Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa học phần Xã hội học pháp luật của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem!
Môn: Xã hội học pháp luật (ĐHLHN)
Trường: Đại học Luật Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
lOMoARc PSD|27879799 MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Trong bầu trời, không có gì quý bằng dân.
Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”.Trong suốt lịch sử
cách mạng và lãnh đạo đất nước, dân chủ vẫn luôn là mục tiêu nhất quán của
Đảng Cộng sản Việt Nam, là kim chỉ nam cho mọi đường lối, chủ trương, chính
sách của Nhà nước. Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, có luận điệu cho rằng:
“Việt Nam cần thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đảm bảo dân chủ
cho nhân dân”. Đó là một quan điểm hoàn toàn sai trái, đi ngược lại với chủ nghĩa
Mác – Lênin và thực chất là muốn phủ nhận sự lãnh đạo duy nhất của Đảng. Từ
những cơ sở lý luận và bằng chứng thực tiễn, nhóm sẽ phản bác quan điểm trên
và khẳng định vai trò tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo
toàn bộ xã hội để đảm bảo dân chủ cho đại đa số tâng lớp nhân dân.
NỘI DUNG 1. Lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa xã hội khoa học về dân chủ
Từ việc nghiên cứu các chế độ dân chủ, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
Lênin cho rằng dân chủ là thành quả, sản phẩm của quá trình đấu tranh giai cấp,
là hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, là nguyên tắc hoạt động
của tổ chức chính trị - xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, dân
chủ gồm những nội dung cơ bản: Về phương diện quyền lực, dân chủ là quyền
lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của nhà nước; trên phương diện chế
độ xã hội và trong lĩnh vực chính trị, dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà
nước; trên phương diện tổ chức và quản lý xã hội và trong lĩnh vực quản lý xã
hội, dân chủ là một nguyên tắc - nguyên tắc dân chủ. Dân chủ với những nội dung
nêu trên là mục tiêu, tiền đề và là phương tiện để vươn tới tự do. Cho tới khi nào
con người còn tồn tại, nền văn minh nhân loại chưa bị diệt vong thì chừng đó dân
chủ vẫn còn tồn tại với tư cách một giá trị nhân loại chung.
1.2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Theo V.I.Lênin, như mọi loại hình dân chủ khác thì dân chủ vô sản không
phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người mà nó chỉ là dân chủ đối với quần
chúng lao động và bị bóc lột; dân chủ vô sản là chế độ vì lợi ích của đa số và dân
chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát tất cả các mặt của đời sống xã hội với dân
chủ trên lĩnh vực kinh tế là cơ sở. Nó đưa quảng đại quần chúng nhân dân lên địa
vị của người chủ chân chính của xã hội, loại bỏ quyền dân chủ của tất cả các giai
cấp là đối tượng của nhà nước vô sản. Là một đỉnh cao trong toàn bộ lịch sử tiến lOMoARc PSD|27879799
hoá của dân chủ, với tư cách đó, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những bản chất cơ bản sau:
Một, bản chất chính trị. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của môt đảng của giaị
cấp công nhân (đảng Mác - Lênin) mà trên mọi lĩnh vực xã hôi đều thực hiệ ṇ
quyền lực của nhân dân, thể hiên qua các quyền dân chủ, làm chủ, quyền coṇ
người, thỏa mãn ngày càng cao hơn các nhu cầu và các lợi ích của nhân dân. Chủ
nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hôi chủ ̣ nghĩa là
sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó đối với toàn
xã hôi, nhưng không phải chỉ để thực hiệ n quyền lực và lợi ích riêng ̣ cho giai cấp
công nhân, mà chủ yếu là để thực hiên quyền lực và lợi ích củạ toàn thể nhân dân,
trong đó có giai cấp công nhân. Nền dân chủ xã hôi chủ ̣ nghĩa do đảng Công sản
lãnh đạo - yếu tố quan trọng để đảm bảo quyền lực ̣ thực sự thuôc về nhân dân,
bởi vì, đảng Cộ ng sản đại biểu cho trí tuệ , lợi ích củạ giai cấp công nhân, nhân
dân lao đông và toàn dân tộ c. Với nghĩa này, dân chủ ̣ xã hôi chủ nghĩa mang tính
nhất nguyên về chính trị. ̣
Trong nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa, nhân dân lao độ ng là những ngườị
làm chủ những quan hê chính trị trong xã hộ i. Quyền được tham gia rộ ng rãị vào
công viêc quản lý nhà nước của nhân dân chính là nộ i dung dân chủ trêṇ
lĩnh vực chính trị. V.I.Lênin nhấn mạnh: Dân chủ xã hôi chủ nghĩa là chế độ dâṇ
chủ của đại đa số dân cư, của những người lao đông bị bóc lộ t, là chế độ mà ̣ nhân
dân ngày càng tham gia nhiều vào công viêc Nhà nước. Bàn về quyền làṃ chủ
của nhân dân trên lĩnh vực chính trị, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Trong chế
đô dân chủ xã hộ i chủ nghĩa thì bao nhiêu quyền lực đều là của dân,̣ bao nhiêu
sức mạnh đều ở nơi dân, bao nhiêu lợi ích đều là vì dân… Chế đô dâṇ chủ xã hôi
chủ nghĩa, nhà nước xã hộ i chủ nghĩa do đó về thực chất là của nhâṇ dân, do
nhân dân và vì nhân dân.
Xét về bản chất chính trị, dân chủ xã hôi chủ nghĩa vừa có bản chất giaị cấp
công nhân, vừa có tính nhân dân rông rãi, tính dân tộ c sâu sắc. Do vậ y, nềṇ dân
chủ xã hôi chủ nghĩa khác về chất so với nền dân chủ tư sản ở ̣ bản chất giai
cấp (giai cấp công nhân và giai cấp tư sản); ở cơ chế nhất nguyên và cơ chế đa
nguyên; một đảng hay nhiều đảng; ở bản chất nhà nước (nhà nước pháp quyền
xã hôi chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản).̣
Hai, bản chất kinh tế. Nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa dựa trên chế độ sợ̉ hữu
xã hôi về những tư liệ u sản xuất chủ yếu của toàn xã hộ i đáp ứng sự pháṭ triển
ngày càng cao của lực lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học - công nghê ̣ hiên
đại nhằm thỏa mãn ngày càng cao những nhu cầu vậ
t chất và tinh thần củạ
toàn thể nhân dân lao đông. Bản chất kinh tế đó chỉ được bộ c lộ đầy đủ qua mộ
ṭ quá trình ổn định chính trị, phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của toàn xã lOMoARc PSD|27879799
hôi, dưới sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin và quản lý, hướng dẫn, giúp đỡ củạ
nhà nước xã hôi chủ nghĩa. Trước hết đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân vệ̀
các tư liêu sản xuất chủ yếu; quyền làm chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh,̣
quản lý và phân phối, phải coi lợi ích kinh tế của người lao đông là độ ng lực cợ
bản nhất có sức thúc đẩy kinh tế - xã hôi phát triển. Kinh tế xã hộ i chủ nghĩạ
cũng là sự kế thừa và phát triển mọi thành tựu nhân loại đã tạo ra trong lịch sử,
đồng thời lọc bỏ những nhân tố lạc hâu, tiêu cực, kìm hãm… của các chế độ ̣
kinh tế trước đó. Khác với nền dân chủ tư sản, bản chất kinh tế của nền dân chủ
xã hôi chủ nghĩa là thực hiệ n chế độ công hữu về tư liệ u sản xuất chủ yếu và ̣
thực hiên chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động là chủ yếu.̣
Ba, bản chất tư tưởng - văn hóa - xã hội. Nền dân chủ xã hôi chủ nghĩạ lấy
hê tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạọ đối
với mọi hình thái ý thức xã hôi khác trong xã hộ i mới. Đồng thời nó kế thừa,̣ phát
huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tôc; tiếp thu những giá trị tự tưởng
- văn hóa, văn minh, tiến bô xã hộ i… mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các ̣ quốc
gia, dân tôc… Trong nền dân chủ xã hộ i chủ nghĩa, nhân dân được làṃ chủ những
giá trị văn hoá tinh thần; được nâng cao trình đô văn hoá, có điềụ kiên để phát
triển cá nhân. Dưới góc độ này dân chủ là mộ t thành tựu văn hoá,̣ môt quá trình
sáng tạo văn hoá, thể hiệ n khát vọng tự do được sáng tạo và pháṭ triển của con
người. Trong nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa có sự kết hợp hài hòạ về lợi ích giữa
cá nhân, tập thể và lợi ích của toàn xã hội. Nền dân chủ xã hôị chủ nghĩa ra sức
đông viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hộ ị của nhân dân
trong sự nghiêp xây dựng xã hộ i mới.̣
Với những bản chất nêu trên, dân chủ xã hôi chủ nghĩa trước hết và chủ ̣
yếu được thực hiên bằng nhà nước pháp quyền xã hộ i chủ nghĩa, là kết quả hoạṭ
đông tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân,̣
dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ có được với điều kiên tiên quyết là bảo đảm vai trò ̣
lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản. Bởi lẽ, nhờ nắm vững hê tư tưởng cácḥ
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa nó vào quần chúng, Đảng
mang lại cho phong trào quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng
nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục củạ
mình, Đảng nâng cao trình đô giác ngộ chính trị, trình độ văn hóa dân chủ củạ
nhân dân để họ có khả năng thực hiên hữu hiệ u những yêu cầu dân chủ phảṇ ánh
đúng quy luât phát triển xã hộ i. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộ ng sản,̣ nhân
dân mới đấu tranh có hiêu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ vì ̣những
đông cơ đi ngược lại lợi ích của nhân dân.̣ lOMoARc PSD|27879799
Với những ý nghĩa đó, dân chủ xã hôi chủ nghĩa và nhất nguyên về chính trị,̣
bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Công sản không loại trừ nhau mà ̣
ngược lại, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiên cho dân chủ xã hộ i chủ ̣ nghĩa
ra đời, tồn tại và phát triển. Với tất cả những đặc trưng đó, dân chủ xã hội chủ
nghĩa là nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản, là nền dân chủ
mà ở đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ và dân làm chủ; dân chủ
và pháp luật nằm trong sự thống nhất biên chứng; được thực hiệ n bằng nhạ̀ nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
2. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với toàn xã hội là sự
đảm bảo chắc chắn nhất cho dân chủ của đại đa số nhân dân Việt Nam
2.1. Bản chất của “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”
Vấn đề đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là vấn đề được bàn luận,
đề cập nhiều từ thế kỷ XIX, khi giai cấp tư sản đang độc quyền thống trị xã hội.
Lúc đầu, tư tưởng “đa nguyên luận” nhằm mục đích ngăn chặn tình trạng độc
quyền, mất dân chủ của giới tài phiệt và một số chính trị gia tư sản, bảo vệ quyền
lợi của các tầng lớp dân cư và lợi ích của một số nhóm nhỏ trong xã hội. Tuy
nhiên, tư tưởng “đa nguyên luận” không đạt được mục đích của mình là dân chủ
hoá xã hội mà chỉ hình thành nên một số đảng phái trong xã hội nhằm phân chia,
tranh giành quyền lực lẫn nhau. Đặc biệt, sau Cách mạng tháng Mười Nga, nghĩa
là sau khi chính quyền của giai cấp vô sản ra đời, Đảng Cộng sản nắm quyền lãnh
đạo xã hội ở một số nước, một số người, chủ yếu là các học giả, các chính trị gia
tư sản, những người đại diện cho giai cấp tư sản - giai cấp bị mất đi sự độc quyền
thống trị xã hội lại rùm beng mạnh mẽ vấn đề đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập. Theo quan điểm của những người này, “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
sẽ tạo nên sự đa dạng, phong phú trong ý thức hệ tư
tưởng” và "là nhân tố bảo đảm cho một nền dân chủ thực sự".
Đa nguyên, đa đảng không phải là "yếu tố duy nhất, nền tảng duy nhất"
đảm bảo được dân chủ đích thực mà bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân. Dân chủ là một giá trị xã hội, được hình thành và bảo đảm bởi nhiều
yếu tố, trong đó có lực lượng cầm quyền xã hội, cơ chế quản lý xã hội và trình độ
làm chủ của người dân. Theo Hồ Chí Minh: "Dân chủ là dân làm chủ, dân là chủ".
Vì vậy, bất cứ một xã hội nào, nhất nguyên hay đa nguyên, một đảng hay
đa đảng nhưng nếu đảng cầm quyền và nhà nước quan tâm đến thể chế bảo đảm
quyền lực thực tế của nhân dân, tôn trọng nhân dân, chăm lo cho nhân dân, coi lOMoARc PSD|27879799
nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực thì xã hội đó có dân chủ, người dân
được làm chủ và là người chủ đất nước. Dân chủ là thành quả của cuộc đấu tranh
lâu dài của nhân dân, là một bậc thang giá trị của nhân loại chứ không phải là sản
phẩm “của sự kêu gào” của một số phần tử trong xã hội. Thực tế cho thấy, hầu
hết các nước tư bản đều thực hiện đa nguyên, đa đảng nhưng quyền dân chủ của
nhân dân có được bảo đảm hay không, nhân dân có làm chủ thực sự vận mệnh
của mình hay không lại là chuyện khác.
Thực chất của cái gọi là đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở một số nước
không như một số người hiểu rằng đó là một chế độ “thực sự dân chủ” mà bản
chất của nó vẫn là nhất nguyên chính trị. Đó là một chế độ chính trị tư sản và giai
cấp tư sản vẫn là giai cấp duy nhất cầm quyền thống trị xã hội. Trong Cương lĩnh
của Đảng, Hiến pháp của nước ta đều thể hiện rõ “mọi quyền lực thuộc về nhân
dân”, “nhân dân lao động là người chủ đất nước”, vì thế không vì những yếu kém,
khuyết điểm, những hiện tượng mất dân chủ của một số nơi hiện nay mà phủ nhận
bản chất của chế độ ta, phủ nhận thành quả dân chủ của gần 70 năm cách mạng của nhân dân ta.
2.2. Đảm bảo dân chủ cho đại đa số nhân dân Việt Nam là mục đích lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là tất yếu khách
quan, thể hiện tính chính đáng về sự cầm quyền được hiến định, được lịch sử lựa
chọn, nhân dân tin tưởng trao trọng trách và tuyệt đối tin theo, nhất là được kiểm
chứng trên thực tế bằng bản lĩnh, uy tín, năng lực, đạo đức của một đảng cách
mạng chân chính, thực hiện sứ mệnh lãnh đạo và trách nhiệm cầm quyền vì lợi
ích của quốc gia - dân tộc, vì ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Dân chủ chỉ được đảm bảo bởi điều kiện tiên quyết là độc lập dân tộc. Đầu
thế kỷ XX, trước thách đố lịch sử đặt ra là giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, nhiều lực lượng, tổ chức
theo các ý thức hệ khác nhau đã đứng lên cứu nước, giải phóng dân tộc nhưng
cuối cùng đều thất bại. Thất bại đó đặt ra nhu cầu tất yếu phải có một chính đảng
đủ năng lực hoạch định đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, sáng tạo,
có khả năng và uy tín tập hợp lực lượng dân tộc và đoàn kết quốc tế, thì mới gánh
vác được trọng trách lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đáp
ứng nhu cầu lịch sử, khắc phục được những sai lầm, thiếu sót của các phong trào
yêu nước trước đó. Đảng Cộng sản Việt Nam bước lên vũ đài chính trị, nắm lấy
sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, lôi cuốn không ít nhà yêu nước tiến bộ từ bỏ lập trường
giai cấp của mình và tự nguyện chuyển sang lập trường giai cấp công nhân, phấn
đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng sau khi được giáo dục, giác ngộ lý tưởng cách
mạng của Đảng. Các lực lượng chính trị khác hoặc thối chí, hoặc thoái hóa, thậm lOMoARc PSD|27879799
chí đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc, thỏa hiệp và đầu hàng thực dân đế quốc,
không những mất dần uy tín chính trị, mà còn bị nhân dân xa lánh; chỉ có Đảng
Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đủ năng lực và phẩm chất để
lãnh đạo, được nhân dân tuyệt đối tin tưởng và đi theo làm cách mạng tự giải phóng.
Từ khi ra đời đến nay, năng lực lãnh đạo và uy tín của Đảng đã được khẳng
định trong suốt tiến trình cách mạng. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta làm nên Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra một thời đại mới rực rỡ
nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Bước vào thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, cứu nước, trong khi các lực lượng chống cộng chạy theo làm
tay sai cho ngoại bang, bán nước cầu vinh, các lực lượng chính trị khác dù có tinh
thần dân tộc nhưng thiếu năng lực và uy tín, bị đào thải tự nhiên, thì Đảng Cộng
sản Việt Nam tiếp tục khẳng định bản lĩnh, trí tuệ, năng lực, phẩm chất, uy tín để
lãnh đạo dân tộc, lãnh đạo nhân dân. Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, bảo vệ biên giới phía
Bắc của Tổ quốc là những bằng chứng thực tiễn sinh động khẳng định năng lực,
tố chất của Đảng trong lãnh đạo cách mạng. Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi cả nước sau ngày đất nước thống nhất, đường lối đổi mới toàn
diện đất nước của Đảng đã đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân, phù hợp với xu thế thời đại, vì một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai
trò lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan, đáp ứng yêu cầu lịch sử của cách mạng.
Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tính tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền
được khẳng định ở chỗ, Đảng đại biểu cho lợi ích không chỉ của giai cấp công
nhân, mà còn cả nhân dân lao động và toàn dân tộc. Điều này hoàn toàn khác với
đảng chính trị trong thể chế đa đảng chỉ đại biểu cho một nhóm lợi ích nhất định,
mà trong rất nhiều trường hợp lợi ích cục bộ của đảng phái mâu thuẫn, xung đột
với lợi ích chung của xã hội. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, bất cứ người nào,
không phân biệt thành phần xuất thân, khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, tự
nguyện đứng trên lập trường giai cấp công nhân để phấn đấu cho mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, thực hiện theo Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, đều được bồi dưỡng
và kết nạp vào Đảng. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp,
của dân tộc, của nhân dân; Đảng đấu tranh kiên quyết với mọi biểu hiện chủ nghĩa
biệt phái, “lợi ích nhóm”, không chỉ có nguy cơ gây chia rẽ nội bộ mà còn làm lOMoARc PSD|27879799
suy giảm năng lực đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định và làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản
chất, vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Những quy định
bổ sung này không chỉ tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, vai trò tiên phong
của Đảng, mà đây là lần đầu tiên chế định hóa trách nhiệm chính trị pháp lý của
Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình.
Tất cả những điều đó đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với toàn xã hội là tất yếu và được đại đa số nhân dân ghi nhận.
Không cần đến sự xuất hiện đa nguyên, đa đảng, vì chỉ có duy nhất Đảng cộng
sản Việt Nam mới có thể đủ khả năng thống nhất toàn dân, đại diện toàn dân thể
hiện ý chí dân tộc, lập trường, lý tưởng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
2.3. Những thành tựu to lớn Việt Nam đạt được trong thực hiện dân chủ cho
đại đa số nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Hành trình 35 năm đổi mới đất nước vừa qua cũng là thời gian Việt Nam
đẩy mạnh việc thực hành và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử qua 35 năm đổi mới để đất nước ta chưa bao giờ có được cơ
đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay chính là sản phẩm kết tinh sức
sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân ta, đồng thời cũng
là thành công của quá trình thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây
dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong 35 năm qua đã có những
bước tiến rất quan trọng. Thể chế thực thi các quyền làm chủ của nhân dân từng
bước được xác lập, cụ thể hóa và đi vào cuộc sống như một lẽ đương nhiên. Ý
thức dân chủ của công dân và của xã hội, trình độ làm chủ của nhân dân được
nâng lên rõ rệt. Nhiều chủ trương, biện pháp phát huy vai trò tích cực, chủ động
của nhân dân đã được thực hiện hiệu quả. Niềm tin của nhân dân với Đảng, với
Nhà nước được củng cố và trở thành quan hệ hữu cơ, bền chặt.
2.3.1. Thành tựu thực thi dân chủ về kinh tế
Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có bước phát triển quan trọng chính là cơ
sở cho sự bảo đảm dân chủ trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đường
lối xây dựng và phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với lOMoARc PSD|27879799
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh,
hình thức phân phối, bình đẳng trước pháp luật, hoạt động theo pháp luật, cùng
phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, đã tạo nền điều kiện nền tảng
cho việc thực hành và phát huy dân chủ.
Ở Việt Nam hiện nay, quan hệ sản xuất đặc trưng là quan hệ sở hữu đa
dạng, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường
đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu quả các nguồn lực phát triển,
là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được
phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà
nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính
sách và các nguồn lực của Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, phát huy
vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định các
thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế vốn
đầu tư nước ngoài, trong đó, kinh tế nhà nước là chủ đạo. Với những quan hệ sản
xuất được Đảng và Nhà nước xác lập và ghi nhận, người lao động ở Việt Nam
hiện nay được tạo điều kiện tối đa để phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ
được áp dụng ngày một rộng rãi, năng suất lao động nâng cao, vốn đầu tư nước
ngoài tăng mạnh trong những năm gần đây. Đến đầu năm 2020, Việt Nam đã tham
gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), có quan hệ thương mại với 224 đối tác,
trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta; có quan hệ với hơn 500
tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam; các
địa phương đã ký kết 420 thỏa thuận quốc tế với các địa phương, đối tác, doanh
nghiệp nước ngoài, tăng 20,3% so với giai đoạn 2014 - 2016.
Nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế nước ta thoát
khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng, kém phát triển, trở thành nước đang phát triển
có thu nhập trung bình. Giai đoạn 2011 - 2020, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định vững
chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực
cho phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm; giai đoạn 2016 - 2020 ước đạt
6,8%/năm. Dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỷ USD năm 2010 lên trên 80 tỷ USD
vào năm 2020. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch Covid 19 bùng phát, GDP 6 tháng
đầu năm 2020 của nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng dương, tăng 1,81%. Kết quả
đạt được đã thể hiện sự nỗ lực lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đã tích cực thể chế hóa đường lối,
chủ trương, quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bước lOMoARc PSD|27879799
đầu tạo môi trường pháp lý bình đẳng và minh bạch cho các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế cạnh tranh, phát triển, khơi thông các nguồn lực trong
nước và thu hút đầu tư nước ngoài. Cơ cấu kinh tế đã bước đầu chuyển dịch theo
hướng hiện đại. Từ năm 2011- 2020, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 xuống 13,1% năm 2020; các khu vực
công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng tương ứng từ 81,1% lên 86,9%, vượt mục
tiêu đề ra. Ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin được đẩy mạnh trong
nhiều ngành, lĩnh vực. Nông nghiệp tập trung vào sản xuất hàng hoá theo hướng
hiện đại, giá trị gia tăng cao, bền vững, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị và hình
thành nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu
cơ. Cơ cấu các ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng
ngành khai khoáng, tăng nhanh tỷ trọng ngành chế biến, chế tạo và ứng dụng công
nghệ cao. Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt và đạt được những kết quả
quan trọng, cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, lượng khách quốc tế tăng
nhanh, đến năm 2020 đạt khoảng 20 triệu lượt.
2.3.2. Thành tựu thực thi dân chủ về chính trị
Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước,
đoàn thể và xã hội trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử được mở
rộng và phát huy hiệu quả tích cực. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được chú trọng hơn. Hệ thống
chính trị có những đổi mới theo hướng tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả; dân chủ hóa,
công khai minh bạch trong phương thức hoạt động, qua đó dân chủ xã hội ngày
càng được phát huy, hiệu quả. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã từng bước đổi
mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng mở rộng và phát huy dân
chủ, phát huy tốt hơn vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các tổ chức xã hội, xã
hội - nghề nghiệp ra đời đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhân dân.
Các hình thức thực hiện dân chủ (dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện) từng bước
được mở rộng, đổi mới và thực hiện hiệu quả hơn. Người dân được quyền bầu cử
và ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội.
Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
nhiệm kỳ 2021-2026 đã diễn ra và đạt được kết quả vô cùng tốt đẹp. Cuộc bầu cử
đã diễn ra với 84767 khu vực bỏ phiếu, gần 70 triệu lá phiếu bầu đạt 99,60% đạt
tỉ lệ rất cao. Số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân các cấp cũng đạt con số vô cùng ấn tượng khi có tới gần 45 vạn người.
Người dân có quyền được tham gia quản lý nhà nước và xã hội, được tham
gia thảo luận các vấn đề chung của Nhà nước và địa phương. Người dân có quyền
tham gia hoạt động trong các cơ quan Nhà nước thông qua phương thức tuyển
dụng. Công dân có quyền tham gia vào thảo luận, đưa ra ý kiến đối với các vấn lOMoARc PSD|27879799
đề ở tầm quốc gia khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý. Trong cả năm bản Hiến
pháp của nước ta đều quy định về trưng cầu ý dân. Đặc biệt trong bản Hiến pháp
1946 quy định người dân có quyền phúc quyết ngay cả khi những điều thay đổi
đã được ưng chuẩn. Trong thực tiễn, Nhà nước ta đã tổ chức một số cuộc lấy ý
kiến nhân dân như lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Hiến pháp 2013. Việc ban hành
Luật trưng cầu ý dân là đã kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng,
cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 và tiếp tục hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam. Bên cạnh đó người dân còn tham gia góp ý xây dựng các văn
bản quy phạm pháp luật.
Người dân có quyền được thông tin, tự do ngôn luận, tự do báo chí. Quyền
được tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin đã được quy định trong
Luật Báo chí (2016), Luật Tiếp cận thông tin (2016),… Điều này cho thấy Đảng
và Nhà nước vô cùng tôn trọng và đảm bảo thực thi các quyền trên. Quyền tự do
ngôn luận, báo chí ở Việt Nam đang trở thành một nhân tố tích cực trong công
cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Đơn báo chí đã phanh
phui được vụ tham nhũng lớn của nguyên Phó Chủ tịch phụ trách công nghiệp -
thương mại Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang Trịnh Xuân Thanh với bài báo “Xe
tư gắn biển xanh”. Dân chủ trong lĩnh vực chính trị ngoài các quyền trên, công
dân còn có các quyền như giám sát các hoạt động của các cơ quan Nhà nước,
quyền khiếu nại, quyền tố cáo,…
2.3.3. Thành tựu thực thi dân chủ về văn hóa, tư tưởng
Ở phương diện tư tưởng, văn hoá, Nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây
dựng trên nền tảng tinh thần là hệ tư tưởng tiên tiến, khoa học và cách mạng của
Mác - Lênin và những giá trị văn hoá tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những
bản sắc riêng của các dân tộc. Bản chất nền tư tưởng, văn hoá dân chủ xã hội chủ
nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã
hội; đồng thời, kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hoá truyền thống của các
dân tộc, tiếp thu những giá trị về tư tưởng, văn hoá, văn minh, tiến bộ xã hội…
mà nhân loại tạo ra. Trong nền dân chủ XHCN, nhân dân có quyền làm chủ quá
trình sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hoá và tinh thần của xã hội mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ: Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc
của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”. (Tác phẩm Dân vận 1949)
Cụ thể hoá quan điểm này trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng dân chủ của
Hồ Chí Minh thể hiện ở việc đánh giá đúng, trân trọng, đề cao và phát huy lực lOMoARc PSD|27879799
lượng, tài nghệ của nhân dân trong việc phát triển nền văn hoá Việt Nam, khẳng
định vai trò sáng tạo các giá trị văn hoá, kiểm nghiệm các sản phẩm văn hoá
của nhân dân, đồng thời nhấn mạnh nhân dân cần được hưởng thụ các giá trị
văn hoá. Bên cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh việc thực hiện bình đẳng văn hóa
giữa các dân tộc là yếu tố quan trọng trong thực hành dân chủ trong văn hóa,
qua đó góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 16-6-2008, của Bộ Chính trị khóa X
“Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”; Nghị
quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014,Hội nghị Trung ương 9, khóa XI “Về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước”,… trong đó đều khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân -
chủ thể sáng tạo, gìn giữ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
Để bảo đảm quyền sáng tạo, tiếp nhận và hưởng thụ văn hóa của người
dân cũng như nâng cao ý thức, trách nhiệm cá nhân trong quan hệ ứng xử với
cộng đồng, với di sản văn hóa dân tộc, với những xuất bản phẩm văn hóa trên
thị trường, Điều 41, Hiến pháp năm 2013 cũng quy định rõ: “Mọi người có
quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa,
sử dụng các cơ sở văn hóa”. Việc ban hành hệ thống các luật, như Luật Sở hữu
trí tuệ, Luật Di sản văn hóa, Luật Xuất bản..., đã tạo hành lang pháp lý thuận
lợi cho các hoạt động sáng tạo, quảng bá và tiếp nhận các sản phẩm văn hóa,
nghệ thuật của cá nhân, tổ chức xã hội; kịp thời điều chỉnh hành vi ứng xử của
con người với di sản văn hóa dân tộc; bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong sáng
tạo, hưởng thụ văn hóa của nhân dân; bảo vệ quyền tác giả và các quyền liên
quan… Theo đánh giá của Chính phủ, hệ thống pháp luật ngành văn hóa, thể
thao và du lịch đã và đang từng bước được hoàn thiện trên cơ sở thể chế hóa
đường lối, chủ trương của Đảng; bảo đảm quyền con người và quyền tự do, dân
chủ, quyền văn hóa của công dân; phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và các cam
kết quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Hệ thống thông tin đại chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, đáp ứng
ngày càng tốt đời sống tinh thần nhân dân. Lĩnh vực phát thanh - truyền hình có
bước phát triển nhanh về kỹ thuật và công nghệ thông tin, năm 2019 có 850 cơ
quan báo in, báo điện tử, 72 đài phát thanh, đài truyền hình (cả địa phương và
trung ương). Các loại sách về các lĩnh vực pháp luật, văn hóa, văn học, thiếu niên,
nhi đồng, khoa học, công nghệ, kinh tế, giáo dục, tôn giáo, môi trường... ngày
càng phong phú và có chất lượng tốt. Đến tháng 01/2020, có khoảng 68,17 triệu
người Việt Nam sử dụng dịch vụ internet.
Công tác sưu tầm, bảo quản, tôn tạo, tu bổ và phát huy giá trị di sản văn
hóa của dân tộc đã đạt nhiều thành tựu, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo lOMoARc PSD|27879799
văn hóa đa dạng của nhân dân. Nhờ có đường lối và chính sách đúng mà hàng
ngàn di tích văn hóa được trùng tu, tôn tạo; hàng trăm lễ hội truyền thống được
phục hồi; nhiều làn điệu dân ca, các huyền thoại, truyền thuyết, các bộ sử thi... di
sản văn hóa vật thể, phi vật thể được công nhận ở cấp quốc gia và thực tế đã trở
những di sản văn hóa nhân loại. Đến năm 2020, cả nước có 28 di sản văn hóa vật
thể và phi vật thể được UNESCO ghi danh; 301 di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia; 191 hiện vật và nhóm hiện vật được công nhận là bảo vật quốc gia; 3.498 di
tích quốc gia; 122 di tích quốc gia đặc biệt; 168 bảo tàng lưu giữ và trưng bày
khoảng 3 triệu tài liệu, hiện vật.
Ngày nay, văn hóa được xem là nền tảng tinh thần xã hội, là mục tiêu, động
lực của sự phát triển, là nguồn lực nội sinh quan trọng tạo nên “sức mạnh mềm”
Việt Nam. Để văn hóa phát triển xứng tầm với tiềm năng, truyền thống hào hùng
của lịch sử dân tộc, thực hành tốt dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương,
pháp chế trong lĩnh vực văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phát
huy sức sáng tạo vô tận trong nhân dân, góp phần phát triển bền vững đất nước.
2.3.4. Thành tựu thực thi dân chủ về xã hội
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ trong lĩnh vực xã hội được đẩy mạnh
và thực thi hiệu quả hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách và các giải pháp
hữu hiệu trong các lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục,…ngày càng hoàn thiện và
đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống. Nhiều văn bản pháp luật đã cụ thể hóa các quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp hơn với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội. Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật được luật hóa và
từng bước đi vào cuộc sống. Việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân
ngày càng được quan tâm và phát huy hiệu quả tích cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Trong thực hiện quyền con người, một trong những thành tựu nổi bật nhất
của Việt Nam bảo đảm quyền con người là đạt được những tiến bộ vượt bậc về
xóa đói giảm nghèo, phát triển con người và chất lượng cuộc sống. Việt Nam là
quốc gia đạt được kết quả ấn tượng trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ
về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận.
Lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho người dân ngày càng được
nâng cao. Đến nay 63 tỉnh, thành phố đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em
năm tuổi và phổ cập giáo dục tiểu học. Ngoài sự phát triển các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khỏe trực tiếp, Việt Nam còn thi hành nhiều biện pháp nhằm nâng
cao sức khỏe của người dân, ngăn ngừa bệnh tật từ xa như chương trình cung cấp
nước sạch và vệ sinh nông thôn. Bảo hiểm y tế được phát triển, mở rộng. Số lượng
người tham gia bảo hiểm y tế đã tăng từ 3,8 triệu (chiếm 5,4% dân số) năm 1993
lên gần 88 triệu người (gần 91% dân số) năm 2020. lOMoARc PSD|27879799
Nói đến thành tựu bảo đảm quyền con người không thể không nói tới những
nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong chăm sóc, bảo đảm quyền của nhóm xã hội
dễ bị tổn thương, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật. Trong đó, trẻ em
ngày càng được chăm sóc và bảo vệ tốt hơn để phát triển toàn diện về thể chất, trí
tuệ, tinh thần; tỷ lệ nữ giới được giáo dục ở mọi cấp tăng cao. Các chính sách đổi
mới của Việt Nam đã tạo cơ hội cho phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các
hoạt động kinh tế-xã hội của đất nước. Lao động nữ được quan tâm nhiều hơn
trong thời kỳ thai sản và tuổi nghỉ hưu. Người khuyết tật được quan tâm, giúp đỡ,
tạo điều kiện thuận lợi để được học văn hóa, được ưu tiên bố trí việc làm... Đến
nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước của Liên hợp quốc về quyền con
người, như: “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc”;
“Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ”; “Công
ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội”; “Công ước quốc tế về các
quyền dân sự chính trị”; “Công ước về quyền trẻ em”;
“Công ước về quyền của người khuyết tật”…
Trong phòng chống đại dịch COVID-19, mục tiêu “không ai bị bỏ lại phía sau”
là xuyên suốt, nhất quán, được Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị thực hiện triệt
để, hiệu quả. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tiếp tục được quan
tâm; đẩy mạnh kết nối liên thông nền tảng hỗ trợ tư vấn khám, chữa bệnh trực
tuyến. Đồng thời, đẩy mạnh ngoại giao vaccine, thành lập Quỹ vaccine phòng
chống COVID-19, tích cực đẩy mạnh nhập khẩu, nghiên cứu, chuyển giao công
nghệ sản xuất vaccine trong nước và phát động chiến dịch tiêm chủng lớn nhất từ
trước tới nay với tinh thần “vaccine tốt nhất là vaccine được tiêm sớm nhất”. Đến
ngày 19/10/2021, đã tiếp nhận 97,5 triệu liều vaccine đã phân bổ 95,5 triệu liều
và tiêm được trên 65,7 triệu liều (tỷ lệ tiêm ít nhất 1 mũi cho người từ 18 tuổi trở
lên tính trung bình là 63,5%), tập trung cho các đối tượng và địa bàn ưu tiên.
Trong tình hình dịch bệnh COVID - 19, sản xuất kinh doanh, sinh kế và đời sống
nhân dân bị ảnh hưởng, dưới sự lãnh đạo thống nhất của Trung ương Đảng, chúng
ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ trong toàn hệ thống và
trên tất cả các lĩnh vực.
Những thành tựu có được nhờ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
chính là minh chứng rõ nhất cho việc Việt Nam không chấp nhận đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập mà dân chủ vẫn được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng
được cải thiện, nâng cao. KẾT LUẬN
Qua những lập luận xuất phát từ lý luận và thực tiễn, có thể thấy rằng luận
điệu Việt Nam cần đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đảm bảo dân chủ cho lOMoARc PSD|27879799
nhân dân là hoàn toàn sai lầm. Cuộc sống ấm no, hạnh phúc hôm nay chính là
thành quả cách mạng của toàn Đảng, toàn dân trong suốt tiến trình lịch sử. Luận
điệu dân chủ của các thế lực chống phá thực chất là muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính vì thế, nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh hiện
nay chính là cần nhận diện đầy đủ và đấu tranh phản bác thuyết phục, vạch rõ
những điểm giả dối, phản cách mạng, phản khoa học trong luận điệu “đa nguyên,
đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” để bảo vệ và giữ vững nền độc lập tự do của toàn dân tộc.