Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học | Tiểu luận Triết học Mac-Lenin | Đại học Bách Khoa Hà Nội

Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết học | Tiểu luận Triết học Mac-Lenin | Đại học Bách Khoa Hà Nội. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!

lOMoARcPSD| 25734098
lOMoARcPSD| 25734098
2
Mục lục
Lời nói đầu 3
Phần I – Các phép biện chứng trước triết học Mác 5
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại 5
1.1. Triết học Trung hoa cổ đại 5
1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại 7
1.3. Triết học Hy Lạp c đại 8
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỉ XIV – XVIII 11
3. Phép biện chứng cổ điển Đức 13
Phần II – Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít 15
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho ra đời của phép duy vật 15
biện chứng
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 16
Phần III Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển 17
của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
lOMoARcPSD| 25734098
3
Lời nói đầu
Biện chứng siêu hình hai phương pháp duy trái ngược nhau
trong triết học. Phương pháp siêu hình phương pháp xem xét sự vật trong
trạng thái đứng im, không vận động, tách rời lập tách biệt nhau. Cách
xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng trạng thái
đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hóa phương pháp này sẽ dẫn đến sai
lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng. Trong khi đó trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương pháp xem
xét những sự vật hiện tượng những phản ánh của chúng o duy, chủ
yếu là trong mi liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong
của chúng.
Trong lịch sử triết học những thời gian, duy siêu hình chiếm ưu
thế so với duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn blịch sử triết học thì
phép biện chứng luôn chiếm một vị tđặc biệt trong đời sống tinh thần
hội. Phép biện chứng một khoa học triết học, vậy cũng phát triển từ
thấp tới cao đỉnh cao phép biện chứng duy vật Mác xít của triết học
Mác Lenin. Chủ nghĩa Mác Lenin luôn đánh giá cao phép biện chứng,
nhất phép biện chứng duy vật, duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức
mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng
ra thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện
chứng của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi chọn đề tài tiểu luận về:
Lịch sử phát trển của phép biện chứng trong triết học, để nghiên cứu.
lOMoARcPSD| 25734098
4
Nội dung
Phần I – Các phép biện chứng trước triết học Mác
1. Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ mang
nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc thông
qua kinh nghiệm của bản thân. Ba trung tâm triết học lớn nhất thời bấy giờ là: Triết
học Trung Hoa cổ đại, triết học Ấn Độ cổ đại triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh
những đặc điểm chung, do đặc điểm văn hóa cũng như hoàn cảnh lch sử khác nhau
nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong học thuyết triết học mỗi trung tâm đều
những đặc điểm riêng không giống nhau.
1.1. Triết hc Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung Hoa cổ đại một nền triết học lớn của nhân loại, tới 103
trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa lúc đó hội
loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên triết học Trung Hoa cổ đại
tập trung vào giải quyết các vấn đề chính trị - hội. Những tưởng biện chứng
thời này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Một trong những học thuyết triết học mang tưởng biện chứng sâu sắc
Học thuyết Âm – Dương. Đây là một học thuyết triết học được phát triển trên cơ sở
một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Một trong những nguyên ý triết học cơ bản nhất là
nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, cũng không phải
trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống
nhất của các mặt đối lập – đó là Âm và Dương. Âm – Dương không loại trừ, không
biệt lập, mà bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Kinh dịch
viết: “Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa”, “Sinh sinh chi vi dịch”. Sự tương
lOMoARcPSD| 25734098
5
tác lẫn nhau giữa Âm Dương, các mặt đối lập, làm cho trụ biến đổi không
ngừng. Đây là quan điêm thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này cũng
cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên
lý phân đôi cái thống nhất như: Thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi
(âm dương), sau đó âm – dương lại tiến hành phân thành tứ tượng (thái âm – thiếu
âm, thái dương thiếu dương), tứ tượng lại sinh ra bát quái, từ đó bát quái sinh
ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm – Dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra
theo chu kỳ lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng Âm – Dương. Ở điểm
này thì học thuyết Âm – Dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên
cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân
bằng Âm Dương. Hơn nữa, trong học thuyết Âm Dương còn nhiều yếu tố duy
tâm thần bí như quan điểm “Thiên tôn địa ty” cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội
bắt nguồn từ trật tự của “trời đất”, họ đem trật tự hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại
dùng hình thức bịa đặt đó để chưgs minh cho sự hợp vĩnh viễn của chế độ đẳng
cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm Dương kết quả của quá trình khái quát hóa những
kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại. Mặc còn
những tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và tồn tại những quan điểm duy tâm
thần về hội, những học thuyết Âm – Dương đã bộc lộ khuynh hướng duy vật
và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận đọng,
biến hóa của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội.
lOMoARcPSD| 25734098
6
1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại
Đây hệ thống triết học sự đan xen hòa đồng giữa triết học với tôn giáo
giữa các trường phái khác nhau. Các tưởng triết học được thể hiện dưới hình
thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống, triết học Ấn Độ cổ đại có 9
trường phái, trong đó 6 trường phái chính thống 3 trường phái phi chính
thống. Trong tất cả các học thuyết triết học đó thì học thuyết triết học thể hiện trong
Phật giáo học thuyết mang tính duy vật biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền
triết học Ấn Đội cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỉ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu Thích Ca
Mầu Ni (563 – 483 TCN), khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trên thế giới không
do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố Danh (tinh thần)
và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm 4 đại (đại
địa, đại thủy, đại hỏa, đại phong). Chính nhờ tưởng nêu trên Phật giáo được
coi là tôn giáo duy nhất chống lại thứ tôn giáo thần học đương thời. Đồng thời Phật
giáo đưa ra tưởng “nhất thiết duy tâm tao”, “vô thường”, “vô ngã”. “Vô ngã”
nghĩa là “không có cái ta, cái tôi bất biến”, theo đó không có cái gì là trường tồn bất
biến, vĩnh hằng, không cái tồn tại biệt lập. Đây tư tưởng biện chứng chống
lại đạo Bàlamôn về sự tồn tại của cái tôi – átman bất biến. “Vô thường” tức là biến,
biến đây được hiểu như sự biến đổi của vạn vật theo chu kỳ: Sinh – Trụ - Dị -
Diệt (đối với sinh vật); Thành Trụ - Hoại – Không (con người). Phật giáo cũng cho
rằng sự tương tác của hai mặt đối lập Nhân và Duyên chính là động lực làm cho thế
giới vận động chứ không phải một thế lực siêu nhiên nào đó nằm ngoài con người,
thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói cách khác một vật tồn tại được là nhờ
hội đủ Nhân, Duyên.
lOMoARcPSD| 25734098
7
1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại
Mặc hãy còn nhiều tính “cắt khúc”, nhưng triết học Hy Lạp cổ đại đã có
những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong thời kỳ này thuật ngữ
“biện chứng” đã hình thành. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ vkinh tế thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về văn hóa, nghệ
thuật, mà trước hết là các thành tự trong khoa học tự nhiên như: Thiên văn học, vật
học, toán học đã làm sở thực tiễn cho sự phát triển của triết học thời kỳ này.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho sự phát
triển của triết học phương Tây sau này.
Một trong những nhà triết học điển hình có tưởng biện chứng Heraclit
(540 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác – Lenin thì Heraclit là
người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện
chứng dựa trên lập trường duy vật.
Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống
các luận điểm khoa học hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng được
đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca triết lý. tưởng biện chứng
của Heraclit được thể hiện như sau:
Một Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo Heraclit t
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hóa. Ông nói: “Chúng ta không thể tắm hai
lần trên một dòng sông nước mới không ngừng chảy trên ng”; “Ngay cả mặt
trời cũng mỗi ngày một mới”. Theo quan điểm của Heraclit tlửa chính bản
nguyên của thế giới, sở duy nhất phổ biến nhất của tất mọi sự vật, hiện
lOMoARcPSD| 25734098
8
tượng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng khác nhau
của vật chất chỉ là trạng thái chuyển a của lửa mà thôi.
Hai Heraclit nêu lên tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về “sự trao đổi của
những mặt đối lập”, về “stồn tại thống nhất của các mặt đối lập”. Ông nói: “cùng
một cáitrong chúng ta – sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này biến
đổi thành cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này…”.
Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Lenin
viết: “Phân đôi cái thống nhất và nhận thức được các bộ phận đối lập của nó là thực
chất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện
chứng Heraclit”.
Ba Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan (mà ông gọi Logos) quy định. Logos khách quan trật tự
khách quan mọi cái đang diễn ra trong trụ. Logos chủ quan từ ngữ học thuyết
của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người nào càng
tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì ng thông thái bấy nhiêu. luận
nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng duy vật khai nhưng bản
đúng.
Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thng triết học khác không có được tư tưởng
biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những tưởng biện chứng khai của Heraclit
sau này được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học
Mác xít đánh giá cao. C.Mác Ph.Ănghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị
triết học của Heraclit và coi ông đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy
lOMoARcPSD| 25734098
9
Lạp cổ đại: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản
đúng ấy, là quan niệm của các nHy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được
rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit”.
(
1
)
Trong học thuyết về nguyên tcủa mình, Đêmôcrit (460 370 TCN) đã kế
thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên tử là
vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là ở bản
thân nguyên tử, động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn “chân
không” trong nguyên tlà điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không
lý giải được nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit Arixtốt (384 – 322 TCN) ông cho rằng vận động gắn liền với
các vật thể với mọi sự
1
vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận
động là không thể bị tiêu diệt “Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động”. Arixtốt
là người đầu tiên đã hệ thống hóa các hình thức vận động thành 6 dạng:
phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí.
Tuy nhiên Arixtốt lại rơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của
mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản đúng nhưng chủ yếu mới
dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự phát thời
cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động, liên hcủa các
mặt đối lập, song chưa đi sâu vào chi tiết ca bức tranh. vậy, nó không tránh khỏi
bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại. 2. Phép biện chứng Tây Âu
thế kỷ XIV – XVIII
1
1 Ph.Ănghen: Chốống Đuyrinh, NXB S th t Hà N i, 1973, tr33
lOMoARcPSD| 25734098
10
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV dến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của tư
tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời
kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo đều gắn với
đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục lại những
tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xem
lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn bước phát triển như
tưởng về “sự phù hợp của các mặt đối lập” của Gioocdanơ Brunô (1548 1600).
Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất
nhỏ nhất – nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra
đời. Nếu không theo nguyên tắc “các mặt đối lập phù hợp với nhau” thì nhà
toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại Ph.Bêcơn
(1561 1626). Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức
bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận
động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại
vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một
hình thức của vận động, coi vận động đặc tính cố hữu của vật chất, ông người
đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tnhiên đã phát triển đi sâu mổ xẻ phân
tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó
đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất
biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng
lOMoARcPSD| 25734098
11
vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết
học.
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá trình
nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập, tả
giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình phát sinh,
phát triển ca svật, hiện tượng tbộc rõ những hạn chế. vậy nó không tránh
khỏi bphủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép
biện chứng Hêghen.
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Như Lenin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hóa duy tâm, nhưng phép biện
chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic học và
luận nhận thức. Trong các nền triết học trước C.Mác thì triết học cổ điển Đức có
trình độ khái quát a trừu tượng hóa cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic.
Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học khác. Nền triết học cổ
điển Đức bắt đầu t Kantơ, đạt đỉnh cao Hêghen sau đó suy tàn triết học
Phoiơbắc.
Kantơ (1724 1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức.
Ông cho rằng chỉ khi nhận thức trình độ tính thì mới mâu thuẫn chưa thấy
được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. Mâu thuẫn chưa phải là
mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa sự thống nhất chuyển
hóa lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong vấn đề này Kantơ đã tiến gần
đến phép biện chứng.
Hêghen (1770 – 1831) nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là
một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng
lOMoARcPSD| 25734098
12
rất mạnh đến tưởng của nước Đức cả Châu Âu đương thời, triết học của ông
được gọi “tinh thần Phổ”. Phép biện chứng của Hêghen phép biện chứng duy
tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển ca các khái niệm được ông
đồng nhất với biện chứng duy vật. Ông viết: “phép biện chứng nói chung là nguyên
tắc của mọi vận động, mọi sự sống mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái
biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính”
(
2
)
.
Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học của Hêghen là: “Tất cả cái gì là hiện
thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều tồn tại”
(
3
)
Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, hội duy một cách biện chứng,
nghĩa trong sự vận động, biến đổi phát triển không ngừng. Trong logic học,
Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng chất, vật chất - vận
động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến đổi chất, quy luật
phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phạm trù của tư
duy, của khái niệm.
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển của hội sự đi
lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất giữa
tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêgen đã có công xây
dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật phép biện chứng như là những công c
của tư duy biện chứng.
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện
chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện ở:
2
Triếốt h c dành cho cao h c và nghiến c u sinh khống thuọ ộc chuyến ngành triếốt h c,
NXB Chính tr quốốc gia, ọ ị 1977, tâp 1, tr331
3
2 C.Mác – Ph.Ănghen, Tuy n t p, NXB S th t Hà N i, 1984, trể 361
lOMoARcPSD| 25734098
13
Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do
đó C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: “Phép biện chứng đi lộn đầu
xuống đất”. vậy, cần phải đặt đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực,
nghĩa là trên quan điể duy vật.
II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xit
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa sản sản đã cung cấp thực
tiễn cho C.Mác Ph.Ănghen để đúc kết kiểm nghiệm luận về phép biện chứng.
Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỉ XIX) đi vào
hệ thống hóa i liệu khoa học thực nghiệm. Đây hai tiền đề thực tiễn rất quan
trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp vốn của phép biện chứng
vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên hội duy một cách thần thánh
hóa tư duy, nói cách khác ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm
Hêghen.
Phép biện chứng duy vật sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật phép biện
chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình (Triết
học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy
vật không chỉ duy vật trong tự nhiên đi đến cùng trong lĩnh vực hội, do đó các
ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
lOMoARcPSD| 25734098
14
2. Nội dung của phép biện chứng duy tâm
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan cái trước, còn biện chứng chủ quan
(tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là
sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy
tâm của Hêghen “đứng trên hai chân của mình” tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính “khoa học về mối liên hệ phổ biến trong
tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy”. Theo Lenin thì phép biện chứng là “học
thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc toàn diện nhất, học thuyết về tính tương
đối của sự vật”.
Ba mối liên hchủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn
tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn
có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hóa vận động và phát triển. Các mối
liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ thống, nguyên nhân
– kết quả, lượng – chất) và các quy luật (quy luật lượng – chất, quy luật đấu tranh và
thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định ca phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của đbảo vệ
lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền
triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của
một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác một hệ thống sáng tạo, một hệ thống mở, không ngừng được
bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn phát triển. Cùng với chính
sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
lOMoARcPSD| 25734098
15
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác Ph.Ănghen luận
chứng trong tác phẩm: “Biện chứng của tự nhiên” (1873 – 1883), “Chống Đuyrinh”
(186 1878), “Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”
một số tác phẩm do V.I.Lenin viết như: “Chủ nghĩa duy vật chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” (1908 – 1909), “Bút ký triết học”.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác xit kết quả của sự chín muồi về mặt
lịch sử của nhận thức khoa học của thực tiễn hội. Sự ra đời của đáp ứng nhu
cầu về mặt luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của
phép biện chứng gắn liền với tên tuổi ca V.I.Lenin đã vận dụng thành công phép
biện chứng Mác – xit trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm
1917. Sự phát triển của V.I.Lenin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận
cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách
cách mạng nhất.
III. Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của
nền kinh tế nước ta hiện nay
Phép biện chứng một phương pháp nghiên cứu xem xét các svật hiện
tượng trong mối liên hệ giữa các mặt giữa các svật hiện tượng đó trong sự
đứng im tương đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của
CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá
độ lâu dài, thể nói mâu thuẫn bản của thời knày mâu thuẫn giữa xu
hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn bản trên đây của các mạng nước ta quá
trình vừa phải thừa kế những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển
lOMoARcPSD| 25734098
16
lực lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính
của chủ nghĩa tư bản. Con đường quá đ lên CNXH ở nước ra đòi hỏi phải chủ động
và tgiác phát triển sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi
lên CNXH, nhất là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự
thống nhất của các mặt đối lập thông qua biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn
CNTB, không thể cho rằng cái gì đó trong CNTB không thể có trong CNXH,
càng không thể áp dụng nguyên vẹn hình CNTB ở nước khác để xây dựng nước
ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng
thành công CNXH, chúng ta phải lấy luận của C.Mác Lenin làm kim chỉ nam
cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN,
TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại gặp
phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế
phát triển hội. Nền kinh tế thị trường nền kinh tế hàng hóa hoạt động theo
chế thị trường. Cơ chế thị trườngcơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt
động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là
phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng
nhu cầu ngày càng phong phú của hội. Tuy nhiên chế thị trường đồng thời kích
thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh
tế XHCN là xây dựng một Nhà nước “của dân, do dân, dân”, xây dựng một xã hi
“công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập
lOMoARcPSD| 25734098
17
với chủ nghĩa hội, thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn khách quan,
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xây dựng”
(
4
)
. Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước
cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần
kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển
kinh tế. Nhà nước thể sử dụng các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo
hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển hội. Đây chính là công cụ, phương tiện
quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển theo định hướng XHCN.
Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của pháp biện chứng trong triết học, có
thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ
phép biện chứng tự phá, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của
triết học cổ điển Đức đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác xít thì
phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khóa giúp con người nhận thức và
cải tạo thế giới để phục v nhu cầu chính bản thân con người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ
thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản
của phép biện chứng duy vật một yêu cầu bức thiết để đổi mới duy, định
hướng tư tưởng là mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống
4
1 Văn ki n Đ i h i lâần th VIII Đ ng c ng s n Vi t Nam, NXB Chính tr quốốc gia, 1997, trệ
25
lOMoARcPSD| 25734098
18
lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách
mạng nước ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận thức
tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong triết học là
một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi nhiều công sức của các nhà triết học
với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể
đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt là phép biện chứng duy
vật Mác – xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp khoa học của các thầy cô giáo và các
bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học. NXB Chính trị quốc gia 1997.
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1,2,3), Viện triết học Liên Xô (cũ).
| 1/18

Preview text:

lOMoAR cPSD| 25734098 lOMoAR cPSD| 25734098 Mục lục
Lời nói đầu 3
Phần I – Các phép biện chứng trước triết học Mác 5
1. Phép biện chứng tự phát ngây thơ thời cổ đại 5
1.1. Triết học Trung hoa cổ đại 5
1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại 7
1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại 8
2. Phép biện chứng Tây Âu thế kỉ XIV – XVIII 11
3. Phép biện chứng cổ điển Đức 13
Phần II – Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xít 15
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho ra đời của phép duy vật 15 biện chứng
2. Nội dung chính của phép biện chứng duy vật 16
Phần III – Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển 17
của nền kinh tế nước ta hiện nay. Kết luận 20 Tài liệu tham khảo 21 2 lOMoAR cPSD| 25734098 Lời nói đầu
Biện chứng và siêu hình là hai phương pháp tư duy trái ngược nhau
trong triết học. Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong
trạng thái đứng im, không vận động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách
xem xét cho chúng ta nhìn thấy sự tồn tại của sự vật hiện tượng ở trạng thái
đứng im tương đối, nhưng nếu tuyệt đối hóa phương pháp này sẽ dẫn đến sai
lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng. Trong khi đó trái lại, phương pháp biện chứng là: là phương pháp xem
xét những sự vật hiện tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ
yếu là trong mối liên hệ qua lại của chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.
Trong lịch sử triết học có những thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu
thế so với tư duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học thì
phép biện chứng luôn chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã
hội. Phép biện chứng là một khoa học triết học, vì vậy nó cũng phát triển từ
thấp tới cao mà đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác – xít của triết học
Mác – Lenin. Chủ nghĩa Mác – Lenin luôn đánh giá cao phép biện chứng,
nhất là phép biện chứng duy vật, tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức
mạnh và khả năng của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng
ra thấy rõ hơn bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện
chứng của nhân loại. Xuất phát từ mục đích đó, tôi chọn đề tài tiểu luận về:
Lịch sử phát trển của phép biện chứng trong triết học, để nghiên cứu. 3 lOMoAR cPSD| 25734098 Nội dung
Phần I – Các phép biện chứng trước triết học Mác
1. Phép biện chứng thời cổ đại
Phép biện chứng thời cổ đại là phép biện chứng tự phát, ngây thơ và mang
nặng tính trực quan được hình thành trên cơ sở quan sát tự nhiên, xã hội hoặc thông
qua kinh nghiệm của bản thân. Ba trung tâm triết học lớn nhất thời bấy giờ là: Triết
học Trung Hoa cổ đại, triết học Ấn Độ cổ đại và triết học Hy Lạp cổ đại. Bên cạnh
những đặc điểm chung, do đặc điểm văn hóa cũng như hoàn cảnh lịch sử khác nhau
nên sự thể hiện tư tưởng biện chứng trong học thuyết triết học mỗi trung tâm đều có
những đặc điểm riêng không giống nhau.
1.1. Triết học Trung Hoa cổ đại
Triết học Trung Hoa cổ đại là một nền triết học lớn của nhân loại, có tới 103
trường phái triết học. Do đặc điểm của bối cảnh lịch sử Trung Hoa lúc đó là xã hội
loạn lạc, đời sống nhân dân cơ cực, đạo đức suy đồi nên triết học Trung Hoa cổ đại
tập trung vào giải quyết các vấn đề chính trị - xã hội. Những tư tưởng biện chứng
thời này chỉ thể hiện khi các nhà triết học kiến giải những vấn đề về vũ trụ quan.
Một trong những học thuyết triết học mang tư tưởng biện chứng sâu sắc là
Học thuyết Âm – Dương. Đây là một học thuyết triết học được phát triển trên cơ sở
một bộ sách có tên là Kinh Dịch. Một trong những nguyên ý triết học cơ bản nhất là
nhìn nhận mọi tồn tại không phải trong tính đồng nhất tuyệt đối, mà cũng không phải
trong sự loại trừ biệt lập không thể tương đồng. Trái lại tất cả đều bao hàm sự thống
nhất của các mặt đối lập – đó là Âm và Dương. Âm – Dương không loại trừ, không
biệt lập, mà bao hàm nhau, liên hệ tương tác lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Kinh dịch
viết: “Cương nhu tương thôi nhi sinh biến hóa”, “Sinh sinh chi vi dịch”. Sự tương 4 lOMoAR cPSD| 25734098
tác lẫn nhau giữa Âm và Dương, các mặt đối lập, làm cho vũ trụ biến đổi không
ngừng. Đây là quan điêm thể hiện tư tưởng biện chứng sâu sắc. Học thuyết này cũng
cho rằng chu trình vận động, biến dịch của vạn vật trong vũ trụ diễn ra theo nguyên
lý phân đôi cái thống nhất như: Thái cực (thể thống nhất) phân đôi thành lưỡng nghi
(âm – dương), sau đó âm – dương lại tiến hành phân thành tứ tượng (thái âm – thiếu
âm, thái dương – thiếu dương), tứ tượng lại sinh ra bát quái, và từ đó bát quái sinh ra vạn vật.
Tuy nhiên, học thuyết Âm – Dương cho rằng sự vận động của vạn vật diễn ra
theo chu kỳ lặp lại và được đảm bảo bởi nguyên tắc cân bằng Âm – Dương. Ở điểm
này thì học thuyết Âm – Dương phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên
mà cho rằng sự vận động của các hiện tượng chỉ dừng lại khi đạt được trạng thái cân
bằng Âm – Dương. Hơn nữa, trong học thuyết Âm – Dương còn nhiều yếu tố duy
tâm thần bí như quan điểm “Thiên tôn địa ty” cho rằng trật tự sang hèn trong xã hội
bắt nguồn từ trật tự của “trời đất”, họ đem trật tự xã hội gán cho giới tự nhiên, rồi lại
dùng hình thức bịa đặt đó để chưgs minh cho sự hợp lý vĩnh viễn của chế độ đẳng cấp xã hội.
Tóm lại, học thuyết Âm – Dương là kết quả của quá trình khái quát hóa những
kinh nghiệm thực tiễn lâu dài của nhân dân Trung Quốc thời cổ đại. Mặc dù còn
những tính chất trực quan, chất phác, ngây thơ và tồn tại những quan điểm duy tâm
thần bí về xã hội, những học thuyết Âm – Dương đã bộc lộ rõ khuynh hướng duy vật
và tư tưởng biện chứng tự phát của mình trong quan điểm về cơ cấu và sự vận đọng,
biến hóa của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội. 5 lOMoAR cPSD| 25734098
1.2. Triết học Ấn Độ cổ đại
Đây là hệ thống triết học có sự đan xen hòa đồng giữa triết học với tôn giáo
và giữa các trường phái khác nhau. Các tư tưởng triết học được thể hiện dưới hình
thức là một tôn giáo. Theo cách phân chia truyền thống, triết học Ấn Độ cổ đại có 9
trường phái, trong đó có 6 trường phái là chính thống và 3 trường phái phi chính
thống. Trong tất cả các học thuyết triết học đó thì học thuyết triết học thể hiện trong
Phật giáo là học thuyết mang tính duy vật và biện chứng sâu sắc tiêu biểu của nền
triết học Ấn Đội cổ đại.
Phật giáo hình thành từ thế kỉ VI TCN do Tất Đạt Đa, tên hiệu là Thích Ca
Mầu Ni (563 – 483 TCN), khai sáng. Phật giáo cho rằng vạn vật trên thế giới không
do một đấng thần linh nào đó tạo ra mà được tạo ra bởi hai yếu tố là Danh (tinh thần)
và Sắc (vật chất). Trong đó Danh bao gồm tâm và thức, còn Sắc bao gồm 4 đại (đại
địa, đại thủy, đại hỏa, đại phong). Chính nhờ tư tưởng nêu trên mà Phật giáo được
coi là tôn giáo duy nhất chống lại thứ tôn giáo thần học đương thời. Đồng thời Phật
giáo đưa ra tư tưởng “nhất thiết duy tâm tao”, “vô thường”, “vô ngã”. “Vô ngã”
nghĩa là “không có cái ta, cái tôi bất biến”, theo đó không có cái gì là trường tồn bất
biến, là vĩnh hằng, không có cái gì tồn tại biệt lập. Đây là tư tưởng biện chứng chống
lại đạo Bàlamôn về sự tồn tại của cái tôi – átman bất biến. “Vô thường” tức là biến,
biến ở đây được hiểu như là sự biến đổi của vạn vật theo chu kỳ: Sinh – Trụ - Dị -
Diệt (đối với sinh vật); Thành – Trụ - Hoại – Không (con người). Phật giáo cũng cho
rằng sự tương tác của hai mặt đối lập Nhân và Duyên chính là động lực làm cho thế
giới vận động chứ không phải một thế lực siêu nhiên nào đó nằm ngoài con người,
thế giới là vòng nhân quả vô cùng vô tận. Nói cách khác một vật tồn tại được là nhờ hội đủ Nhân, Duyên. 6 lOMoAR cPSD| 25734098
1.3. Triết học Hy Lạp cổ đại
Mặc dù hãy còn nhiều tính “cắt khúc”, nhưng triết học Hy Lạp cổ đại đã có
những phát hiện mới đối với phép biện chứng. Chính trong thời kỳ này thuật ngữ
“biện chứng” đã hình thành. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế thời kỳ
chiếm hữu nô lệ, Hy Lạp cổ đại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về văn hóa, nghệ
thuật, mà trước hết là các thành tự trong khoa học tự nhiên như: Thiên văn học, vật
lý học, toán học đã làm cơ sở thực tiễn cho sự phát triển của triết học thời kỳ này.
Triết học Hy Lạp cổ đại đã phát triển hết sức rực rỡ, trở thành nền tảng cho sự phát
triển của triết học phương Tây sau này.
Một trong những nhà triết học điển hình có tư tưởng biện chứng là Heraclit
(540 – 480 TCN). Theo đánh giá của các nhà kinh điển Mác – Lenin thì Heraclit là
người sáng lập ra phép biện chứng. Ông cũng là người đầu tiên xây dựng phép biện
chứng dựa trên lập trường duy vật.
Phép biện chứng của Heraclit chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống
các luận điểm khoa học mà hầu như các luận điểm cốt lõi của phép biện chứng được
đề cập dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Tư tưởng biện chứng
của Heraclit được thể hiện như sau:
Một là Quan niệm về sự vận động vĩnh cửu của vật chất. Theo Heraclit thì
không có sự vật, hiện tượng nào của thế giới là đứng im tuyệt đối, mà trái lại, tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hóa. Ông nói: “Chúng ta không thể tắm hai
lần trên một dòng sông vì nước mới không ngừng chảy trên sông”; “Ngay cả mặt
trời cũng mỗi ngày một mới”. Theo quan điểm của Heraclit thì lửa chính là bản
nguyên của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến nhất của tất cá mọi sự vật, hiện 7 lOMoAR cPSD| 25734098
tượng. Đồng thời lửa cũng chính là gốc của mọi vận động, tất cả các dạng khác nhau
của vật chất chỉ là trạng thái chuyển hóa của lửa mà thôi.
Hai là Heraclit nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn
trong mọi sự vật, hiện tượng. Điều đó thể hiện trong những phỏng đoán về vai trò
của những mặt đối lập trong sự biến đổi phổ biến của tự nhiên về “sự trao đổi của
những mặt đối lập”, về “sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập”. Ông nói: “cùng
một cái ở trong chúng ta – sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già. Vì rằng cái này biến
đổi thành cái kia; và ngược lại, cái kia mà biến đổi thành cái này…”.
Heraclit đã phỏng đoán về sự đấu tranh và thống nhất của những mặt đối lập. Lenin
viết: “Phân đôi cái thống nhất và nhận thức được các bộ phận đối lập của nó là thực
chất của phép biện chứng. Điều này chúng ta đã thấy xuất hiện ngay từ nhà biện chứng Heraclit”.
Ba là Theo Heraclit thì sự vận động phát triển không ngừng của thế giới do
quy luật khách quan (mà ông gọi là Logos) quy định. Logos khách quan là trật tự
khách quan là mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Logos chủ quan là từ ngữ học thuyết
của con người. Logos chủ quan phải phù hợp với logos khách quan. Người nào càng
tiếp cận được logos khách quan bao nhiêu thì càng thông thái bấy nhiêu. Lý luận
nhận thức của Heraclit mang tính biện chứng và duy vật sơ khai nhưng cơ bản là đúng.
Ở thời cổ đại, xét trong nhiều hệ thống triết học khác không có được tư tưởng
biện chứng sâu sắc như vậy. Chính là những tư tưởng biện chứng sơ khai của Heraclit
sau này được các nhà biện chứng cổ điển Đức kế thừa và các nhà sáng lập triết học
Mác xít đánh giá cao. C.Mác và Ph.Ănghen đã đánh giá một cách đúng đắn giá trị
triết học của Heraclit và coi ông là đại biểu xuất sắc nhất của phép biện chứng Hy 8 lOMoAR cPSD| 25734098
Lạp cổ đại: “Quan niệm về thế giới một cách nguyên thủy, ngây thơ nhưng căn bản
là đúng ấy, là quan niệm của các nhà Hy Lạp thời cổ và người đầu tiên diễn đạt được
rõ ràng quan niệm ấy là Heraclit”. (1)
Trong học thuyết về nguyên tử của mình, Đêmôcrit (460 – 370 TCN) đã kế
thừa quan điểm của Heraclit về vận động. Ông cho rằng vận động của nguyên tử là
vĩnh cửu và ông đã cố gắng giải thích nguyên nhân vận động của nguyên tử là ở bản
thân nguyên tử, ở động lực tự thân. Ông cho rằng còn khoảng trống hay còn “chân
không” trong nguyên tử là điều kiện vận động của nó. Tuy nhiên Đêmôcrit đã không
lý giải được nguồn gốc của vận động.
Sau Đêmôcrit là Arixtốt (384 – 322 TCN) ông cho rằng vận động gắn liền với
các vật thể với mọi sự 1vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Ông cũng khẳng định vận
động là không thể bị tiêu diệt “Đã có vận động và mãi mãi sẽ có vận động”. Arixtốt
là người đầu tiên đã hệ thống hóa các hình thức vận động thành 6 dạng:
phát sinh, tiêu diệt, thay đổi trạng thái, tăng, giảm, di chuyển vị trí.
Tuy nhiên Arixtốt lại rơi vào duy tâm vì cho rằng thần thánh là nguồn gốc của mọi vận động.
Tóm lại, phép biện chứng thời cổ đại về căn bản là đúng nhưng chủ yếu mới
dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài. Phép biện chứng tự phát thời
cổ đại đã nhìn thấy bức tranh chung của thế giới trong sự tác động, liên hệ của các
mặt đối lập, song chưa đi sâu vào chi tiết của bức tranh. Vì vậy, nó không tránh khỏi
bị phủ định bởi phép siêu hình trong thời kỳ cận đại. 2. Phép biện chứng Tây Âu
thế kỷ XIV – XVIII
1 1 Ph.Ănghen: Chốống Đuyrinh, NXB S th t Hà N i, 1973, tr33 ự ậ ộ 9 lOMoAR cPSD| 25734098
Suốt trong 4 thế kỷ (từ thế kỷ XIV dến thế kỷ XVIII), sự trưởng thành của tư
tưởng biện chứng Tây Âu mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Phép biện chứng trong thời
kỳ này phát triển trong thời kỳ thống trị của tư duy siêu hình.
Sau đêm trường Trung cổ, triết học là thứ triết học kinh viện giáo đều gắn với
đạo Thiên chúa. Đến thời kỳ Phục hưng, triết học thời kỳ này đã khôi phục lại những
tư tưởng duy vật cổ đại nhưng vẫn còn mang tính phiếm thần, yếu tố duy vật xem
lẫn duy tâm. Tuy nhiên phép biện chứng thời kỳ này vẫn có bước phát triển như tư
tưởng về “sự phù hợp của các mặt đối lập” của Gioocdanơ Brunô (1548 – 1600).
Theo G.Brunô mọi cái đều liên hệ với nhau và đều vận động, kể từ các hạt vật chất
nhỏ nhất – nguyên tử đến vô số thế giới của vũ trụ vô tận, cái này tiêu diệt cái kia ra
đời. Nếu không theo nguyên tắc “các mặt đối lập phù hợp với nhau” thì dù là nhà
toán học, nhà vật lý, cả nhà triết học cũng không làm việc được.
Một trong những đại biểu của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là Ph.Bêcơn
(1561 – 1626). Ph.Bêcơn khẳng định vật chất không tách rời vận động, nhận thức
bản chất của sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ông đã tiến hành phân vận
động thành 19 loại. Tuy nhiên tính chất siêu hình của ông thể hiện: Ông quy mọi loại
vận động về vận động cơ học. Song cống hiến của ông là ở chỗ coi đứng yên là một
hình thức của vận động, coi vận động là đặc tính cố hữu của vật chất, ông là người
đầu tiên nhận thấy tính bảo toàn vật chất của thế giới.
Trong thời kỳ cận đại, khoa học tự nhiên đã phát triển và đi sâu mổ xẻ phân
tích giới tự nhiên thành những bộ phận nhỏ để nghiên cứu. Những phương pháp đó
đã tạo ra thói quen nghiên cứu xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời và bất
biến. Từ khi Ph.Bêcơn và Lốccơ đem phương pháp trong khoa học tự nhiên áp dụng 10 lOMoAR cPSD| 25734098
vào triết học thì phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong triết học.
Phương pháp siêu hình đó đóng một vai trò tích cực nhất định trong quá trình
nhận thức giới tự nhiên, phương pháp đó chỉ thích ứng với trình độ sưu tập, mô tả
giới tự nhiên. Do đó khi khoa học chuyển sang nghiên cứu các quá trình phát sinh,
phát triển của sự vật, hiện tượng thì nó bộc rõ những hạn chế. Vì vậy nó không tránh
khỏi bị phủ định bởi phép biện chứng của triết học cổ điển Đức với đỉnh cao là phép biện chứng Hêghen.
3. Phép biện chứng cổ điển Đức
Như Lenin đã từng đánh giá: Dù có sự thần bí hóa duy tâm, nhưng phép biện
chứng cổ điển Đức đã đặt ra sự thống nhất giữa phép biện chứng và logic học và lý
luận nhận thức. Trong các nền triết học trước C.Mác thì triết học cổ điển Đức có
trình độ khái quát hóa và trừu tượng hóa cao với kết cấu hệ thống chặt chẽ, logic.
Đây là tiến bộ của nền triết học Đức so với các nền triết học khác. Nền triết học cổ
điển Đức bắt đầu từ Kantơ, đạt đỉnh cao ở Hêghen sau đó suy tàn ở triết học Phoiơbắc.
Kantơ (1724 – 1804) là người sáng lập ra trường phái triết học cổ điển Đức.
Ông cho rằng chỉ khi nhận thức ở trình độ lý tính thì mới có mâu thuẫn mà chưa thấy
được rằng mâu thuẫn là vốn có trong hiện thực khách quan. Mâu thuẫn chưa phải là
mâu thuẫn biện chứng giữa chính đề và phản đề, chưa có sự thống nhất và chuyển
hóa lẫn nhau. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong vấn đề này Kantơ đã tiến gần đến phép biện chứng.
Hêghen (1770 – 1831) là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là
một tiền đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng 11 lOMoAR cPSD| 25734098
rất mạnh đến tư tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông
được gọi là “tinh thần Phổ”. Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy
tâm tức là phép biện chứng về sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông
đồng nhất với biện chứng duy vật. Ông viết: “phép biện chứng nói chung là nguyên
tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Cái
biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính”(2).
Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học của Hêghen là: “Tất cả cái gì là hiện
thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều tồn tại”(3)
Hêghen là người đã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và là người
đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và tư duy một cách biện chứng, có
nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng. Trong logic học,
Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù triết học như lượng – chất, vật chất - vận
động mà còn đề cập đến các quy luật khác như lượng đổi dẫn đến đổi chất, quy luật
phủ định biện chứng. Nhưng tất cả chỉ là những quy luật vận động, phạm trù của tư duy, của khái niệm.
Khi nghiên cứu xã hội, Hêghen khẳng định sự phát triển của xã hội là sự đi
lên. Quá trình phát triển của lịch sử có tính kế thừa. Lịch sử là tính thống nhất giữa
tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người. Hêgen đã có công xây
dựng một hệ thống các phạm trù và quy luật phép biện chứng như là những công cụ của tư duy biện chứng.
Trong khi hệ thống triết học của Hêghen chứa đựng những tư tưởng biện
chứng sâu sắc thì cách trình bày của ông lại mang tính duy tâm bảo thủ, thể hiện ở:
2 Triếốt h c dành cho cao h c và nghiến c u sinh khống thuọ ọ ứ
ộc chuyến ngành triếốt h c,
NXB Chính tr quốốc gia, ọ ị 1977, tâp 1, tr331
3 2 C.Mác – Ph.Ănghen, Tuy n t p, NXB S th t Hà N i, 1984, trể ậ ự ậ ộ 361 12 lOMoAR cPSD| 25734098
Sự vận động của xã hội là do sự vận động của tư duy (ý niệm tuyệt đối) sinh ra. Do
đó mà C.Mác gọi phép biện chứng của Hêghen là: “Phép biện chứng đi lộn đầu
xuống đất”. Vì vậy, cần phải đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực,
nghĩa là trên quan điể duy vật.
II. Phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng Mác – xit
1. Điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy vật ra đời trong điều kiện phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đang phát triển, cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô sản và tư sản đã cung cấp thực
tiễn cho C.Mác và Ph.Ănghen để đúc kết và kiểm nghiệm lý luận về phép biện chứng.
Dựa trên cơ sở thành tựu khoa học tự nhiên (cuối thế kỷ XIII, đầu thế kỉ XIX) đi vào
hệ thống hóa tài liệu khoa học thực nghiệm. Đây là hai tiền đề thực tiễn rất quan
trọng cho sự ra đời của phép biện chứng duy vật.
Tiền đề lý luận của phép biện chứng duy vật chính là phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. Các ông đã tách ra cái hạt nhân hợp lý vốn có của nó là phép biện chứng
và vứt bỏ cách giải thích hiện tượng tự nhiên xã hội và tư duy một cách thần thánh
hóa tư duy, nói cách khác ông đã cải tạo một cách duy vật phép biện chứng duy tâm Hêghen.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, trong khi đó các học thuyết triết học trước đây duy vật nhưng siêu hình (Triết
học cận đại) hoặc biện chứng nhưng duy tâm (cổ điển Đức). Phép biện chứng duy
vật không chỉ duy vật trong tự nhiên mà đi đến cùng trong lĩnh vực xã hội, do đó các
ông đã xây dựng sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. 13 lOMoAR cPSD| 25734098
2. Nội dung của phép biện chứng duy tâm
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan
(tư duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là
sự khác nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm
của Hêghen. C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy
tâm của Hêghen “đứng trên hai chân của mình” tức là đứng trên nền tảng duy vật.
Theo C.Mác thì phép biện chứng chính là “khoa học về mối liên hệ phổ biến trong
tự nhiên xã hội và tự nhiên, trong tư duy”. Theo Lenin thì phép biện chứng là “học
thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính tương đối của sự vật”.
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn
tại và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn
có sự giống nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hóa vận động và phát triển. Các mối
liên hệ được khái quát thành các cặp phạm trù như (phần tử - hệ thống, nguyên nhân
– kết quả, lượng – chất) và các quy luật (quy luật lượng – chất, quy luật đấu tranh và
thống nhất của các mặt đối lập, quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ
lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền
triết học trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của
một nhóm người thiểu số trong xã hội.
Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không ngừng được
bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với chính
sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động. 14 lOMoAR cPSD| 25734098
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận
chứng trong tác phẩm: “Biện chứng của tự nhiên” (1873 – 1883), “Chống Đuyrinh”
(186 – 1878), “Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” và
một số tác phẩm do V.I.Lenin viết như: “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán” (1908 – 1909), “Bút ký triết học”.
Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác – xit là kết quả của sự chín muồi về mặt
lịch sử của nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu
cầu về mặt lý luận của giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của
phép biện chứng gắn liền với tên tuổi của V.I.Lenin đã vận dụng thành công phép
biện chứng Mác – xit trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm
1917. Sự phát triển của V.I.Lenin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong lý luận
cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách mạng nhất.
III. Phép biện chứng duy vật trong sự vận động và phát triển của
nền kinh tế nước ta hiện nay
Phép biện chứng là một phương pháp nghiên cứu xem xét các sự vật hiện
tượng trong mối liên hệ giữa các mặt và giữa các sự vật hiện tượng đó và trong sự đứng im tương đối.
Việt Nam quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) bỏ qua sự phát triển của
CNTB, xuất phát từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển. Đó là con đường quá
độ lâu dài, mà có thể nói mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ này là mâu thuẫn giữa xu
hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản với xu hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội. Quá
trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản trên đây của các mạng nước ta là quá
trình vừa phải thừa kế những mặt cần thiết hợp lý của chủ nghĩa tư bản để phát triển 15 lOMoAR cPSD| 25734098
lực lượng sản xuất lại vừa phải đấu tranh loại bỏ những mặt tiêu cực, mất nhân tính
của chủ nghĩa tư bản. Con đường quá độ lên CNXH ở nước ra đòi hỏi phải chủ động
và tự giác phát triển và sử dụng CNTB làm khâu trung gian, làm phương tiện để đi
lên CNXH, nhất là hướng tư bản đi vào con đường tư bản Nhà nước. Đó chính là sự
thống nhất của các mặt đối lập thông qua biện pháp trung gian và quá độ.
Trong công cuộc xây dựng CNXH, chúng ta không thể phủ định sạch trơn
CNTB, không thể cho rằng cái gì đó có trong CNTB là không thể có trong CNXH,
càng không thể áp dụng nguyên vẹn mô hình CNTB ở nước khác để xây dựng nước
ta. Chúng ta phải nhận thức được tính tất yếu của sự phát triển. Do đó, để xây dựng
thành công CNXH, chúng ta phải lấy lý luận của C.Mác – Lenin làm kim chỉ nam
cho hành động, đồng thời phải học hỏi, nghiên cứu tình hình thực tế của các XHCN,
TBCN trên thế giới để áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường, chúng ta lại gặp
phải một mâu thuẫn cần phải giải quyết đó là: Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và
phát triển xã hội. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa hoạt động theo cơ
chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của thị trường thông qua hoạt
động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế thị trường có ưu điểm ở chỗ là
phát huy được tính năng động sáng tạo của mọi chủ thể kinh tế trong việc đáp ứng
nhu cầu ngày càng phong phú của xã hội. Tuy nhiên cơ chế thị trường đồng thời kích
thích đầu cơ, làm sai lệch các quan hệ thị trường, gây khủng hoảng kinh tế, thất
nghiệp, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội. Một trong những đặc điểm của nền kinh
tế XHCN là xây dựng một Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, xây dựng một xã hội
“công bằng, dân chủ, văn minh”. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng
cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã khẳng định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập 16 lOMoAR cPSD| 25734098
với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại tồn khách quan,
cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngay cả khi chủ nghĩa xã hội
đã được xây dựng”(4). Để giữ vững bản chất CNXH trong phát triển kinh tế Nhà nước
cần sử dụng các công cụ của mình để tiến hành điều tiết lợi ích giữa các thành phần
kinh tế, đảm bảo mọi thành viên trong xã hội được hưởng thành quả trong phát triển
kinh tế. Nhà nước có thể sử dụng các công cụ như thuế thu nhập cao, trợ cấp, bảo
hiểm để tiến hành phân phối lại thu nhập xã hội; xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế đi liền với xây dựng kế hoạch phát triển xã hội. Đây chính là công cụ, phương tiện
quan trọng để tác động giải quyết mâu thuẫn trên làm cho nền kinh tế Việt Nam phát
triển theo định hướng XHCN. Kết luận
Bằng việc trình bày lịch sử phát triển của pháp biện chứng trong triết học, có
thể khẳng định: Xuyên suốt chiều dài lịch sử nhiều thế kỷ hình thành và phát triển từ
phép biện chứng tự phá, thô sơ cổ đại cho đến phép biện chứng duy tâm Hêghen của
triết học cổ điển Đức và đạt đến đỉnh cao là phép biện chứng duy vật Mác – xít thì
phép biện chứng luôn là công cụ sắc bén, là chìa khóa giúp con người nhận thức và
cải tạo thế giới để phục vụ nhu cầu chính bản thân con người.
Hiện nay, đất nước ta đang tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới, tiến hành
công nghiệp hóa – hiện đại hóa, thì việc nghiên cứu phép biện chứng một cách có hệ
thống, nhất là việc nắm vững các nguyên tắc và vận dụng những nguyên tắc cơ bản
của phép biện chứng duy vật là một yêu cầu bức thiết để đổi mới tư duy, là định
hướng tư tưởng là mang lại cho chúng ta công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh chống
4 1 Văn ki n Đ i h i lâần th VIII Đ ng c ng s n Vi t Nam, NXB Chính tr quốốc gia, 1997, trệ ạ ộ ứ ả ộ ả ệ ị 25 17 lOMoAR cPSD| 25734098
lại tư duy siêu hình, bảo thủ lạc hậu và thực hiện thắng lợi mục tiêu XHCN của cách mạng nước ta.
Phép biện chứng là một phát hiện lớn của nhân loại trong quá trình nhận thức
tự nhiên, xã hội và tư duy. Nghiên cứu lịch sử của phép biện chứng trong triết học là
một vấn đề rất lớn trong triết học, đòi hỏi có nhiều công sức của các nhà triết học
với nhiều công trình khảo cứu sâu sắc. Trong khuôn khổ một bài viết nhỏ không thể
đề cập được hết các khía cạnh của một vấn đề lớn đặc biệt là phép biện chứng duy
vật Mác – xít, do đó tôi rất mong sự đóng góp khoa học của các thầy cô giáo và các
bạn học viên để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1. Tập bài giảng triết học dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không
thuộc chuyên ngành triết học. NXB Chính trị quốc gia 1997.
2. Lịch sử phép biện chứng (tập 1,2,3), Viện triết học Liên Xô (cũ). 18