





Preview text:
lOMoAR cPSD| 61458992
1. Một số vấn đề lý luận về quá độ lên CNXH “bỏ qua chế độ TBCN"
1.1. Nội dung lý luận về phát triển theo con đường “nhảy vọt”, “bỏ qua” trong
Học thuyết về các Hình thái kinh tế - xã hội
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử
được dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ
sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực
lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên
những quan hệ sản xuất đó. Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và
Ph.Ăngghen phát minh tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội
loài người, là cơ sở khoa học để nhận thức chân thực về thời kì quá độ. Trên cơ
sở quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết định sự hình
thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, các ông làm
sáng tỏ, xã hội loài người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội từ
thấp đến cao; đỉnh cao, tiến bộ nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.1
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng kiến sự tồn tại và chuyển đổi qua
nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, từ cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu
nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, và hiện nay là quá trình quá độ lên chủ nghĩa
xã hội - giai đoạn khởi đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, do những đặc thù về lịch sử, địa lý và thời gian, không phải quốc gia nào
cũng trải qua đầy đủ các hình thái này theo trật tự tuyến tính từ thấp lên cao. Thực
tế lịch sử đã cho thấy, có những quốc gia do ảnh hưởng của các yếu tố khách quan
và chủ quan, cả từ bên trong lẫn bên ngoài, đã có thể bỏ qua một hoặc hai giai
đoạn trong tiến trình phát triển của mình. Điều này minh chứng cho sự đa dạng
và phức tạp trong quá trình phát triển lịch sử, nơi mà các quốc gia có thể lựa chọn
con đường riêng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Chẳng hạn, Úc không
trải qua các hình thái xã hội như chiếm hữu nô lệ hay phong kiến do sự di cư của
1 Nguyễn Văn Quang (2022), Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự bổ sung, phát
triển của Đảng ta, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. lOMoAR cPSD| 61458992
người Anh mà nước Úc đã tiếp thu và xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngay
từ đầu - tức là tiến thẳng lên tư bản chủ nghĩa. Hay nước Mỹ, khi người Châu Âu
xâm chiếm Bắc Mỹ, họ đã mang theo các yếu tố của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa,
bỏ qua hoàn toàn hình thái phong kiến mà châu Âu từng trải qua. Kết quả là, Mỹ
nhảy vọt trực tiếp từ chiếm hữu nô lệ thành một quốc gia tư bản chủ nghĩa mà
không trải qua giai đoạn phát triển phong kiến.
Theo quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, phát triển “tuần tự” hay “bỏ qua”
một hình thái kinh tế - xã hội đều là quá trình lịch sử - tự nhiên. C.Mác đã viết:
“Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử
- tự nhiên”.2 Căn cứ vào tiến trình liên tục, không ngừng của cách mạng vô sản
thế kỷ XIX, C.Mác, Ph.Ăngghen đã khái quát lý luận về thời kỳ quá độ và coi đó
là một nấc thang tất yếu phải trải qua để bước sang xã hội cộng sản. Các ông cho
rằng: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ
cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một
thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn
là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản”.3 Luận điểm của các nhà
kinh điển thể hiện rõ tư tưởng về một hình thức quá độ “trực tiếp” sau khi giai
cấp vô sản giành được chính quyền từ giai cấp tư sản. Đồng thời, các ông cũng
chỉ rõ: “Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận
động của nó... cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự nhiên hay
dùng sắc lệnh để xóa bỏ những giai đoạn đó. Nhưng nó có thể rút ngắn và làm
dịu bớt những cơn đau đẻ”.3
Tiếp tục tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về con đường phát triển không
tư bản chủ nghĩa, V.I.Lê-nin đã phát triển tư tưởng đó. Quan điểm của V.I.Lênin
về vấn đề này được trình bày rõ ở Đại hôi II Quốc tế Cộ ng sản (tháng 8-̣ 1920).
Ông viết : "Đối với các dân tôc lạc hậ u hiệ n nay trên con đường giảị phóng và
sau chiến tranh đã có môt bước tiến bộ , mà khẳng định rằng nền kinḥ tế quốc dân
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.21, 21.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.19, tr.48.
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.21, 21. lOMoAR cPSD| 61458992
của những dân tôc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tự bản chủ nghĩa,
chúng ta có cho như vây là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng ̣ không đúng".
V.I.Lê-nin đăt ra nhiệ m vụ: "Phải xác định và chứng minh trên lý ̣ luân cho mộ t
nguyên tắc đó là: Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiêṇ tiến, các nước
lạc hâu có thể tiến tới chế độ Xô-viết và qua những giai đoạṇ phát triển nhất định,
tiến tới chủ nghĩa công sản, không phải trải qua giai đoạṇ phát triển tư bản chủ nghĩa".5
Như vây, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của các nhà sáng lập chủ nghĩa
Mác - Lênin đã thể hiện sâu sắc trong việc phân tích các hiện tượng xã hội, khẳng
định giá trị phương pháp luận độc đáo trong nhận thức xã hội. Đây cũng chính
những vấn đề lý luận cốt yếu mà Đảng ta tiếp thu trong việc xây dựng, phát triển
đất nước nhằm đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, con đường để
đến được chủ nghĩa xã hội là một con đường lâu dài và trong mỗi giai đoạn, mỗi
thời kì Đảng ta luôn tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển cơ sở lý luận trên
để phù hợp với thực tiễn của đất nước.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
“bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
Nguyễn Linh Khiếu; Phạm Tất Thắng (2015), Phương pháp tiếp cận và lý luâ n nghiên cứu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa x ã
hội, bỏ q ua chế độ tư bản chủ nghĩa, Tạp chí Cộng sản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại Hà Nội, từ ngày 19-22/4/2001. ( Nguồn: dienbien.tv)
Nếu như tại Đại hội VI của Đảng (1986) xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước
ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một lOMoAR cPSD| 61458992
thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để nhằm xây dựng từ đầu một
chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng. Đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai.4
Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội năm 1991, Đảng xác định “Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản 5
xuất rất thấp”.
Như vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 có bước nhận thức mới đó là nước ta quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chứ không phải bỏ qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa, nhưng chưa định rõ nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Và tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của
quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ Tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”.8
Đây là tư tưởng mới, phản ánh nhận thức mới, tư duy mới của Đảng ta về
con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Trước hết,
việc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa là con đường
cách mạng tất yếu và đúng đắn nhằm xây dựng, kiến tạo đất nước trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Có thể thấy rằng lựa chọn hình thức quá 4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.47, tr.374.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.133
8 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.179 lOMoAR cPSD| 61458992
độ gián tiếp nhưng Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức là “bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản
chủ nghĩa”, tức là không bỏ qua hoàn toàn chủ nghĩa tư bản với tính cách là một
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, đó là kế thừa một cách có chọn lọc
những thành tựu mà trước hết là về khoa học và công nghệ nhân loại đạt được
trong chủ nghĩa tư bản, chỉ bỏ qua chủ nghĩa tư bản với tính cách là một chế độ
chính trị. Trong nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội còn nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, song sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa
và thành phần kinh tế tư nhân tư bản tư bản chủ nghĩa không chiếm vai trò chủ
đạo; còn nhiều hình thức phân phối (ngoài phân phối theo lao động vẫn là chủ
đạo còn phân phối theo mức độ đóng góp và qũy phúc lợi xã hội); còn quan hệ
bóc lột và bị bóc lột, song quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa không giữ vai trò thống trị.
Nói “nước ta quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa”
chỉ có nghĩa là trong lịch sử nước ta không có một giai đoạn, trong đó giai cấp tư
sản nắm chính quyền và quan hệ sản xuất Tư bản chủ nghĩa giữ địa vị thống trị
trong nền kinh tế quốc dân. Việc bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa đi lên Chủ nghĩa
xã hội không chỉ là bỏ qua xác lập vị trí chi phối của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng Tư bản chủ nghĩa, mà còn là bỏ qua việc tước đoạt ruộng đất
của nông dân, cũng như việc tước đoạt tư liệu sản xuất của người lao động, đẩy
những người lao động trở thành người làm thuê. Sau khi giành được chính quyền,
giai cấp công nhân và những người lao động trở thành những người chủ của xã
hội mới, thực hiện xã hội hóa tư liệu sản xuất, từng bước xây dựng và đưa quan
hệ sản xuất mới ngày càng chiếm vị trí chi phối trong nền sản xuất xã hội. Do
vậy, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa cũng còn là việc bỏ qua tạo dựng giai cấp
thực hiện sự thống trị, bóc lột giai cấp công nhân và những người lao động trong
Chủ nghĩa tư bản. Song, trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, cùng với xây
dựng giai cấp công nhân là việc hình thành tầng lớp doanh nhân, những người lao
động, cùng làm chủ xã hội và cùng xây dựng xã hội mới. Và đồng thời, việc bỏ
quả kiến trúc thượng tầng nhưng vẫn tiếp thu những thành tựu của cuộc cách lOMoAR cPSD| 61458992
mạng khoa học - công nghệ hiện đại, duy trì sự hợp tác kinh tế quốc tế đa phương,
đa dạng cho phép chúng ta tận dụng đại công nghiệp của cả thế giới để có thể "rút
ngắn" quá trình phát triển kinh tế đất nước. Sự phát triển "rút ngắn" chỉ có nghĩa
là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, bằng những khâu
trung gian, những hình thức, bước đi quá độ - được coi là cực kỳ cần thiết và có
tác dụng sắc bén đối với những nước mà sản xuất nhỏ là phổ biến đi lên CNXH.6
Quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa là tạo ra sự biến đổi
về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực, là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp,
lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ, đòi hỏi phái có quyết tâm chính trị cao và khát vọng lớn của toàn Đảng, toàn dân.
Như vậy, ta thấy được Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định, nhận thức rất rõ
nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quyết định
này không chỉ phản ánh sự hiểu biết sâu sắc về lý luận mà còn thể hiện sự nhạy
bén trong việc ứng dụng các quy luật phát triển của lịch sử vào hoàn cảnh cụ thể
của Việt Nam. Qua đó, niềm tin về một tương lai đất nước hùng cường, thịnh
vượng, dân chủ, công bằng, văn minh mà Đảng và nhân dân ta hằng mong ước
ngày càng được hiện thực hóa.
6 Vũ Văn Phúc (2011), Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam – một tất yếu
lịch sử, Tạp chí Tuyên giáo.