LSD1-6- Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam|Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta có tới 3 tổ chức Cộng sản nênkhông tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởngvà hành động. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem!

Môn:
Thông tin:
67 trang 7 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

LSD1-6- Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam|Học viện công nghệ bưu chính viễn thông

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta có tới 3 tổ chức Cộng sản nênkhông tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởngvà hành động. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.Tài liệu giúp bạn tham khảo, ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đón xem!

75 38 lượt tải Tải xuống
Câu 1:
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta tới 3 tổ chức Cộng sản nên
không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng
hành động. vậy, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã thống nhất các tổ
chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm ngày kỷ
niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng bước ngoặt đại trong lịch sử Việt Nam, chứng tỏ giai cấp
sản nước ta đã trưởng thành đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời khủng
hoảng về vai trò lãnh đạođường lối phong trào cách mạng Việt Nam. Đó kết quả
của sự vận động, phát triển, thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị
công phu về mọi mặt của Nguyễn Ái Quốc sự đoàn kết, nhất trí của những chiến
tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bối
cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất
bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do,
bình đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình
thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào Người. Đồng thời, khi đọc thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy ở
đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng
dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng
lãnh đạo và chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân phong
trào yêu nước thì mới thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo
cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã
phác thảo những vấn đề bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt giai cấp công nhân,
làm cho hệ tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền những nguyên lí
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai
tầng trong xã hội.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các
lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí, từ đó
giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp
thu tưởng cách mạng của Người, phản ánh duy sáng tạo thành công của
Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái
Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản
hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân giác ngộ họ. Thông qua phong trào
"vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập
trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của
tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động Xiêm, mặc chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng do
sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực
hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến
lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ
hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí
Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
OPTION 2:
Ngày 19/5 hàng năm đã trở thành một ngày đặc biệt thiêng liêng, trọng đại đối với
dân tộc Việt Nam và bạnquốc tế. Bởi, đó là kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Người giành cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc ấm no, hạnh phúc
cho Nhân dân. Đảng ta, dân tộc ta mãi ghi sâu công ơn trời biển của Người. Tên Người
- Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân phong trào yêu nước
của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã Cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô
sản, chính sđể Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới
cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam - Con đường Cách mạng Vô sản. Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu
chân Người từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục khoảng 30 quốc gia trong 10 năm
(1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu
nước nhận thức hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan
trọng, đó nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân:
đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; đâu những người lao động cũng bị
bóc lột, áp bức nặng nề “dù màu da khác nhau, trên đời này chỉ hai giống
người: giống người bóc lột giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc
cách mạng qua nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước bản chủ nghĩa:Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến
nơi, không triệt để, tiếng nói cộng hòadân chủ. Kỳ thực bên trong thì bóc lột
công nông trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa”[1]. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa
Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con
đường cách mạng vô sản. Sau này Người kể lại: “Luận cương của Lênin đã làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc
lên. Ngồi một mình trong buồng tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây cái cần thiết cho chúng ta, đây con
đường giải phóng cho chúng ta” . [2] thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã
đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát
vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh
hằng, đó những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính
là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩahội - con đường Người lựa chọn suốt 100
năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo
cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt
động thực tiễn tích cực của mình nước ngoài đã tiến hành truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyềnđi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn
con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Về tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án
bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi,
thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào
việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ
nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên
truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn giữa những người cộng sản
và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc.
Về chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm
chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị
áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng
sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những
nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Về tổ chức Sau khi từ Liên về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh:
niên tích cực trong tổ chức Tâm tâmlập ra nhóm Cộng sản đoàn (02/1925). Trên
sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản
ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
Á Đông (7/1925). Các tổ chức nơi để truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về nước
cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp
sản Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công
nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách
mạng vô sản. Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với
khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn
trương, tích cực đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề tưởng, chính trị, tổ chức để
dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch
sử.
Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba
tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển
quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng
sản ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa
nhận tổ chức của mình đều nhận đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh
khỏi phân tán về lực lượng thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của
phong trào cách mạng trong nước, với cách phái viên của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Bốn là, Người đã soạn thảo thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng. Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều
nội dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách
mạng, phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh đạo của
Đảng. Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề bản
trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước
ngoặt lịch sử đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên một cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm
tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta
trong mọi thời cách mạng đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. 90 năm thực
hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam vẫn kiên định
con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa hội, vẫn sợi chỉ đỏ, kim chỉ nam cho hoạt động
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[3]; Đại
hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa
hội của nước ta phù hợp với thực tiễn của Việt Nam xu thế phát triển của lịch
sử”[4]. Do đó, chúng ta hoàn toàn quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn
vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
Kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Bác, chúng ta càng thấy công lao to lớn của
Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung sự ra đời của
Đảng ta nói riêng. Tưởng nhớ Người, chúng ta càng khắc sâu công lao của Người, mỗi
cán bộ đảng viên của Đảng, đặc biệt những người hoạt động trên lĩnh vực tưởng
luận tự hào luôn Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách
mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc chủ nghĩa hội, tích cực nghiên
cứu luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập đạo đức phong cách
của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới,
đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của
Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa các Nghị quyết
của Đảng trong cuộc sống.
Câu 2:
Khó Khăn:
1. Chính trị và Quản trị: Sự thống trị của thực dân Pháp đưa đến việc thi hành chính
sách cai trị trực tiếp, bằng cách sử dụng quân sự cảnh sát để đàn áp mọi biểu
hiện chống đối. Chính sách "chia để trị" tạo ra sự phân đội trong hội Việt
Nam, với ba kỳ và ba chế độ thống trị khác nhau.
2. Kinh Tế Thuộc Địa Hóa: Thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa
lớn, tập trung vào nông nghiệp khai mỏ, gây ra mất cân đối phụ thuộc
mạnh mẽ vào Pháp. Nhân dân Việt Nam bị bóc lột cuộc sống trở nên khốn
khó.
3. Văn Hoá và Giáo Dục: Chính sáchdịch văn hoá và hạn chế giáo dục gây ra
sự mù chữ lớn, hơn 90% nhân dân không biết đọc viết. Nhiều hoạt động văn hoá
truyền thống bị áp đặt và giáo dục bị giảm chất lượng.
4. Phong Trào Yêu Nước Không Thành Công: Các phong trào yêu nước theo
hướng phong kiến chưa thành công do thiếu đường lối đúng đắn sự yếu đuối
trong lãnh đạo của giai cấp phong kiến.
Thuận Lợi:
1. Phong Trào Công NhânNông Dân: Phong trào công nhân và nông dân phát triển
mạnh mẽ. Công nhân nông dân chiếm đa số dân số tích cực đấu tranh chống lại
bóc lột của thực dân Pháp.
2. Sự Hình Thành Giai Cấp Tiểu Tư Sản: Giai cấp tiểu tư sản, bao gồm buôn bán nhỏ,
viên chức, trí thức, phát triển nhanh chóng trở thành lực lượng quan trọng trong
các phong trào cách mạng.
3. Sự Hình Thành Giai Cấp Công Nhân: Giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng
trở thành lực lượng chính trị độc lập. Công nhân xuất thân từ nông dân, có quan hệ gần
gũi với nông dân, thuận lợi cho liên minh công nông.
4. Ra Đời Các Tổ Chức Cộng Sản: Năm 1929, các tổ chức cộng sản như Đông Dương
Cộng sản Đảng Tổng Công hội Đỏ ra đời, đánh dấu bước quan trọng trong sự hình
thành của phong trào cộng sản Việt Nam. Các tổ chức này chủ trương vô sản hóa
đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Những yếu tố khó khăn và thuận lợi này đã tạo ra một bối cảnh phức tạp cho cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn này, đồng thời cũng đặt nền móng cho sự phát triển của phong
trào cộng sản ở Việt Nam.
Nguồn câu 2:
- Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp:
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà
Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
+ về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố
mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ
thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn giai
cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị bóc lột kinh tế. Nhân dân ta
mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực.
+ về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam
trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê, chè...)
ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều nhanh.
bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ
sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp
độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi
chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả nền kinh tế nước ta sự phát triển mức độ nào đó theo hướng bản chủ
nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
+ về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo
dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam
nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè,
hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả hơn 90% nhân dân ta bị chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên
ngoài.
- Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam:
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ
xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ, đa số địa chủ nhỏ vừa tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa
tinh thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp đối
tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc
sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểusản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên...
phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái
đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Một bộ phận sản mại bản quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của
chúng. Bộ phậnsản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị sản nước ngoài chèn ép nên
có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897 - 1914) phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm
1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với
công nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc
tế là có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hoá nên
có quan hệ gần gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai
cấp Việt Nam lúc đó "Chỉ giai cấp công nhân dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với luận cách mạng tiên
phong kinh nghiệm của phong trào sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra
người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫnbản thứ nhất đồng
thời mâu thuẫn chủ yếu mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ
phong kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân
tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân
tộc yêu cầu bản, chủ yếu nhất phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc
Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào cần
Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 -
1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành Đinh Công Tráng tổ chức (1885 -
1886); cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo
dài quyết liệt nhất phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo
(1884 — 1913) v.v...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất
chống xâm lược của dân tộc ta làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn
định thống trị hàng chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo
phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng sản bên ngoài, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào
Đông Du (1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra
gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu du học sinh Việt
Nam. Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung
Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương trang chống Pháp trong
nước, khôi phục độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức. Những năm
1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện
đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn
hưng văn hóa, công nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục, Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế Trung Kỳ (1908); phong trào
đấu tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong
trào của Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc
của một bộ phận trí thức, sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất
bại chính là do thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh tế, chính trị non yếu của giai cấp tư
sản Việt Nam đã không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang thời kỳ khủng
hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam như
“trong đêm tối không có đường ra”.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị thành lập Đảng phong
trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản:
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Trước khi ra đi,
Người đã tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình; được
học tập, có vốn kiến thức văn hoá, sớm cảm thông với nỗi khổ nhục của người dân mất
nước; hiểu rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước, Người quyết định sang
phương Tây tìm đường cứu nước.
Người qua Pháp, đến nhiều nước châu Phi sống Mỹ (1912 - 1913), sống Anh
(1914 - 1917); kiên trì chịu đựng gian khổ và sớm có tình cảm thương yêu giai cấp của
những người lao động nghèo khổ.
Tháng 7/1917, Người từ Anh trở về Pháp. Cùng với những người yêu nước Việt Nam,
Người tham gia các hoạt động chính trị- hội, văn hoá Pháp ủng hộ nước Nga
viết.
Từ sau ngày 17/7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa” trên báo L’Humanite hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế Cộng sản. Cuối tháng 12/1920, tại Đại hội XVIII của Đảng xã hội Pháp
họp thành phố Tua (Pháp), Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây bước chuyển về chất trong lập trường chính trị
của Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, ra báo Người cùng khổ (Le Paria)
tham gia viết báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên làm việc Ban Phương Đông của
Quốc tế Cộng sản. Người đã tham gia các Hội nghị Quốc tế nông dân, Quốc tế Thanh
niên và dự các khoá bồi dưỡng ngắn hạn của Quốc tế Cộng sản.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc là phái viên Ban thư ký Viễn Đông trở về hoạt động
Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra báo Thanh Niên, mở nhiều lớp trực tiếp giảng bài, huấn luyện con
đường cách mạng, phương pháp truyền chủ nghĩa Mác - Lênin con đường cách
mạng giải phóng dân tộc.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được Bộ Tuyên truyền của
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành tác phẩm “Đường kách mệnh”
(1927).
Đường cách mệnh chỉ kinh nghiệm của các cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cách
mạng Pháp năm 1789, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 kết luận: Chỉ Cách
mạng Tháng Mười Nga cách mạng triệt đệ nhất. Cách mạng Việt Nam cần phải đi
theo con đường cách mạng vô sản mới thành công.
Bây giờ chủ nghĩa nhiều nhưng chỉ chủ nghĩa Mác - Lênin chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất. Cách mạng sự nghiệp của quần chúng, trong đó công
nông là "gốc cách mệnh". Cách mạng muốn thắng lợi phảiđảng cách mệnh. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công. Cách mạng Việt Nam bộ phận của cách mạng thế
giới.
| 1/67

Preview text:

Câu 1:
1. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, ở nước ta có tới 3 tổ chức Cộng sản nên
không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng
và hành động. Vì vậy, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản đã thống nhất các tổ
chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam và tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết định lấy ngày 3/2 hằng năm là ngày kỷ
niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô
sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng
hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối phong trào cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả
của sự vận động, phát triển, thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị
công phu về mọi mặt của Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ
tiên phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, Nguyễn Ái Quốc tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc. Trong bối
cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất
bại thì Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do,
bình đẳng, bác ái", với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình
thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người. Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Người đã tìm thấy ở
đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải phóng
dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng
lãnh đạo và chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước thì mới có thể xây dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo
cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước và
chuẩn bị những điều kiện cho sự thành lập Đảng.
- Về chính trị: Người tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào trong nước. Người đã
phác thảo những vấn đề cơ bản về đường lối cứu nước đúng đắn của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tập trung qua những bài giảng của Người cho những cán bộ cốt cán của
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
- Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt
Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của quần chúng, đặc biệt là giai cấp công nhân,
làm cho hệ tư tưởng Mác Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm
chuyển biến mạnh mẽ phong trào yêu nước. Nội dung truyền bá là những nguyên lí cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin được cụ thể hoá cho phù hợp với trình độ của các giai tầng trong xã hội.
Về tổ chức: Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính
đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các
lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí, từ đó
giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp
thu tư tưởng cách mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của
Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ chức cho Đảng ra đời.
Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân
ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái
Quốc và những chiến sĩ tiên phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản
hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác ngộ họ. Thông qua phong trào
"vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn, giác ngộ lập
trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy
phong trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của
tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
Thứ ba, Nguyễn Ái Quốc chủ trì thành công Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản.
Năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, mặc dù chưa nhận được chỉ thị
của Quốc tế cộng sản về yêu cầu thống nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam, nhưng do
sự nhạy bén về chính trị, Nguyễn Ái Quốc đã chủ động triệu tập Hội nghị hợp nhất, thực
hiện sứ mệnh lịch sử của người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thứ tư, Nguyễn Ái Quốc trực tiếp soạn thảo những văn kiện quan trọng có ý nghĩa chiến
lược. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, sự thống nhất đường lối chính trị cấp thiết hơn bao giờ
hết. Hội nghị hợp nhất đã thống nhất thông qua Chán cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt và Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đặc biệt, nội dung của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt là do đồng chí
Nguyễn Ái quốc soạn thảo được Hội nghị thông qua đã trở thành Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. OPTION 2:
Ngày 19/5 hàng năm đã trở thành một ngày đặc biệt thiêng liêng, trọng đại đối với
dân tộc Việt Nam và bạn bè quốc tế. Bởi, đó là kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh - Người giành cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và ấm no, hạnh phúc
cho Nhân dân. Đảng ta, dân tộc ta mãi ghi sâu công ơn trời biển của Người. Tên Người
- Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh gắn liền với Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước
của Nhân dân Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định
đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô
sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh
đạo phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới
cho đất nước Việt Nam suốt 90 năm qua. Công lao to lớn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là:
Một là, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt
Nam - Con đường Cách mạng Vô sản. Những chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm, dấu
chân Người từng in trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng 30 quốc gia trong 10 năm
(1911 - 1920). Quá trình thâm nhập thực tiễn rộng lớn đó đã giúp người thanh niên yêu
nước nhận thức rõ hơn, khái quát hơn những vấn đề mang tính chất bước ngoặt quan
trọng, đó là nhận ra diện mạo, bản chất của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân: ở
đâu bọn đế quốc, thực dân cũng tàn bạo, độc ác; ở đâu những người lao động cũng bị
bóc lột, áp bức nặng nề và “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”. Nhận ra bản chất của các cuộc
cách mạng qua nghiên cứu các cuộc cách mạng của các nước tư bản chủ nghĩa: “Cách
mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến

nơi, không triệt để, tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bên trong thì nó bóc lột
công nông trong nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa
”[1]. Bắt gặp lý tưởng của Chủ nghĩa
Mác - Lênin: Người đã tìm thấy con đường cứu nước giải phóng cho dân tộc - con
đường cách mạng vô sản. Sau này Người có kể lại: “Luận cương của Lênin đã làm cho
tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc

lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông
đảo: Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng cho chúng ta”[2].
Có thể khẳng định, chính chủ nghĩa yêu nước đã
đưa Nguyễn Ái Quốc tìm đến lý tưởng cao quý của chủ nghĩa Mác - Lênin, với khát
vọng mang lại hòa bình cho dân tộc, Người đưa ra những thông điệp mang giá trị vĩnh
hằng, đó là những thông điệp về hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ, đó chính
là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường Người lựa chọn suốt 100
năm qua, nay vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng Việt Nam.
Hai là, Người đã tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị về tư tưởng,
chính trị, tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
Khi xác định con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô sản theo
cách mạng Tháng Mười Nga, theo Quốc tế Cộng sản thì Nguyễn Ái Quốc bằng hoạt
động thực tiễn tích cực của mình ở nước ngoài đã tiến hành truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin về Việt Nam, quá trình truyền bá đi từ thức tỉnh đến giác ngộ, từ lựa chọn
con đường đến hành động cách mạng theo con đường cách mạng vô sản.
Về tư tưởng: Nguyễn Ái Quốc đã dùng ngòi bút của mình tích cực tố cáo, lên án
bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi,
thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người đã góp phần quan trọng vào
việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa. Chỉ rõ bản chất của chủ
nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa,
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới. Đồng thời tiến hành tuyên
truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản
và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phục thuộc. Về chính trị: Lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc đã hình thành một hệ thống luận điểm
chính trị: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị
áp bức; xác định cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng vô sản thế
giới; xác định lực lượng cách mạng; xác định vai trò lãnh đạo của Đảng; cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Những luận điểm ấy sau này phát triển thành những
nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Về tổ chức: Sau khi từ Liên Xô về Quảng Châu, Người lựa chọn một số thanh
niên tích cực trong tổ chức Tâm tâm xã lập ra nhóm Cộng sản đoàn (02/1925). Trên cơ
sở nhóm Cộng sản đoàn Người sáng lập nên Hội Việt Nam cách mạng Thanh
niên (6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc, sau đó Người liên kết với những cộng sản
ở thuộc địa đang hoạt động cách mạng ở Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức
Á Đông (7/1925). Các tổ chức là nơi để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước và
cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp
vô sản ở Việt Nam. Nhờ đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công
nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928 - 1929 theo khuynh hướng cách
mạng vô sản. Có thể nói, trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với
khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động khẩn
trương, tích cực và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề tư tưởng, chính trị, tổ chức để
dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử.
Ba là, Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị thành lập Đảng.
Cuối năm 1929, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ dẫn tới sự ra đời của ba
tổ chức cộng sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương
Cộng sản Liên đoàn. Sự ra đời của các tổ chức cộng sản đã khẳng định bước phát triển
quan trọng của phong trào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời ba tổ chức cộng
sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa
nhận tổ chức của mình và đều nhận là đảng cách mạng chân chính, do đó không tránh
khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức.Trước nhu cầu cấp bách của
phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản,
Nguyễn Ái Quốc đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản để lập một chính đảng duy nhất của Việt Nam, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bốn là, Người đã soạn thảo và thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng. Cương lĩnh đã xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam với nhiều
nội dung rất quan trọng: mục tiêu của cách mạng, nhiệm vụ cách mạng, lực lượng cách
mạng, phương pháp tiến hành cách mạng, quan hệ quốc tế, vai trò lãnh đạo của
Đảng. Những nội dung ấy dẫu rằng “vắn tắt” nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản
trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước
ngoặt lịch sử vĩ đại. Cương lĩnh chính trị đầu tiên là một cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm
tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc. Và là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng ta
trong mọi thời kì cách mạng và đặc biệt có giá trị trong thời đại ngày nay. 90 năm thực
hiện đường lối chiến lược theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Việt Nam vẫn kiên định
con đường cách mạng được khẳng định từ Cương lĩnh chính tri đầu tiên, đó là độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vẫn là sợi chỉ đỏ, là kim chỉ nam cho hoạt động
cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: “Đi lên chủ
nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[3]; Đại
hội lần thứ XII (2016) của Đảng tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch
sử”[4]. Do đó, chúng ta hoàn toàn có quyền khẳng định rằng di sản Hồ Chí Minh vẫn
vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay.
Kỷ niệm 130 năm ngày sinh của Bác, chúng ta càng thấy công lao to lớn của
Người đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam nói chung và sự ra đời của
Đảng ta nói riêng. Tưởng nhớ Người, chúng ta càng khắc sâu công lao của Người, mỗi
cán bộ đảng viên của Đảng, đặc biệt những người hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng lý
luận tự hào luôn có Đảng lãnh đạo, càng ra sức học tập để thấm nhuần đạo đức cách
mạng của Người, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực
tiễn Việt Nam, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
tích cực nghiên
cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng, học tập đạo đức và phong cách
của Người để vận dụng vào giải quyết những vấn đề thực tiễn trong công cuộc đổi mới,
đấu tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của
Người đối với cách mạng Việt Nam, góp phần tích cực hiện thực hóa các Nghị quyết
của Đảng trong cuộc sống. Câu 2: Khó Khăn:
1. Chính trị và Quản trị: Sự thống trị của thực dân Pháp đưa đến việc thi hành chính
sách cai trị trực tiếp, bằng cách sử dụng quân sự và cảnh sát để đàn áp mọi biểu
hiện chống đối. Chính sách "chia để trị" tạo ra sự phân đội trong xã hội Việt
Nam, với ba kỳ và ba chế độ thống trị khác nhau.
2. Kinh Tế và Thuộc Địa Hóa: Thực dân Pháp thực hiện cuộc khai thác thuộc địa
lớn, tập trung vào nông nghiệp và khai mỏ, gây ra mất cân đối và phụ thuộc
mạnh mẽ vào Pháp. Nhân dân Việt Nam bị bóc lột và cuộc sống trở nên khốn khó.
3. Văn Hoá và Giáo Dục: Chính sách nô dịch văn hoá và hạn chế giáo dục gây ra
sự mù chữ lớn, hơn 90% nhân dân không biết đọc viết. Nhiều hoạt động văn hoá
truyền thống bị áp đặt và giáo dục bị giảm chất lượng.
4. Phong Trào Yêu Nước Không Thành Công: Các phong trào yêu nước theo
hướng phong kiến chưa thành công do thiếu đường lối đúng đắn và sự yếu đuối
trong lãnh đạo của giai cấp phong kiến. Thuận Lợi:
1. Phong Trào Công Nhân và Nông Dân: Phong trào công nhân và nông dân phát triển
mạnh mẽ. Công nhân và nông dân chiếm đa số dân số và tích cực đấu tranh chống lại
bóc lột của thực dân Pháp.
2. Sự Hình Thành Giai Cấp Tiểu Tư Sản: Giai cấp tiểu tư sản, bao gồm buôn bán nhỏ,
viên chức, và trí thức, phát triển nhanh chóng và trở thành lực lượng quan trọng trong các phong trào cách mạng.
3. Sự Hình Thành Giai Cấp Công Nhân: Giai cấp công nhân phát triển nhanh chóng và
trở thành lực lượng chính trị độc lập. Công nhân xuất thân từ nông dân, có quan hệ gần
gũi với nông dân, thuận lợi cho liên minh công nông.
4. Ra Đời Các Tổ Chức Cộng Sản: Năm 1929, các tổ chức cộng sản như Đông Dương
Cộng sản Đảng và Tổng Công hội Đỏ ra đời, đánh dấu bước quan trọng trong sự hình
thành của phong trào cộng sản ở Việt Nam. Các tổ chức này chủ trương vô sản hóa và
đấu tranh cho độc lập dân tộc.
Những yếu tố khó khăn và thuận lợi này đã tạo ra một bối cảnh phức tạp cho cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn này, đồng thời cũng đặt nền móng cho sự phát triển của phong
trào cộng sản ở Việt Nam. Nguồn câu 2:
- Sự thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp:
Đêm 31/8/1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tháng 6/1884, triều đình nhà
Nguyễn ký Hiệp ước Patơnốt, từ đó Pháp thiết lập sự thống trị ở toàn Việt Nam.
+ về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông Dương. Chúng
dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp, khủng bố
mọi sự chống đối; dùng chính sách “chia để trị”, chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ
thống trị khác nhau. Thực dân Pháp duy trì triều đình phong kiến nhà Nguyễn và giai
cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột kinh tế. Nhân dân ta
mất nước trở thành nô lệ, bị đàn áp, bóc lột, cuộc sống vô cùng khổ cực.
+ về kinh tế, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương lần thứ nhất
(1897 - 1914); khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919- 1929), trong đó lấy Việt Nam là trọng điểm.
Tư bản Pháp bỏ vốn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập các đồn điền cao su, cà phê, chè...)
và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sẳt, thiếc, vàng...) để thu lợi nhuận nhiều và nhanh.
Tư bản Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường sắt, phát triển các cơ
sở công nghiệp chế biến; độc quyền ngoại thương. Ngân hàng Đông Dương của Pháp
độc quyền tài chính, đặt ra hàng trăm thứ thuế, tàn ác nhất là thuế thân; thi hành rộng rãi
chính sách cho vay nặng lãi.
Kết quả là nền kinh tế nước ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ
nghĩa nhưng là nền kinh tế thuộc địa, mất cân đối, phụ thuộc vào Pháp.
+ về văn hoá, thực dân Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hoá; xoá bỏ hệ thống giáo
dục phong kiến, thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Pháp mở nhà tù, trại giam
nhiều hơn trường học; khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè,
hạn chế xuất bản sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc.
Kết quả là hơn 90% nhân dân ta bị mù chữ, bị bưng bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài.
- Sự thay đối tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam:
Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, tính chất xã hội Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam từ
xã hội phong kiến trở thành xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
Giai cấp địa chủ, đa số là địa chủ nhỏ và vừa có tinh thần yêu nước, căm ghét, vừa có
tinh thần dân tộc chống Pháp, số đại địa chù, tay sai, chỗ dựa của thực dân Pháp là đối tượng của cách mạng.
Giai cấp nông dân chiếm hơn 90% dân số, bị đế quốc, địa chủ, phong kiến bóc lột, cuộc
sống cực khổ nên rất tích cực chống đế quốc và phong kiến.
Tầng lớp tiểu tư sản gồm người buôn bán nhỏ, viên chức, trí thức, học sinh, sinh viên...
phát triển khá nhanh. Họ nhạy cảm trước thời cuộc, đời sống rất bấp bênh nên hăng hái
đấu tranh và là lực lượng quan trọng của cách mạng.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân
Pháp. Một bộ phận tư sản mại bản có quyền lợi gắn với Pháp, trở thành tay sai của
chúng. Bộ phận tư sản còn lại, thế lực kinh tế nhỏ bé, bị tư sản nước ngoài chèn ép nên
có tinh thần dân tộc, dân chủ, có thể đi với cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực
dân Pháp (1897 - 1914) và phát triển khá nhanh. Năm 1914 khoảng 10 vạn, đến năm
1929 tăng lên 22 vạn. Giai cấp công nhân Việt Nam tuy số lượng ít, ra đời muộn so với
công nhân nhiều nước nhưng mang đầy đủ đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc
tế là có tính chất tiên tiến, triệt để cách mạng, tính kỷ luật và tính chất quốc tế.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, vừa lớn lên đã tiếp thu
chủ nghĩa Mác - Lênin, rất kiên quyết cách mạng và đã nhanh chóng trở thành lực lượng
chính trị độc lập. Công nhân Việt Nam đa số xuất thân từ nông dân, bị bần cùng hoá nên
có quan hệ gần gũi với nông dân, rất thuận lợi cho liên minh công nông. Trong các giai
cấp ở Việt Nam lúc đó "Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất,
luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Với lý luận cách mạng tiên
phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta tỏ ra là
người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”'.
Trong xã hội Việt Nam nối lên hai mâu thuẫn cơ bản. Mâu thuẫn cơ bản thứ nhất đồng
thời là mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp. Mâu thuẫn cơ bản thứ hai giữa nhân dân Việt Nam, đa số là nông dân với địa chủ phong kiến.
Hai mâu thuẫn này gắn bó, tác động lẫn nhau đòi hỏi đồng thời giải quyết. Độc lập dân
tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam nhưng độc lập dân
tộc là yêu cầu cơ bản, chủ yếu nhất vì phản ánh nguyện vọng bức thiết của cả dân tộc
Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.
- Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản:
+ Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến:
Tiêu biểu nhất là phong trào cần Vương do vua Hàm Nghi phát động. Phong trào cần
Vương diễn ra từ năm 1885 đến năm 1896 với hàng loạt các cuộc khởi nghĩa vũ trang.
Nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1885 -
1896); cuộc khởi nghĩa Ba Đình do Phạm Bành và Đinh Công Tráng tổ chức (1885 -
1886); cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật đứng đầu (1885 - 1892). Kéo
dài và quyết liệt nhất là phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo (1884 — 1913) v.v...
Các cuộc khởi nghĩa vũ trang đó tiếp tục khẳng định tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất
chống xâm lược của dân tộc ta và làm cho thực dân Pháp tổn thất nặng nề, không ổn
định thống trị hàng chục năm trời.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng
phong kiến do thiếu đường lối đúng đắn. Giai cấp phong kiến đã không đủ sức lãnh đạo
phong trào yêu nước Việt Nam đi đến thành công.
- Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dẫn chủ tư sản:
Đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng các cuộc cách mạng tư sản bên ngoài, phong trào yêu
nước Việt Nam diễn ra sôi nổi theo hai khuynh hướng chính:
Khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo. Ông tổ chức phong trào
Đông Du (1906 — 1908) chủ trương nhờ Nhật Bản giúp đỡ. Phong trào du học diễn ra
gần hai năm, Pháp - Nhật Bản thoả hiệp trục xuất Phan Bội Châu và du học sinh Việt
Nam. Phong trào Đông Du thất bại.
Sau khi cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) thắng lợi, Phan Bội Châu về Trung
Quốc thành lập Việt Nam Quang phục Hội, chủ trương vũ trang chống Pháp ở trong
nước, khôi phục độc lập dân tộc.
Khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh (1782 - 1926) tổ chức. Những năm
1906 - 1908, ông chủ trương cải cách dân chủ nâng cao dân trí, cổ vũ tinh thần, cải thiện
đời sống nhân dân bằng con đường bất bạo động, công khai khai hoá cải cách, chấn
hưng văn hóa, công nghệ, chống mê tín dị đoan.
Các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa
Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908); phong trào
đấu tranh của Đảng Lập Hiến (1923), Đảng Thanh Niên (1926). Mạnh mẽ nhất là phong
trào của Việt Nam quốc dân Đảng (1929- 1930).
Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc
của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam nhưng tất cả đều thất bại. Nguyên nhân thất
bại chính là do thiếu đường lối đúng đắn. Địa vị kinh tế, chính trị non yếu của giai cấp tư
sản Việt Nam đã không đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cách mạng Việt Nam đang ở thời kỳ khủng
hoàng, bế tắc về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam ví như
“trong đêm tối không có đường ra”.
- Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, chuẩn bị thành lập Đảng và phong
trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản:
Ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Trước khi ra đi,
Người đã tiếp thu những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình; được
học tập, có vốn kiến thức văn hoá, sớm cảm thông với nỗi khổ nhục của người dân mất
nước; hiểu rõ nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu nước, Người quyết định sang
phương Tây tìm đường cứu nước.
Người qua Pháp, đến nhiều nước châu Phi và sống ở Mỹ (1912 - 1913), sống ở Anh
(1914 - 1917); kiên trì chịu đựng gian khổ và sớm có tình cảm thương yêu giai cấp của
những người lao động nghèo khổ.
Tháng 7/1917, Người từ Anh trở về Pháp. Cùng với những người yêu nước Việt Nam,
Người tham gia các hoạt động chính trị- xã hội, văn hoá Pháp và ủng hộ nước Nga Xô viết.
Từ sau ngày 17/7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” trên báo L’Humanite và hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế Cộng sản. Cuối tháng 12/1920, tại Đại hội XVIII của Đảng xã hội Pháp
họp ở thành phố Tua (Pháp), Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản và tham gia
thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là bước chuyển về chất trong lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa, ra báo Người cùng khổ (Le Paria) và
tham gia viết báo tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô và làm việc ở Ban Phương Đông của
Quốc tế Cộng sản. Người đã tham gia các Hội nghị Quốc tế nông dân, Quốc tế Thanh
niên và dự các khoá bồi dưỡng ngắn hạn của Quốc tế Cộng sản.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc là phái viên Ban thư ký Viễn Đông trở về hoạt động ở
Quảng Châu, Trung Quốc. Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên, ra báo Thanh Niên, mở nhiều lớp và trực tiếp giảng bài, huấn luyện con
đường cách mạng, phương pháp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường cách
mạng giải phóng dân tộc.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện được Bộ Tuyên truyền của
Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản thành tác phẩm “Đường kách mệnh” (1927).
Đường cách mệnh chỉ rõ kinh nghiệm của các cuộc cách mạng Mỹ năm 1776, cách
mạng Pháp năm 1789, cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và kết luận: Chỉ có Cách
mạng Tháng Mười Nga là cách mạng triệt đệ nhất. Cách mạng Việt Nam cần phải đi
theo con đường cách mạng vô sản mới thành công.
Bây giờ chủ nghĩa nhiều nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong đó công
nông là "gốc cách mệnh". Cách mạng muốn thắng lợi phải có đảng cách mệnh. Đảng có
vững cách mệnh mới thành công. Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới.