trong, giặc ngoài.
Các thế lực thù địch, phản động ở trong nước, như “Việt Nam quốc dân
đảng” (Việt Quốc) của Vũ Hồng Khanh, “Việt Nam cách mạng đồng chí hội”
(Việt Cách) của Nguyễn Hải Thần, “Đại Việt quốc dân đảng”, “Đại Việt quốc gia
xã hội đảng”,… tìm moị cách phá hoại thành quả của Đảng ta, nhân dân ta.
Ngoài ra, dưới danh nghĩa quân Đồng minh, gần 20 vạn quân Tưởng Giới
Thạch kéo vào miền Bắc thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân Nhật; nhưng thực
chất là thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, giúp bonj phản
động trong nước lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ tay sai cho chúng.
Cùng lúc, quân Anh kéo vào miền Nam cũng để tước vũ khí quân Nhật, song thực
chất là bí mật tìm cách giúp quân Pháp trở lại xâm chiếm Việt Nam lần thứ 2.
Chủ trương, biện pháp của Đảng để giữ vững chính quyền cách mạng
trong thời kỳ 1945 - 1946 .
Trước tình hình của nước nhà lúc bấy giờ Đảng, Nhà nước ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có những đối sách vô cùng sáng suốt, linh hoạt, mềm dẻo nhưng
cũng rất kiên quyết. Đảng đã đề ra những đường lối chiến lược và sách lược đúng
đắn, vạch ra chủ trương, biện pháp đấu tranh nhằm giữ vững chính quyền, bảo vệ
nền độc lập, tự do vừa giành được.
Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Ban Thường vụ Trung ương Đảng và
Chính phủ lâm thời đã đề ra hai nhiệm vụ cấp bách là cứu đói ở miền Bắc và
kháng chiến ở miền Nam.
Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”.
Dựa trên những nhận định về tình hình khách quan và chủ quan, về tình hình của
ta và địch, Chỉ thị đã chỉ rõ ra rằng: Cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là
cuộc cách mạng dân tộc giải phóng. Cuộc cách mạng ấy vẫn còn đang tiếp diễn,
nó chưa hoàn thành vì nước chưa hoàn toàn được độc lập.
Xác định kẻ thù chíh của CM là tdan Pháp xâm lược, khẩu hiệu “ Dân tộc
trên hết, Tổ quốc trên hết!”, xác định tính chất cuả CM vẫn là cuộc CM Dân tôcj
giải phóng. Đề ra 4 nhiệm vụ câp bách song vẫn rất căn bản.
Nhiệm vụ trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Nhiệm vụ trung tâm và bao trùm là bảo vệ
và củng cố chính quyền cách mạng.
Đảng đưa ra nhiều biện pháp cụ thể trên các lĩnh vực công tác: -
Về chính trị: Đảng đẩy mạnh việc bầu cử Quốc hội, thành lập Chính
phủ, soạn thảo Hiến pháp và tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn
bộ máy chính quyền từ Trung ương đến cơ sở. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (tức Mặt trận Liên Việt) vào
tháng 5 - 1946 nhằm thu hút cả tầng lớp tư sản và địa chủ yêu nước tiến bộ. Để
bảo toàn lực lượng trước sự tấn công của địch, vào tháng 11-1945, Đảng ta tuyên
bố tự giải tán mà thực chất là hoạt động bí mật, chỉ để lại một bộ phận hoạt động
công khai dưới danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. -
Về kinh tế: Trước mắt Đảng tổ chức lạc quyên cứu đói. Biện pháp
cơ bản và lâu dài là tăng gia sản xuất phát động phong trào tăng gia sản xuất với
khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng", khôi phục các nhà máy, hầm má, mở hợp tác xã,
lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc. Nhờ đó, sản xuất nhanh chóng được
khôi phục và phát triển, nạn đói bị đẩy lùi. Đồng thời, Chính phủ ra sắc lệnh tịch
thu ruộng đất của địa chủ và Việt gian chia cho dân cày nghèo: chia lại ruộng
công cho cả nam lẫn nữ; giảm tô 25%; giảm và miễn thuế cho nhân dân các vùng
bị lũ lụt. Phát động nhân dân tự nguyện đóng góp tiền của, hưởng ứng "Tuần lễ
vàng" trong đó, thương nhân và tư sản đóng vai trò chủ chốt, xây dựng "Quỹ độc
lập". Ngân sách quốc gia tăng lên hàng chục triệu đồng với hàng trăm kilôgam
vàng, nền tài chính độc lập từng bước được xây dựng -
Về quốc phòng, an ninh: Động viên lực lượng toàn dân kiên trì
kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài. Đảng coi trßng xây
dựng và phát triển các công cụ bạo lực của cách mạng. Cuối năm 1946, quân đội
thường trực đã lên đến 8 vạn người. Việc quân sự hoá toàn dân được thực hiện
rộng khắp, hầu hết các khu phố, xã, hầm má đều có đội tự vệ. Đó là "bức tường
sắt của Tổ quốc" để bảo vệ thành quả cách mạng. -
Về văn hoá, xã hội: Đảng vận động toàn dân xây dựng nền văn hoá
mới, xoá bá mßi tệ nạn văn hoá nô dịch, thực hiện nền giáo dục mới, phát triển
"bình dân học vụ để diệt "giặc dốt". Chỉ sau một năm, cả nước đã có 2,5 triệu
người biết đọc, biết viết. -
Về ngoại giao: Để thoát khái "vòng vây đế quốc", tránh tình thế phải
đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Đảng thực hiện sách lược ngoại giao mềm
dẻo nhằm ngăn chặn chiến tranh, kéo dài thời gian hoà hoãn để xây dựng lực
lượng cách mạng. Đối với Tàu tưởng, đối với Pháp... SGK 132 - Về tuyên truyền:
SGK 132 Những chủ trương đó là:
+ Thứ nhất: Tạm thời hòa hoãn với Trung Quốc ở miền Bắc để tập trung sức
chống thực dân Pháp ở miền Nam (từ tháng 9-1945 đến tháng 3-1946), nhưng ta
vẫn bảo đảm nguyên tắc giữ vững thành quả cách mạng và đảm bảo sự lãnh đạo
của Đảng đối với chính quyền. Sách lược ngoại giao sáng suốt này đã làm thất
bại một bước âm mưu chống phá cách mạng của Tưởng và tay sai, giữ vững và
củng cố chính quyền cách mạng, tạo thêm điều kiện thuận lợi cho quân và dân cả
nước tập trung nỗ lực vào cuộc kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, hậu thuẫn
cho cuộc đấu tranh đẩy lùi (hoặc chí ít cũng làm chậm) nguy cơ chiến tranh lan
rộng ra cả nước, đồng thời chuẩn bị tạo thế và lực để đưa cách mạng phát triển trong điều kiện mới.
+ Thứ hai: Tạm thời hòa hoãn với thực dân Pháp để đẩy nhanh quân Tưởng về
nước (từ tháng 3-1946 đến tháng 12-1946). Tạm thời hòa hoãn, có nhân nhượng
cần thiết với Pháp trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự chủ của dân tộc. Do vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ký với đại diện Chính phủ Pháp bản
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3- 1946. Theo đó, Pháp công nhận nước ta là một quốc
gia tự do. Việc quân Pháp vào miền Bắc cũng được quy định rõ về địa điểm, thời
gian và số lượng, cụ thể Chính phủ Việt Nam đồng ý để 15.000 quân Pháp vào
thay quân Tưởng. Quân Pháp phải rút khái Việt Nam sau 5 năm, mỗi năm rút một
phần năm. Quân đội hai bên ngừng bắn và ở nguyên vị trí. Hai bên sẽ mở cuộc
đàm phán tại một trong ba nơi: Hà Nội, Sài Gòn hoặc Paris.
+ Sau khi ký Hiệp định Đảng và Chính phủ kiên trì giải quyết quan hệ Việt Pháp
bằng con đường hoà bình. Tuy nhiên, do dã tâm xâm lược của thực dân Pháp,
cuộc đàm phán chính thức tại Phôngtennơblô không đi đến kết quả. Để tranh thủ
tối đa khả năng hoà bình, trong thời gian thăm chính thức nước Pháp (từ tháng 5
đến tháng 9-1946) trước khi về nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với đại diện
Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14-9 -1946. Đây là nhân nhượng cuối cùng
của ta đối với Pháp. Chúng ta không thể nhân nhượng được nữa, cuộc kháng
chiến toàn quốc chống thực dân Pháp đang đến gần. Với sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong giai đoạn 1945-1946, sự nghiệp đấu tranh
bảo vệ chính quyền cách mạng, vừa kháng chiến vừa kiến quốc của nhân dân ta
không những vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát triển thành
quả Cách mạng Tháng Tám, đặt nền móng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến
chống Pháp, mà còn lại những kinh nghiệm quý cho kho tàng lý luận về chiến
tranh nhân dân Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam không
những giữ vững được chính quyền cách mạng non trẻ, mà còn tạo được sức mạnh
căn bản, ban đầu để chủ động bước vào kháng chiến toàn quốc.