Lý thuyết khái quát chung về Luật La Mã | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Rome, Roman hay La Mã là tên gọi được dùng để chỉ nhiều đối tượngkhác nhau. Trước hết, đó là tên của Romulus, người mà theo truyền thuyết đãthành lập nên thành phố Rome bên bờ sông Tiber thuộc đất nước Italy ngày nayvàokhoảngnăm 753trướccôngnguyên(TCN).Cũngtheotruyềnthuyết,Romulus và Remus là những hậu duệ của Aeneas, người đã bỏ chạy khỏi thànhTroy sau khi thành bang này sụp đổ trong cuộc chiến con ngựa thành Troy. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Luật la mã 19 tài liệu

Thông tin:
16 trang 3 tháng trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Lý thuyết khái quát chung về Luật La Mã | Trường Đại học Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Rome, Roman hay La Mã là tên gọi được dùng để chỉ nhiều đối tượngkhác nhau. Trước hết, đó là tên của Romulus, người mà theo truyền thuyết đãthành lập nên thành phố Rome bên bờ sông Tiber thuộc đất nước Italy ngày nayvàokhoảngnăm 753trướccôngnguyên(TCN).Cũngtheotruyềnthuyết,Romulus và Remus là những hậu duệ của Aeneas, người đã bỏ chạy khỏi thànhTroy sau khi thành bang này sụp đổ trong cuộc chiến con ngựa thành Troy. Tài liệu giúp bạn tham khảo và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

53 27 lượt tải Tải xuống
lOMoARcPSD| 45988283
Trần Kiên
Chương 1. Khái quát chung về luật La
1.1. Sự hình thành Nhà nước La cổ đại
Rome, Roman hay La tên gọi được dùng để chỉ nhiều đối tượng
khác nhau. Trước hết, đó tên của Romulus, người theo truyền thuyết đã
thành lập nên thành phố Rome bên bờ sông Tiber thuộc đất nước Italy ngày nay
vào khoảng năm 753 trước công nguyên (TCN). Cũng theo truyền thuyết,
Romulus và Remus những hậu duệ của Aeneas, người đã bỏ chạy khỏi thành
Troy sau khi thành bang này sụp đổ trong cuộc chiến con ngựa thành Troy. Từ
một thành phố nhỏ do những người di cư xây dựng bên bờ song Tiber, Rome đã
phát triển suốt hơn 1000 năm, trở thành một trong những đế chế hùng mạnh
nhất trong lịch sử nhân loại. Lịch sử La trải qua ba thời kỳ chính. Thời kỳ
Vương chính (753 TCN 500 TCN); thời kỳ Cộng hòa (500 TCN 44 TCN),
thời kỳ Đế chế (44 TCN thế kỷ VI SCN).
1.1.1. Thời kỳ Vương chính (753 TCN - 500 TCN)
Thời kỳ Vương chính giai đoạn đầu tiên của lịch sử La Mã. Giai đoạn
này còn được biết đến giai đoạn trị của bẩy vị vua. Do đó, tên gọi
Vương chính. Giai đoạn này bắt đầu từ khi Romulus thành lập thành Rome cho
đến Tarquinius Superbus. Trong hơn 200 năm đầu này, La chứng kiến sự
hình thành một số thiết chế công quan trọng, đặc biệt Senate (Viện nguyên
lão). Viện nguyên lão đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành La Mã. Về
sau, Viện nguyên lão trở thành biểu tượng quyền lực sự giàu của La Mã.
Rolumus cũng là người đã phân chia công dân La Mã vào ba bộ tộc (Tribe), mỗi
bộ tộc 10 hội đồng (Curiae) các đơn vị hành chính chính trị quyền
bỏ phiếu của La Mã. Đây cũng chính các nghị viện nguyên thủy (Comitia
Tiến sĩ, giảng viên Bộ môn Luật dân sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Nội
E: trankien@vnu.edu.vn
1
lOMoARcPSD| 45988283
curiata). Chức năng chính của các hội đồng bỏ phiếu bầu Vua. Thời này
chưa chế độ nối ngôi.
Vào cuối thời Vương chính, nhất dưới sự cai trị của ba vua
Tarquinious Priscus, Servius Tullius Tarquinius Superbus lãnh thổ La
được mở rộng đáng kể qua các cuộc chinh phạt. Đến khoảng năm 510 TCN,
lãnh thổ La Mã rộng khoảng 300 – 400 dặm vuông, là thành bang lớn nhất trong
số các cộng đồng Latin lúc đó.
Năm 510 TCN xảy ra một sự kiện quan trọng, một cuộc chính biến của
tầng lớp quan lại đã xảy ra chống lại vua Tarquinius Superbus bởi nhiều do.
Một phần bắt nguồn từ cách cai trị độc đoán của vua Tarquinius. Cuộc chính
biến thành công không chỉ trục xuất Tarquinius ra khởi La Mã mà còn đồng thời
chấm dứt luôn chế độ Vương chính. La chuyển sang thời cộng hòa.
1.1.2. Thời kỳ Cộng hòa (500 TCN - 44 TCN)
Thời Cộng hòa kéo dài từ năm 510 TCN đến khoảng năm 44 SCN khi
Augustus trở thành Hoàng đế chấp chính của toàn bộ thế giới La Mã. Đây
thờiLa đạt được nhiều thành tựu to lớn cả về kinh tế, chính trị, hội.
a. Thành tựu về chính trị chính quyền
Trong thời cộng hòa, nhiều thiết chế chính quyền mới được thành lập bao
gồm:
Tổng tài hay đại pháp quan (consuls). Tổng tài là chức vụ mới được xây
dựng để thay thế cho Vua trong thời Vương chính. hai tổng tài trong thời
này được bầu ra bởi comitia centuriata được phê chuẩn bởi Viện nguyên
lão. Nhiệm của Tổng tài kéo dài trong vòng một năm. Về nguyên tắc, Tổng
tài quyền lực tuyệt đối tuy nhiên các tổng tài bắt buộc phải tham vấn nhau
trước khi ra quyết định. chế này nhằm ngăn chặn các tổng tài trở thành độc
đoán, chuyên quyền nhưng cũng nhược điểm thể khiến cho việc thực
hiện quyền hạn của tổng tài bị liệt khi người còn lại thường xuyên thực hiện
quyền phủ quyết. Trong khoảng 80 năm đầu tiên của chế độ Cộng Hòa, thực
tế rằng nhiều tướng lĩnh quân sự được bầu để thực hiện quyền lực của tổng tài
2
lOMoARcPSD| 45988283
(military tribunes) theo đề xuất của Viện nguyên lão. Điều này bắt nguồn từ
thực tế chiến tranh liên miên của La Mã với các quốc gia lân bang.
Pháp quan pháp (praetors) chức vụ này được thành lập vào năm 367 TCN
với mục đích giảm bớt thẩm quyền tài phán của tổng tài. Pháp quan tư pháp
được bổ nhiệm bởi comitia ceturiata và đóng vai trò là người đứng đầu hệ thống
pháp luật của La Mã, giống như chức vụ Bộ trưởng pháp hiện nay. Ban đầu,
họ chỉ thẩm quyền với công dân La trong phạm vi thành Rome, do đó
thường được gọi pháp quan pháp đô thị (urban praetors). Pháp quan
pháp đóng vai trò quan trọng to lớn trong sự phát triển của luật dân sự La
Mã.
Pháp quan tài chính (quaestors) chức danh này được thiết lập để giúp c
tổng tài về mặt tài chính, ngân sách. Họ cũng do comitia centuriata bầu cho
đến năm 421 phải quý tộc La (patrician). Tuy nhiên, họ cũng được trao
các thẩm quyền khác dụ như giúp đỡ tổng tài về phương diện pháp hình
sự. Trong giai đoạn cuối của Đế chế La Mã, pháp quan tài chính trở thành pháp
quan chủ chốt của chính quyền về pháp luật, theo sau sự suy tàn của chức danh
pháp quan pháp.
Pháp quan thống (censors) được thiết lập năm 443 TCN bởi comitia
centuriata, pháp quan thống giúp tổng tài thực hiện chức trách thống
phân loại người La theo các tiêu chí về sự giàu có, nguồn gốc bộ tộc,
chức danh quân sự. Số liệu thống vai trò rất quan trọng xác định thẩm
quyền bỏ phiếu, gia nhập qua đội hay đóng thuế. Ngoài ra, trên nguyên tắc các
pháp quan này còn thẩm quyền bổ nhiệm thành viên Viện nguyên lão. Cho
trên thực tế họ chỉ thẩm quyền bãi miễn cách thành viên. Ngoài ra,
pháp quan thống kê còn có thẩm quyền thu thuế và giải ngân thanh toán các hợp
đồng có một bênnhà nước. Do vậy, chức danh này rất quyền lực.
Bảo dân quan (tribunes) những người được bầu để đại diện cho tầng lớp
thứ dân (plebeians). Họ chủ tọa hội đồng thứ dân (concilium plebis) cơ quan lập
pháp của tầng lớp thứ dân. Họ thành viên của Viện nguyên lão quyền
3
lOMoARcPSD| 45988283
triệu tập Viện. Họ quyền phủ quyết các pháp quan khác để bảo vệ các
nhân chống lại các hành vi lạm quyền. Từ năm 449 TCN bảo dân quan bất
khả xâm phạm. Bất kai công kích hoặc gây phương hại đến việc thực hiện
nhiệm vụ của họ thể bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi hội đồng thứ dân.
Điều này khiến các bảo dân quan trở thành đối trọng nguy đối với Viện
nguyên lão.
Quan thị chính (aedile) là những người quản lý đô thị và dân cư thành thị. Ví
dụ như đảm bảo việc cung cấp nước, lương thực cho thành phố.
Một trong những động lực phát triển chính của La trong thời Cộng
Hòa là sự xung đột giữa hai tầng lớp quý tộc và thứ dân. Những năm đầu thời kì
Cộng Hòa chứng kiến việc tuyệt đại đa số các chức danh quan trọng đều nằm
trong tay giới quý tộc. Ngoài ra, các nghị quyết của Hội đồng thứ dân
(plebiscite) đều không giá trị áp dụng đối với mọi người, chưa kể đến các
đạo luật bất bình đẳng áp dụng riêng cho tầng lớp thứ dân như cấm họ nhận
chuyển nhượng quyền sở hữu đất đai đang thuộc về nhà nước. Do đó, đã xảy ra
những xung đột đấu tranh đòi hỏi quyền lợi của tầng lớp thứ dân. Dần dần,
giai cấp quý tộc đã phải nhượng bộ. Nhượng bộ quan trọng nhất ý nghĩa
đối với sự phát triển của luật La Mã chính là việc ban hành Luật Mười Hai Bảng
năm 451 450 TCN. Bộ luật thành văn đầu tiên của La Mã. Bộ luật ban hành
trước cáo buộc rằng các tổng tài cai trị theo lối chuyên quyền độc đoán. do
đó, phải ban hành các quy định ràng, chi tiết để áp dụng trong việc quản trị
nhà nước. Tiếp sau sự ban hành Bộ luật mười hai bảng, các nghị quyết của hội
đồng thứ dân cũng được thừa nhận giá trị pháp bắt buộc đối với tất cả
công dân La Mã, bao gồm cả tầng lớp quý tộc tuy nhiên phải được sự phê chuẩn
trước của Viện nguyên lão.
Tiếp sau các thành công nêu trên, tầng lớp thứ dân tiếp tục đạt được các
nhượng bộ quan trọng khác dnhư một trong hai tổng tài phải người của
tầng lớp thứ dân. Năm 287 TCN, Lex Hortensia được ban hành bãi bỏ quy định
các luật do hội đồng thứ dân ban hành phải được Viện nguyên lão phê chuẩn.
4
lOMoARcPSD| 45988283
Kể từ đây, hội đồng thứ dân trở thành quan nghị viện rất quyền lực của nền
Cộng hòa La Mã.
b. Mở rộng lãnh thổ
Giai đoạn cộng hòa cũng chứng kiến La thành công trong việc mở rộng
lãnh thổ cả trong ngoài nước Italy. La đánh bại Hannibal để giành
quyền kiểm soát Tây Ban Nha, kể từ đó mở đường kiểm soát toàn bộ Địa Trung
Hải. Cái chết của Alexander đại đế năm 323 TCN dẫn đến sự sụp đổ sáp
nhập của đế chế Macedonia vào La Mã. Julius Caesar tiếp nối chiến thắng của
La Mã bằng việc xâm lược nước Anh (hai lần) và Ai Cập để mở rộng bờ cõi của
La Mã.
c. Sự sụp đổ của nền cộng hòa
Mặc vận hành trong thời gian dài, nhưng các thiết chế chính quyền của
nền cộng hòa ẩn chứa những khiếm khuyết nghiêm trọng. Thiết chế hai tổng tài
cùng với quyền phủ quyết lẫn nhau một dụ. Việc trao các thẩm quyền về
quân sự, hành pháp, tư pháp cho các pháp quan đối nghịch nhau cũng một
vấn đề. Đặc biệt, chế độ cộng hòa dựa rất nhiều vào thiết chế Viện nguyên lão.
Trong thời gian đầu, khi Viện nguyên lão vận hành hiệu quả thì nền cộng hòa tỏ
ra rất bền vững. Nhưng thời gian sau khi quyền lực của Viện nguyên lão bắt đầu
bị thách thức vì số phận của nền cộng hòa cũng bị đe dọa. Kể từ năm 133 TCN,
nền cộng hòa bị đe dọa làm suy yếu bởi một loạt các tổng tài như anh em
Gracchi, vốn xuất thân thứ dân. Sau đó, những tướng lĩnh quân sự như
Marius, Sulla, Prompey cũng thường xuyên tiếm vượt quyền Viện nguyên
lão. Đặc biệt là vai trò của Julius Ceasar, sau khi thành công trong việc trục xuất
Prompey khỏi Rome, Ceasar trở thành lãnh tụ tuyệt đối của La Mã, tự bổ nhiệm
mình thành tổng tài quân sự suốt đời và duy nhất cho đến khi bị ám sát vào năm
44 TCN bởi những thành viên Viện nguyên lão. Đó cũng chính khi sphận
nền cộng hòa được định đoạt. Augustus, một tướng trẻ thân cận của Ceasar
được Ceasar chỉ định là người thừa kế đã liên minh với các tưỡng lĩnh khác tiến
hành cuộc chiến trả thù những người cộng hòa đã ám sát Ceasar. Năm 43 TCN
5
lOMoARcPSD| 45988283
một số lượng lớn thành viên Viện nguyên lão những người ủng hộ nền cộng
hòa bị sát hại. Năm 31 TCN, Augustus chiến thắng trong cuộc chiến tranh giành
quyền lực với Anthony, đồng minh cũ, chính thức trở thành Hoàng đế đầu tiên
của Đế chế La Mã.
1.1.3. Thời kỳ đế chế (44 TCN - thế kỷ VI SCN)
Kể tkhi Augustus lên ngôi hoàng đế vào năm 27 TCN, La chuyển
sang thời đế chế trong đó chính quyền, hay chính xác hơn quyền lực nhà
nước tập trung vào một người duy nhất, hoàng đế thay một quan dân cử.
Trong năm này, Augustus Viện nguyên lão đạt được thỏa thuận về tái tổ
chức bộ máy nhà nước. Theo đó La sẽ được cai trị bởi Công dân thnhất
(princeps) hay hoàng đế với sự cộng tác của Viện nguyên lão. Bên cạnh đó, các
quận hay vùng lãnh thổ dưới quyền cai trị của La cũng được phân chia
thành hai loại. Một loại do hoàng đế trực tiếp cai trị. Một loại do Viện nguyên
lão quản lý. Cho trở thành hoàng đế với quyền lực tuyệt đối, Augustus cũng
rất khéo léo trong việc sử dụng quyền lực của mình. Không chỉ thâu tóm quyền
lực nhà nước, Augustus còn trở thành thủ lĩnh tôn giáo. La bước sang giai
đoạn đế quốc.
Trong giai đoạn này, tuy các thiết chế cũ của thời kì cộng hòa vẫn còn tồn
tại nhưng vai trò quyền lực bị giảm sút đáng kể. Đặc biệt họ dưới quyền
của hoàng đế. Tuy nhiên, đây cũng chính giai đoạn La phát triển nhất
với lãnh thổ rộng lớn nhất. Năm 235 SCN hoàng đế Alexander Severus bị sát
hại dẫn đến thời 50 năm bạo loạn nguyên nhân mở màn cho sự tan của
đế quốc La Mã. Năm 312 SCN hoàng đế Constantine cải đạo sang đạo Thiên
chúa, khởi động quá trình biến La thành một quốc gia theo đạo thiên chúa.
Sau khi Constantine qua đời vào năm 337 SCN, đế chế La bắt đầu bị phân
chia giữa các con của Constantine. Tuy nhiên, sự kiện có tính bản lề cho sự sụp
đổ của đế chế La xảy ra vào năm 395 SCN khi Theodoius I qua đời. Hai
người con của Theodoius I thỏa thuận phân chia La thành hai đế quốc, Tây
6
lOMoARcPSD| 45988283
La Mã và Đông La Mã. Cả hai đế quốc bình đằng và ngang hàng với nhau và có
chủ quyền trong phần lãnh thổ của mình.
Sự phân chia làm suy yếu đế chế La đặc biệt Tây La vốn
thường xuyên nằm dưới sự đe dọa tấn công của các bộ lạc Đức thiện chiến.
Năm 476 SCN, hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La Mã, Romulus Augustus
bị trục xuất khỏi Rome. Tây La chính thức sụp đổ.
Nằm cách xa Italy và sự đe dọa của các bộ lạc Đức, đế quốc Đông La Mã,
lúc này được biết đến với tên gọi đế quốc Byzantine thoát khỏi số phận diệt
vong tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến tận thế kỉ 15. Chính một hoàng đế
của đế quốc Đông La Mã, Justinian I khi lên ngôi vào năm 527 SCN đã bắt đầu
công trình tuyển tập luật La nổi tiếng Corpus Juris Civilis (tổng tập pháp
luật dân sự) với ba phần Codex (luật), Institutes (giảng giải), Digest (nguyên
lý) phần cuối cùng được đưa vào sau khi Justinian qua đời Novellae (bao
gồm các luật được ban hành sau năm 534). Sự hồi sinh của luật La vào thế
kỉ 12, phát triển và trở thành luật chung (jus commune) của châu Âu sau đó
phần lớn nhờ vào việc nghiên cứu và tìm hiểu bộ tổng luật này.
1.2. Hệ thống luật La
Luật La Mã là hệ thống pháp luật được hình thành, xây dựng và phát triển
trong giai đoạn nhà nước La tồn tại. Do lịch sử phát triển phức tạp, trải dài
qua nhiều thế kỉ với các mô hình chính thể khác nhau nên cũng dễ hiểu rằng luật
pháp La cũng rất phức tạp khác nhau qua từng thời kì. Dưới góc độ
nghiên cứu cả kỹ thuật lập pháp hệ thống pháp luật La thể được tiếp
cận phân tích theo nhiều cách khác nhau. Theo từng thời phát triển ứng
với các hình chính quyền. Theo sự phân loại thành luật dành cho công dân
La (ius civile), luật quan (ius honorarium), luật vạn dân (ius gentium).
Ngoài ra, luật La còn thể được phân loại thành luật công (ius publicium)
luật (ius privatum).
1.2.1. Sự phân biệt giữa luật công với luật
7
lOMoARcPSD| 45988283
Phân loại luật La Mã thành luật công và luật tư là một cách phân loại kinh
điển có ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến tận ngày nay.
Luật công liên quan đến các vấn đề thuộc về nhà nước La trong khi
luật quan tâm đến quyền lợi của các nhân bởi có vấn đề bản chất công
cộng trong khi các vấn đề lại bản chất nhân. Luật công bao gồm các
quy tắc điều chỉnh tôn giáo, tăng lữ, quan lại. Định nghĩa nổi tiếng của
Ulpian trong Digest là nền tảng căn bản cho sự phân biệt luật công luật
trong luật La Mã.
Cách phân chia luật công luật tư dựa vào bản chất của quan hệ đối
tượng điều chỉnh. Các quan hệ đối tượng của luật công các vấn đề liên
quan đến quyền lực công cộng, thể quyền lực nhà nước hay quyền lực tôn
giáo. Trong khi đó, các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của luật các quan
hệ không liên quan đến quyền lực công, phát sinh giữa các nhân.
Trên thực tế, trong khi luật được phát triển một cách mạnh mẽ trở
thành nền tảng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa hiện đại thì luật công La
Mã lại kém phát triển hơn. Có ít quy định liên quan đến luật công được tìm thấy
cũng rất ít luật gia La nghiên cứu, bình luận về chủ đề luật công.
Chính vậy, khi nghiên cứu tìm hiểu về luật La Mã, đối tượng chủ yếu luật
tư và cũng chính luật tư La Mã đã trở thành ius commune (luật chung) của châu
Âu theo bước chân thực dân của người châu Âu vươn ra toàn thế giới. Luật
La Mã cũng sẽ là đối tượng nghiên cứu chính của tác phẩm y.
1.2.2. Đối tượng điều chỉnh nguồn của luật La Mã
1.2.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật La
Luật gia Gaius đã nhận định trong tác phẩm Institutes nổi tiếng của mình
về phân loại pháp luật rằng tất cả luật pháp của chúng ta đều về chủ thể
(persons), vật (things), tố quyền (actions). Theo nhận định này, chúng ta
thể nhận thấy đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật tư La về: (1) các chủ
thể, những người được pháp luật thừa nhận năng lực nắm giữa hành xử
quyền lợi; (2) các loại quyền lợi khác nhau chủ thể thể nắm giữ
8
lOMoARcPSD| 45988283
cách thức xác lập quyền; (3) các phương thức bảo vệ quyền của chủ thể (tố
tụng). Khi đưa tác phẩm Institutes của Gaius vào bộ Tổng tập pháp luật dân sự,
Justinian đã làm thêm các đối tượng của luật tư La bằng cách phân loại
chúng. Theo đó luật tư La Mã điều chỉnh các vấn đề về chủ thể (bao gồm cả hôn
nhân và gia đình), luật tài sản (vật quyền và trái quyền), luật về hợp đồng và đắc
lợi vô căn, luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm cả dân sự phạm
(có lỗi) và chuẩn dân sự phạm (vô ý), luật về tố quyền.
Liên quan đến quyền dân sự, khoa học pháp hiện đại đã phân tích
chỉ ra rằng các loại quyền lợi chủ thể La thể nắm giữ hành xử
các quyền tài sản quyền tinh thần. Quyền tài sản các quyền một giá trị
kinh tế nhất định phát sinh giữa các chủ thể. Quyền tài sản thể được phân
loại thành vật quyền trái quyền. Vật quyền quyền hành xử trực tiếp trên
vật bao gồm quyền sở hữu, chiếm hữu, và địa dịch (các quyền đối với vật thuộc
quyền sở hữu của người khác) các vật quyền phụ thuộc (cầm cố, thế chấp).
Trái quyền hay quyền đối nhân quyền yêu cầu người khác phải chuyển giao
một vật, làm hay không được làm một công việc nhất định. Quyền đối nhân
thể phát sinh từ các nguồn gốc hợp đồng, chuẩn hợp đồng, dân sự phạm
chuẩn dân sự phạm. Tố quyền, tùy thuộc vào việc được thực hiện nhằm bảo vệ
một vật quyền hay một trái quyền sẽ được phân loại tương ứng.
Ngược lại, quyền tinh thần liên quan đến các giá trị gắn liền với nhân
thân của mỗi chủ thể dụ như quyền gia trưởng, danh dự uy tín nhân phẩm.
Thế nên về nguyên tắc các quyền này không có giá trị kinh tế. Các quan hệ nhân
thân do luật La điều chỉnh phản ánh bản nét chất hội nhà nước của
La cổ đại. dụ như tính chất phi tài sản không tuyệt đối hoặc tính chất bất
bình đẳng. Hay người cha trong luật La Mã là có quyền gia trưởng đối với vợ và
con của mình.
1.2.2.2. Nguồn của luật tư La
Khoa học pháp hiện đại phân biệt khái niệm nguồn nội dung nguồn
hình thức của pháp luật. Nguồn nội dung các điều kiện kinh tế, văn hóa,
9
lOMoARcPSD| 45988283
hội, chính trị đương thời quyết định sự hình thành, phát triển, nội dung của
các quy phạm pháp luật. dụ như nhà nước La cổ đại được phát triển trên
sở chiếm hữu lệ. Do đó, lệ không được pháp luật coi người, chủ thể
của quyền lợi trái lại tài sản thuộc sở hữu của những công dân La Mã.
Trong khi đó, nguồn hình thức hình thức biểu hiện của nội dung quy phạm
hay nơi chúng ta thể tìm kiếm một quy tắc áp dụng cho một tình huống cụ
thể. Đó thể luật thành văn do các quan thẩm quyền ban hành, tập
quán, hay các bình luận của các luật gia nổi tiếng giá trị như luật. Đây
cũng là khái niệm nguồn mà chúng ta cần tìm hiểu. Do lịch sử phát triển lâu dài,
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nên nguồn của luật La thế cũng
phức tạp. Nguồn của luật La cổ đại về căn bản thể phân loại thành
nguồn thành văn (luật, nghị quyết của Viện nguyên lão, sắc chỉ của hoàng đế,
quyết định của các pháp quan, luận giải của các luật gia) ; nguồn bất thành
văn (tập quán). Mỗi thời lại một loại nguồn đóng vai trò chủ đạo của hệ
thống pháp luật.
a. Nguồn của luật dưới thời Vương chính
Sử liệu còn sót lại cho thấy luật dưới thời Vương chính luật pháp xuất
phát chủ yếu từ hai nguồn chính là tập quán các sắc chỉ của Vua.
Tập quán là các quy tắc bất thành văn (ius non scriptum). Đó các quy
tắc xử sự đã được thiết lập thực hành một cách vững chắc đến mức giá trị
ràng buộc như luật. Đây cũng nguồn đầu tiên của luật La Mã. Nhiều quy
định của luật tư La Mã có nguồn gốc tập quán. Ví dụ như một số quy định trong
lĩnh vực gia đình : Sự thành lập, cấu trúc và hoạt động hay vị trí của người gia
trưởng (paterfamilias)
Các sắc chỉ của Vua (Royal decrees). Các sắc chỉ này có giá trị ràng buộc
như luật. Tuy nhiên vẫn các nghi ngờ về hình thức phạm vi của các quy
phạm pháp luật trong thời nguyên thủy này. Một số sử gia cho rằng các sắc chỉ
của Vua trong giai đoạn này chỉ là những tập hợp của các tập quán chủ chốt,
nhiều trong số đó liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng.
10
lOMoARcPSD| 45988283
b. Nguồn của luật dưới thời cộng hòa
Trong giai đoạn cộng hòa La Mã, nguồn luật chủ yếu các văn bản quy
phạm pháp luật, những chỉ thị của các pháp quan những lời biện giải của các
luật gia.
Văn bản quy phạm pháp luật (legislation). Văn bản pháp luật quan trọng
nhất của giai đoạn này chính là Bộ luật mười hai bảng. Nội dung của Luật mười
hai bảng bao gồm các tập quán pháp chủ chốt của La Mã đương thời, một số sắc
chỉ của Vua một số bổ sung, sáng tạo mới. Nội dung của các quy định trong
luật 12 bảng thể chia thành các quy phạm thuộc luật công các quy phạm
thuộc luật tư. Trong đó luật là chiếm đa số. Người La coi luật 12 bảng
khởi nguồn của luật dân sự của mình. Các quy định dân sự trong đó bao gồm cả
các quy định về luật tố tụng lẫn luật nội dung. dụ Bảng IV bao hàm các
nguyên tắc căn bản của luật gia đình La Mã.
Chỉ thị, quyết định của các pháp quan (edits). Các pháp quan cấp cao
quyền ban hành các chỉ thị, giá trị ràng buộc trong phạm vi quản của
mình. Chính các chỉ thị của các pháp quan trong giai đoạn hậu cộng hòa đã góp
phần cải cách luật dân sự La Mã, thường được biết đến dưới tên gọi ius
honorarium. Các chỉ thị này bổ sung cho bộ phận chính của luật dân sLa Mã,
ius civile (luật dành cho công dân La Mã).
Biện giải của các học giả (interpretatio) biện giải của các học giả góp
phần làm ý nghĩa của các quy định hiện này. Về bản chất, những bình luận
này không phải nguồn luật trực tiếp. Nhưng chính trong quá trình bình luận
các quy định mới hoặc các trường hợp áp dụng tương tự được phát hiện.
Trong thời đầu của nền cộng hòa tăng lữ những người thực hiện công tác
bình luận luật chủ chốt. Bên cạnh đó, các luật gia cũng đóng vai trò quan trọng.
Một số luật gia nổi tiếng của thời ày Aelius, Scaevola, Gallus.
c. Nguồn luật dưới thời đế chế
Luật La dưới thời đế chế thường được chia thành hai thời kì. Thời
đầu kéo dài khoảng 250 năm được gọi thời kì luật La cổ điển. Thời 300
11
lOMoARcPSD| 45988283
năm sau cho đến khi Justinian ban hành bộ Corpus juris civilis là thời hậu cổ
điển. Trong thời luật cổ điển biện giải các sắc lệnh của hoàng đế đóng vai
trò nguồn luật quan trọng. Sang đến giai đoạn hậu cổ điển, sắc lệnh hoàng đế
gần như trở thành nguồn luật duy nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật (legislation). Tuy các sắc lệnh của hoàng đế
là nguồn luật thành văn quan trọng nhất thì quy định do Viện nguyên lão các
nghị viện nhân dân ban hành vẫn những giá trị nhất định. Đặc biệt là Viện
nguyên lão, tuy không thẩm quyền ban hành pháp luật trực tiếp nhưng do
mối quan hệ gần gũi với Hoàng đế, người đồng thời đứng đầu Viện nguyên lão
nên các nghị quyết của Viện được xem giá trị rất cao. Ngoài ra, còn phải
kể đến các chỉ thị do Hoàng đế ban hành. Các edicta ban hành dưới sự vấn
của các pháp quan. Các decreta các quyết định xét xử tranh chấp do chính
Hoàng Đế thụ lý. Các mandata các chỉ đạo cấp dưới thực thi quyền hạn của
mình. Các rescripta các trả lời chính thức của Hoàng Đế đối với các vấn đề
gửi đến xin ý kiến. Đó đều là các nguồn chính thức của luật.
Các chỉ thị của pháp quan (edicts) Chỉ thị của các pháp quan chỉ có giá trị
trong giai đoạn ban đầu của nền đế chế. Sau này cùng với vai trò giảm sút của
các pháp quan thì chỉ thị của họ cũng mất dần đi giá trị ràng buộc.
Biện giải của các luật gia. Các biện giải của luật gia đóng vai trò quan
trọng trong giai đoạn luật cổ điển của thời đế chế. Các luật gia đóng góp vào
việc xây dựng các quy phạm pháp luật qua nhiều cách khác nhau như vấn,
giảng dạy hay viết lách. Một số luật gia nổi tiếng Labeo, Paul, nhất
Ulpian.
d. Bộ tổng tập pháp luật dân sự
Nguồn luật quan trọng nhất có vai trò tổng hợp của luật tư La Mã chính là
bộ tổng tập pháp luật dân sự corpus juris civilis do Justinian, hoàng đế của đế
quốc Đông La ra lệnh chuẩn bị vào thế kỉ thứ 6 SCN. Bộ tổng tập ban đầu
ba phần. Sau này được bổ sung thêm một phần mới. Ba phần ban đầu
Codes, Digest và Institutes
12
lOMoARcPSD| 45988283
Đầu tiên Justinian thành lập một hội đồng 10 người để tập hợp tất cả
các quy định do Hoàng đế ban hành vẫn còn hiệu lực gọi bộ Codex. Hoàn
thành vào năm 529 SCN, bộ Codex thay thế hiệu lực cho tất cả các văn bản đã
được ban hành trước đó. Sau đó, Justinian lại chỉ đạo chuẩn bị phần Digest, tác
phẩm trung tâm của bộ tổng tập, dưới hình thức một bách khoa toàn thư về luật
pháp đồng thời là nguồn quan trọng nhất để nghiên cứu luật La về sau này.
Về bản Digest chọn lọc chứa đựng các nguyên tắc pháp cốt yếu được
tìm thấy trong gần 2000 tác phẩm của các luật gia. Các nguyên tắc này được
nghiên cứu phát biểu lại dưới dạng tổng quát, trừu tượng nhằm thực hiện vai
trò của các nguyên tắc pháp tổng quát, bất biến. Chính vì vậy, Digest sau này
đã được các luật gia châu Âu đánh giá cao đóng vai ttrung tâm trong quá
trình tái tiếp nhận luật La Mã.
Institutes đóng vai t một quyển sách giáo khoa về luật pháp nhằm
giải thích và dậy cho sinh viên về ý nghĩa của Digest. Institutes chủ yếu dựa trên
tác phẩm Institutes của Gaius và do đó, được chia thành bốn quyền. Quyển 1 về
người (chủ thể). Quyển 2 về vật. Quyển 3 về các phương thức xác lập quyền với
vật. Và Quyển 4 về tố quyền hình thức của tố quyền.
Phần thứ 4 của bộ tổng tập, Novellae được bổ sung vào năm 534 SCN sau
khi Justinian đã qua đời. Phần này bao gồm các sắc chỉ của hoàng đế mới được
ban hành sau khi bộ Codex ra đời.
1.2.3. Các yếu tố cấu thành hệ thống luật La
Như trên đã trình bày, luật La thể được phân loại theo nhiều tiêu
chí, dụ như luật công luật tư. Đối với luật La các yếu tố cấu thành
quan trọng nhất ba hệ thống quy phạm được áp dụng cho ba nhóm chủ thể
khác nhau. Đó là luật dành cho công dân La (ius civile), luật dành cho vạn
dân (ius gentium), luật quan (ius honororium).
1.2.3.1. Luật dành cho công dân La
Mở đầu tác phẩm Institutes nổi tiếng của mình Gaius nhận định tất cả
mọi người đều được điều chỉnh bởi luật pháp và tập quán trong đó một phần áp
13
lOMoARcPSD| 45988283
dụng cho riêng họ, một phần thì áp dụng cho tất cả mọi người. Luật mà mỗi dân
tộc ban hành cho riêng mình thì gọi là luật nhà nước. Còn luật, bởi các lý do tự
nhiên, áp dụng cho tất cả mọi người thì được áp dụng như nhau ở mọi nơi. Đây
được goi luật vạn dân. Luật của dân tộc La cũng một phần áp dụng
riêng cho dân La một phần áp dụng chung cho c sắc dân khác. Bằng
nhận định này Gaius đã chỉ ra phạm vi sở cho luật dành riêng cho ng
dân La những luật dành cho người quốc tịch La luật áp dụng
cho những người khác. Luật dành riêng cho công dân La gọi ius civile
quiritium. Luật này do các pháp quan tư pháp đô thị áp dụng. Đây là tập hợp các
quy phạm áp dụng riêng đối với các công dân La shành xử quyền lợi
của họ. Đây cũng là bộ phận quan trọng nhất cấu tạo nên luật dân sự La Mã.
Ban đầu, việc tồn tại ius civile riêng bình thường do phạm vi nhỏ hẹp của La
Mã. Nhưng khi La mở rộng trở thành một đế quốc thì càng ngày càng
nhiều người nước ngoài đến La sinh sống. Từ đó phát sinh hai nhu cầu
luật áp dụng cho riêng họ khi sống các thành bang của La luật áp dụng
khi họ xác lập quan hệ với một công dân La Mã.
1.2.3.2. Luật vạn dân
Sự xuất hiện của nhóm chủ thể mới trên ius civile cho thấy sự cứng
nhắc và thiếu hiệu quả. Do vậy, một hệ thống các quy phạm mới được phát triển
đề áp dụng riêng cho những người nước ngoài sống La khi họ xác lập
quan hệ với công dân La Mã. Bộ phận này được gọi là luật vạn dân (ius
gentium) và do pháp quan tư pháp ngoại giao áp dụng (praetor peregrinus). Luật
vạn dân áp dụng cho tất cả mọi người. Ius gentium về sau được coi là một trong
những nền tảng của luật quốc tế hiện đại.
Ius gentium được nhận định bắt nguồn từ luật tự nhiên như Gaius đã
tuyên bố. Cicero lập luận rằng ius gentium là luật pháp cao hơn về mặt nghĩa vụ
đạo đức, ràng buộc mọi người hơn cả các yêu cầu của luật dân sự thông thường.
dụ một công dân La phải đi tnạn, dù mất đi cách công dân của mình
do đó không còn áp dụng ius civile thì vẫn được bảo vệ bởi các quy định của
14
lOMoARcPSD| 45988283
ius gentium. Ius gentium thường bao gồm các quy định về chiến tranh, lợi ích
quốc gia, chủ quyền và hoàng tộc, sở hữu và giới hạn tài sản, định cư và thương
mại. Đặc biệt, Justinian nêu ra hai dụ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật vạn
dân lệ hợp đồng, trừ những quy định áp dụng riêng của ius civile. Do
đó, Ius gentium trở thành một bộ phận bổ khuyết quan trọng cho ius civile.
1.2.3.3. Luật quan
Bên cạnh ius civile và ius gentium, trong giai đoạn sau này, nhất từ
thời Cộng Hòa một hệ thống các quy tắc khác cũng xuất hiện được gọi luật
quan (ius honorarium). Gọi là luật quan bởi đây là các quy tắc do các pháp quan
ban hành theo thẩm quyền áp dụng trong các lĩnh vực do mình phụ trách.
Một phần lớn các luật quan quan trọng do các pháp quan pháp ban hành
trong quá trình giải quyết các tranh chấp. thế hình thức giống như
các án lệ. Ban đầu các án lệ này chỉ ràng buộc chính các pháp quan đã ban hành
nó. Nhưng dần dần, các pháp quan sau cũng thường xuyên tham khảo các án lệ
trước đó trước khi ra quyết định của riêng mình. Năm 67 TCN một đạo luật lex
Cornelia de edicti được ban hành yêu cầu các pháp quan phải tuân theo chính
các phán quyết hay chỉ thị của mình.
Nội dung các quy định của luật quan rất đa dạng, tùy thuộc vào phạm vi
điều chỉnh thẩm quyền. Các luật quan ưu điểm cập nhập thường xuyên
bởi các pháp quan giải quyết công việc hàng ngày. Đa số các quy định này là để
bổ sung cho ius civile đạt đến đỉnh cao của sự phát triển vào thế kỉ thứ 2
SCN với sự ban hành Edictum Perpetuum.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Minh Tuấn các tác giả khác, Giáo trình Luật La (NXB Công an
nhân dân 2003) tr.5-36.
Tam Tư, Luật Rooma, khế ước nghĩa vụ (Trường đại học tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh …..) tr.3-13.
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật La (NXB Chính trị quốc gia 2009) tr.7-
9.
15
lOMoARcPSD| 45988283
Andrew Borkowski Paul Du Plessis, Textbook on Roman Law (Oxford
University Press 2005) tr.1 63.
The Institutes of Gaius (trans W.M. Gordon & O.F.Robinson, Duckworth
1988).
David Johnston, ‘The general influence of Roman institutions of state and
public law’ Roman Law Resources (www.IusCivile.com).
Ernest Metzger (ed), A Companion to Justinian’s Institutes (Duckworth 1998)
tr.1-18
16
| 1/16

Preview text:

lOMoAR cPSD| 45988283
Chương 1. Khái quát chung về luật La Mã Trần Kiên
1.1. Sự hình thành Nhà nước La Mã cổ đại
Rome, Roman hay La Mã là tên gọi được dùng để chỉ nhiều đối tượng
khác nhau. Trước hết, đó là tên của Romulus, người mà theo truyền thuyết đã
thành lập nên thành phố Rome bên bờ sông Tiber thuộc đất nước Italy ngày nay
vào khoảng năm 753 trước công nguyên (TCN). Cũng theo truyền thuyết,
Romulus và Remus là những hậu duệ của Aeneas, người đã bỏ chạy khỏi thành
Troy sau khi thành bang này sụp đổ trong cuộc chiến con ngựa thành Troy. Từ
một thành phố nhỏ do những người di cư xây dựng bên bờ song Tiber, Rome đã
phát triển suốt hơn 1000 năm, trở thành một trong những đế chế hùng mạnh
nhất trong lịch sử nhân loại. Lịch sử La Mã trải qua ba thời kỳ chính. Thời kỳ
Vương chính (753 TCN – 500 TCN); thời kỳ Cộng hòa (500 TCN – 44 TCN),
và thời kỳ Đế chế (44 TCN – thế kỷ VI SCN).
1.1.1. Thời kỳ Vương chính (753 TCN - 500 TCN)
Thời kỳ Vương chính là giai đoạn đầu tiên của lịch sử La Mã. Giai đoạn
này còn được biết đến là giai đoạn trị vì của bẩy vị vua. Do đó, nó có tên gọi là
Vương chính. Giai đoạn này bắt đầu từ khi Romulus thành lập thành Rome cho
đến Tarquinius Superbus. Trong hơn 200 năm đầu này, La Mã chứng kiến sự
hình thành một số thiết chế công quan trọng, đặc biệt là Senate (Viện nguyên
lão). Viện nguyên lão đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành La Mã. Về
sau, Viện nguyên lão trở thành biểu tượng quyền lực và sự giàu có của La Mã.
Rolumus cũng là người đã phân chia công dân La Mã vào ba bộ tộc (Tribe), mỗi
bộ tộc có 10 hội đồng (Curiae) là các đơn vị hành chính và chính trị có quyền
bỏ phiếu của La Mã. Đây cũng chính là các nghị viện nguyên thủy (Comitia
Tiến sĩ, giảng viên Bộ môn Luật dân sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội E: trankien@vnu.edu.vn 1 lOMoAR cPSD| 45988283
curiata). Chức năng chính của các hội đồng là bỏ phiếu bầu Vua. Thời kì này
chưa có chế độ nối ngôi.
Vào cuối thời kì Vương chính, nhất là dưới sự cai trị của ba vua là
Tarquinious Priscus, Servius Tullius và Tarquinius Superbus lãnh thổ La Mã
được mở rộng đáng kể qua các cuộc chinh phạt. Đến khoảng năm 510 TCN,
lãnh thổ La Mã rộng khoảng 300 – 400 dặm vuông, là thành bang lớn nhất trong
số các cộng đồng Latin lúc đó.
Năm 510 TCN xảy ra một sự kiện quan trọng, một cuộc chính biến của
tầng lớp quan lại đã xảy ra chống lại vua Tarquinius Superbus bởi nhiều lý do.
Một phần bắt nguồn từ cách cai trị độc đoán của vua Tarquinius. Cuộc chính
biến thành công không chỉ trục xuất Tarquinius ra khởi La Mã mà còn đồng thời
chấm dứt luôn chế độ Vương chính. La Mã chuyển sang thời kì cộng hòa.
1.1.2. Thời kỳ Cộng hòa (500 TCN - 44 TCN)
Thời kì Cộng hòa kéo dài từ năm 510 TCN đến khoảng năm 44 SCN khi
Augustus trở thành Hoàng đế chấp chính của toàn bộ thế giới La Mã. Đây là
thời kì La Mã đạt được nhiều thành tựu to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội.
a. Thành tựu về chính trị và chính quyền
Trong thời kì cộng hòa, nhiều thiết chế chính quyền mới được thành lập bao gồm:
Tổng tài hay đại pháp quan (consuls). Tổng tài là chức vụ mới được xây
dựng để thay thế cho Vua trong thời kì Vương chính. Có hai tổng tài trong thời
kì này được bầu ra bởi comitia centuriata và được phê chuẩn bởi Viện nguyên
lão. Nhiệm kì của Tổng tài kéo dài trong vòng một năm. Về nguyên tắc, Tổng
tài có quyền lực tuyệt đối tuy nhiên các tổng tài bắt buộc phải tham vấn nhau
trước khi ra quyết định. Cơ chế này nhằm ngăn chặn các tổng tài trở thành độc
đoán, chuyên quyền nhưng cũng có nhược điểm là có thể khiến cho việc thực
hiện quyền hạn của tổng tài bị tê liệt khi người còn lại thường xuyên thực hiện
quyền phủ quyết. Trong khoảng 80 năm đầu tiên của chế độ Cộng Hòa, có thực
tế rằng nhiều tướng lĩnh quân sự được bầu để thực hiện quyền lực của tổng tài 2 lOMoAR cPSD| 45988283
(military tribunes) theo đề xuất của Viện nguyên lão. Điều này bắt nguồn từ
thực tế chiến tranh liên miên của La Mã với các quốc gia lân bang.
Pháp quan tư pháp (praetors) chức vụ này được thành lập vào năm 367 TCN
với mục đích giảm bớt thẩm quyền tài phán của tổng tài. Pháp quan tư pháp
được bổ nhiệm bởi comitia ceturiata và đóng vai trò là người đứng đầu hệ thống
pháp luật của La Mã, giống như chức vụ Bộ trưởng tư pháp hiện nay. Ban đầu,
họ chỉ có thẩm quyền với công dân La Mã trong phạm vi thành Rome, do đó
thường được gọi là pháp quan tư pháp đô thị (urban praetors). Pháp quan tư
pháp đóng vai trò quan trọng và to lớn trong sự phát triển của luật dân sự La Mã.
Pháp quan tài chính (quaestors) chức danh này được thiết lập để giúp các
tổng tài về mặt tài chính, ngân sách. Họ cũng do comitia centuriata bầu và cho
đến năm 421 phải là quý tộc La Mã (patrician). Tuy nhiên, họ cũng được trao
các thẩm quyền khác ví dụ như giúp đỡ tổng tài về phương diện tư pháp hình
sự. Trong giai đoạn cuối của Đế chế La Mã, pháp quan tài chính trở thành pháp
quan chủ chốt của chính quyền về pháp luật, theo sau sự suy tàn của chức danh pháp quan tư pháp.
Pháp quan thống kê (censors) được thiết lập năm 443 TCN bởi comitia
centuriata, pháp quan thống kê giúp tổng tài thực hiện chức trách thống kê và
phân loại người La Mã theo các tiêu chí về sự giàu có, nguồn gốc bộ tộc, và
chức danh quân sự. Số liệu thống kê có vai trò rất quan trọng xác định thẩm
quyền bỏ phiếu, gia nhập qua đội hay đóng thuế. Ngoài ra, trên nguyên tắc các
pháp quan này còn có thẩm quyền bổ nhiệm thành viên Viện nguyên lão. Cho
dù trên thực tế họ chỉ có thẩm quyền bãi miễn tư cách thành viên. Ngoài ra,
pháp quan thống kê còn có thẩm quyền thu thuế và giải ngân thanh toán các hợp
đồng có một bên là nhà nước. Do vậy, chức danh này rất quyền lực.
Bảo dân quan (tribunes) là những người được bầu để đại diện cho tầng lớp
thứ dân (plebeians). Họ chủ tọa hội đồng thứ dân (concilium plebis) cơ quan lập
pháp của tầng lớp thứ dân. Họ là thành viên của Viện nguyên lão và có quyền 3 lOMoAR cPSD| 45988283
triệu tập Viện. Họ có quyền phủ quyết các pháp quan khác để bảo vệ các cá
nhân chống lại các hành vi lạm quyền. Từ năm 449 TCN bảo dân quan là bất
khả xâm phạm. Bất kỳ ai công kích hoặc gây phương hại đến việc thực hiện
nhiệm vụ của họ có thể bị đặt ra ngoài vòng pháp luật bởi hội đồng thứ dân.
Điều này khiến các bảo dân quan trở thành đối trọng và nguy cơ đối với Viện nguyên lão.
Quan thị chính (aedile) là những người quản lý đô thị và dân cư thành thị. Ví
dụ như đảm bảo việc cung cấp nước, lương thực cho thành phố.
Một trong những động lực phát triển chính của La Mã trong thời kì Cộng
Hòa là sự xung đột giữa hai tầng lớp quý tộc và thứ dân. Những năm đầu thời kì
Cộng Hòa chứng kiến việc tuyệt đại đa số các chức danh quan trọng đều nằm
trong tay giới quý tộc. Ngoài ra, các nghị quyết của Hội đồng thứ dân
(plebiscite) đều không có giá trị áp dụng đối với mọi người, chưa kể đến các
đạo luật bất bình đẳng áp dụng riêng cho tầng lớp thứ dân như cấm họ nhận
chuyển nhượng quyền sở hữu đất đai đang thuộc về nhà nước. Do đó, đã xảy ra
những xung đột và đấu tranh đòi hỏi quyền lợi của tầng lớp thứ dân. Dần dần,
giai cấp quý tộc đã phải nhượng bộ. Nhượng bộ quan trọng nhất và có ý nghĩa
đối với sự phát triển của luật La Mã chính là việc ban hành Luật Mười Hai Bảng
năm 451 – 450 TCN. Bộ luật thành văn đầu tiên của La Mã. Bộ luật ban hành
trước cáo buộc rằng các tổng tài cai trị theo lối chuyên quyền độc đoán. Và do
đó, phải ban hành các quy định rõ ràng, chi tiết để áp dụng trong việc quản trị
nhà nước. Tiếp sau sự ban hành Bộ luật mười hai bảng, các nghị quyết của hội
đồng thứ dân cũng được thừa nhận là có giá trị pháp lý bắt buộc đối với tất cả
công dân La Mã, bao gồm cả tầng lớp quý tộc tuy nhiên phải được sự phê chuẩn
trước của Viện nguyên lão.
Tiếp sau các thành công nêu trên, tầng lớp thứ dân tiếp tục đạt được các
nhượng bộ quan trọng khác ví dụ như một trong hai tổng tài phải là người của
tầng lớp thứ dân. Năm 287 TCN, Lex Hortensia được ban hành bãi bỏ quy định
các luật do hội đồng thứ dân ban hành phải được Viện nguyên lão phê chuẩn. 4 lOMoAR cPSD| 45988283
Kể từ đây, hội đồng thứ dân trở thành cơ quan nghị viện rất quyền lực của nền Cộng hòa La Mã. b. Mở rộng lãnh thổ
Giai đoạn cộng hòa cũng chứng kiến La Mã thành công trong việc mở rộng
lãnh thổ cả ở trong và ngoài nước Italy. La Mã đánh bại Hannibal để giành
quyền kiểm soát Tây Ban Nha, kể từ đó mở đường kiểm soát toàn bộ Địa Trung
Hải. Cái chết của Alexander đại đế năm 323 TCN dẫn đến sự sụp đổ và sáp
nhập của đế chế Macedonia vào La Mã. Julius Caesar tiếp nối chiến thắng của
La Mã bằng việc xâm lược nước Anh (hai lần) và Ai Cập để mở rộng bờ cõi của La Mã.
c. Sự sụp đổ của nền cộng hòa
Mặc dù vận hành trong thời gian dài, nhưng các thiết chế chính quyền của
nền cộng hòa ẩn chứa những khiếm khuyết nghiêm trọng. Thiết chế hai tổng tài
cùng với quyền phủ quyết lẫn nhau là một ví dụ. Việc trao các thẩm quyền về
quân sự, hành pháp, và tư pháp cho các pháp quan đối nghịch nhau cũng là một
vấn đề. Đặc biệt, chế độ cộng hòa dựa rất nhiều vào thiết chế Viện nguyên lão.
Trong thời gian đầu, khi Viện nguyên lão vận hành hiệu quả thì nền cộng hòa tỏ
ra rất bền vững. Nhưng thời gian sau khi quyền lực của Viện nguyên lão bắt đầu
bị thách thức vì số phận của nền cộng hòa cũng bị đe dọa. Kể từ năm 133 TCN,
nền cộng hòa bị đe dọa và làm suy yếu bởi một loạt các tổng tài ví như anh em
Gracchi, vốn xuất thân là thứ dân. Sau đó, những tướng lĩnh quân sự như
Marius, Sulla, Prompey cũng thường xuyên tiếm và vượt quyền Viện nguyên
lão. Đặc biệt là vai trò của Julius Ceasar, sau khi thành công trong việc trục xuất
Prompey khỏi Rome, Ceasar trở thành lãnh tụ tuyệt đối của La Mã, tự bổ nhiệm
mình thành tổng tài quân sự suốt đời và duy nhất cho đến khi bị ám sát vào năm
44 TCN bởi những thành viên Viện nguyên lão. Đó cũng chính là khi số phận
nền cộng hòa được định đoạt. Augustus, một tướng trẻ thân cận của Ceasar và
được Ceasar chỉ định là người thừa kế đã liên minh với các tưỡng lĩnh khác tiến
hành cuộc chiến trả thù những người cộng hòa đã ám sát Ceasar. Năm 43 TCN 5 lOMoAR cPSD| 45988283
một số lượng lớn thành viên Viện nguyên lão và những người ủng hộ nền cộng
hòa bị sát hại. Năm 31 TCN, Augustus chiến thắng trong cuộc chiến tranh giành
quyền lực với Anthony, đồng minh cũ, chính thức trở thành Hoàng đế đầu tiên của Đế chế La Mã.
1.1.3. Thời kỳ đế chế (44 TCN - thế kỷ VI SCN)
Kể từ khi Augustus lên ngôi hoàng đế vào năm 27 TCN, La Mã chuyển
sang thời kì đế chế trong đó chính quyền, hay chính xác hơn là quyền lực nhà
nước tập trung vào một người duy nhất, hoàng đế thay vì một cơ quan dân cử.
Trong năm này, Augustus và Viện nguyên lão đạt được thỏa thuận về tái tổ
chức bộ máy nhà nước. Theo đó La Mã sẽ được cai trị bởi Công dân thứ nhất
(princeps) hay hoàng đế với sự cộng tác của Viện nguyên lão. Bên cạnh đó, các
quận hay vùng lãnh thổ dưới quyền cai trị của La Mã cũng được phân chia
thành hai loại. Một loại do hoàng đế trực tiếp cai trị. Một loại do Viện nguyên
lão quản lý. Cho dù trở thành hoàng đế với quyền lực tuyệt đối, Augustus cũng
rất khéo léo trong việc sử dụng quyền lực của mình. Không chỉ thâu tóm quyền
lực nhà nước, Augustus còn trở thành thủ lĩnh tôn giáo. La Mã bước sang giai đoạn đế quốc.
Trong giai đoạn này, tuy các thiết chế cũ của thời kì cộng hòa vẫn còn tồn
tại nhưng vai trò và quyền lực bị giảm sút đáng kể. Đặc biệt là họ ở dưới quyền
của hoàng đế. Tuy nhiên, đây cũng chính là giai đoạn mà La Mã phát triển nhất
với lãnh thổ rộng lớn nhất. Năm 235 SCN hoàng đế Alexander Severus bị sát
hại dẫn đến thời kì 50 năm bạo loạn là nguyên nhân mở màn cho sự tan rã của
đế quốc La Mã. Năm 312 SCN hoàng đế Constantine cải đạo sang đạo Thiên
chúa, khởi động quá trình biến La Mã thành một quốc gia theo đạo thiên chúa.
Sau khi Constantine qua đời vào năm 337 SCN, đế chế La Mã bắt đầu bị phân
chia giữa các con của Constantine. Tuy nhiên, sự kiện có tính bản lề cho sự sụp
đổ của đế chế La Mã xảy ra vào năm 395 SCN khi Theodoius I qua đời. Hai
người con của Theodoius I thỏa thuận phân chia La Mã thành hai đế quốc, Tây 6 lOMoAR cPSD| 45988283
La Mã và Đông La Mã. Cả hai đế quốc bình đằng và ngang hàng với nhau và có
chủ quyền trong phần lãnh thổ của mình.
Sự phân chia làm suy yếu đế chế La Mã đặc biệt là Tây La Mã vốn
thường xuyên nằm dưới sự đe dọa và tấn công của các bộ lạc Đức thiện chiến.
Năm 476 SCN, hoàng đế cuối cùng của đế quốc Tây La Mã, Romulus Augustus
bị trục xuất khỏi Rome. Tây La Mã chính thức sụp đổ.
Nằm cách xa Italy và sự đe dọa của các bộ lạc Đức, đế quốc Đông La Mã,
lúc này được biết đến với tên gọi đế quốc Byzantine thoát khỏi số phận diệt
vong và tiếp tục tồn tại và phát triển cho đến tận thế kỉ 15. Chính một hoàng đế
của đế quốc Đông La Mã, Justinian I khi lên ngôi vào năm 527 SCN đã bắt đầu
công trình tuyển tập luật La Mã nổi tiếng Corpus Juris Civilis (tổng tập pháp
luật dân sự) với ba phần là Codex (luật), Institutes (giảng giải), Digest (nguyên
lý) và phần cuối cùng được đưa vào sau khi Justinian qua đời Novellae (bao
gồm các luật được ban hành sau năm 534). Sự hồi sinh của luật La Mã vào thế
kỉ 12, phát triển và trở thành luật chung (jus commune) của châu Âu sau đó
phần lớn là nhờ vào việc nghiên cứu và tìm hiểu bộ tổng luật này.
1.2. Hệ thống luật La Mã
Luật La Mã là hệ thống pháp luật được hình thành, xây dựng và phát triển
trong giai đoạn nhà nước La Mã tồn tại. Do lịch sử phát triển phức tạp, trải dài
qua nhiều thế kỉ với các mô hình chính thể khác nhau nên cũng dễ hiểu rằng luật
pháp La Mã cũng rất phức tạp và khác nhau qua từng thời kì. Dưới góc độ
nghiên cứu và cả kỹ thuật lập pháp hệ thống pháp luật La Mã có thể được tiếp
cận và phân tích theo nhiều cách khác nhau. Theo từng thời kì phát triển ứng
với các mô hình chính quyền. Theo sự phân loại thành luật dành cho công dân
La Mã (ius civile), luật quan (ius honorarium), và luật vạn dân (ius gentium).
Ngoài ra, luật La Mã còn có thể được phân loại thành luật công (ius publicium)
và luật tư (ius privatum).
1.2.1. Sự phân biệt giữa luật công với luật tư 7 lOMoAR cPSD| 45988283
Phân loại luật La Mã thành luật công và luật tư là một cách phân loại kinh
điển có ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến tận ngày nay.
Luật công liên quan đến các vấn đề thuộc về nhà nước La Mã trong khi
luật tư quan tâm đến quyền lợi của các cá nhân bởi có vấn đề có bản chất công
cộng trong khi có các vấn đề lại có bản chất tư nhân. Luật công bao gồm các
quy tắc điều chỉnh tôn giáo, tăng lữ, và quan lại. Định nghĩa nổi tiếng của
Ulpian trong Digest là nền tảng căn bản cho sự phân biệt luật công – luật tư trong luật La Mã.
Cách phân chia luật công luật tư dựa vào bản chất của quan hệ là đối
tượng điều chỉnh. Các quan hệ là đối tượng của luật công là các vấn đề liên
quan đến quyền lực công cộng, có thể là quyền lực nhà nước hay quyền lực tôn
giáo. Trong khi đó, các vấn đề thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư là các quan
hệ không liên quan đến quyền lực công, phát sinh giữa các cá nhân.
Trên thực tế, trong khi luật tư được phát triển một cách mạnh mẽ và trở
thành nền tảng của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa hiện đại thì luật công La
Mã lại kém phát triển hơn. Có ít quy định liên quan đến luật công được tìm thấy
và cũng có rất ít luật gia La Mã nghiên cứu, bình luận về chủ đề luật công.
Chính vì vậy, khi nghiên cứu tìm hiểu về luật La Mã, đối tượng chủ yếu là luật
tư và cũng chính luật tư La Mã đã trở thành ius commune (luật chung) của châu
Âu và theo bước chân thực dân của người châu Âu vươn ra toàn thế giới. Luật
tư La Mã cũng sẽ là đối tượng nghiên cứu chính của tác phẩm này.
1.2.2. Đối tượng điều chỉnh và nguồn của luật tư La Mã
1.2.2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật tư La Mã
Luật gia Gaius đã nhận định trong tác phẩm Institutes nổi tiếng của mình
về phân loại pháp luật rằng tất cả luật pháp của chúng ta đều là về chủ thể
(persons), vật (things), và tố quyền (actions). Theo nhận định này, chúng ta có
thể nhận thấy đối tượng điều chỉnh chủ yếu của luật tư La Mã là về: (1) các chủ
thể, những người được pháp luật thừa nhận có năng lực nắm giữa và hành xử
quyền lợi; và (2) các loại quyền lợi khác nhau mà chủ thể có thể nắm giữ và 8 lOMoAR cPSD| 45988283
cách thức xác lập quyền; (3) các phương thức bảo vệ quyền của chủ thể (tố
tụng). Khi đưa tác phẩm Institutes của Gaius vào bộ Tổng tập pháp luật dân sự,
Justinian đã làm rõ thêm các đối tượng của luật tư La Mã bằng cách phân loại
chúng. Theo đó luật tư La Mã điều chỉnh các vấn đề về chủ thể (bao gồm cả hôn
nhân và gia đình), luật tài sản (vật quyền và trái quyền), luật về hợp đồng và đắc
lợi vô căn, luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bao gồm cả dân sự phạm
(có lỗi) và chuẩn dân sự phạm (vô ý), và luật về tố quyền.
Liên quan đến quyền dân sự, khoa học pháp lý hiện đại đã phân tích và
chỉ ra rằng các loại quyền lợi mà chủ thể La Mã có thể nắm giữ và hành xử là
các quyền tài sản và quyền tinh thần. Quyền tài sản là các quyền có một giá trị
kinh tế nhất định phát sinh giữa các chủ thể. Quyền tài sản có thể được phân
loại thành vật quyền và trái quyền. Vật quyền là quyền hành xử trực tiếp trên
vật bao gồm quyền sở hữu, chiếm hữu, và địa dịch (các quyền đối với vật thuộc
quyền sở hữu của người khác) và các vật quyền phụ thuộc (cầm cố, thế chấp).
Trái quyền hay quyền đối nhân là quyền yêu cầu người khác phải chuyển giao
một vật, làm hay không được làm một công việc nhất định. Quyền đối nhân có
thể phát sinh từ các nguồn gốc là hợp đồng, chuẩn hợp đồng, dân sự phạm và
chuẩn dân sự phạm. Tố quyền, tùy thuộc vào việc được thực hiện nhằm bảo vệ
một vật quyền hay một trái quyền mà sẽ được phân loại tương ứng.
Ngược lại, quyền tinh thần liên quan đến các giá trị gắn liền với nhân
thân của mỗi chủ thể ví dụ như quyền gia trưởng, danh dự uy tín nhân phẩm.
Thế nên về nguyên tắc các quyền này không có giá trị kinh tế. Các quan hệ nhân
thân do luật La Mã điều chỉnh phản ánh bản rõ nét chất xã hội và nhà nước của
La Mã cổ đại. Ví dụ như tính chất phi tài sản không tuyệt đối hoặc tính chất bất
bình đẳng. Hay người cha trong luật La Mã là có quyền gia trưởng đối với vợ và con của mình.
1.2.2.2. Nguồn của luật tư La Mã
Khoa học pháp lý hiện đại phân biệt khái niệm nguồn nội dung và nguồn
hình thức của pháp luật. Nguồn nội dung là các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã 9 lOMoAR cPSD| 45988283
hội, chính trị đương thời quyết định sự hình thành, phát triển, và nội dung của
các quy phạm pháp luật. Ví dụ như nhà nước La Mã cổ đại được phát triển trên
cơ sở chiếm hữu nô lệ. Do đó, nô lệ không được pháp luật coi là người, chủ thể
của quyền lợi mà trái lại là tài sản thuộc sở hữu của những công dân La Mã.
Trong khi đó, nguồn hình thức là hình thức biểu hiện của nội dung quy phạm
hay là nơi chúng ta có thể tìm kiếm một quy tắc áp dụng cho một tình huống cụ
thể. Đó có thể là luật thành văn do các cơ quan có thẩm quyền ban hành, tập
quán, hay các bình luận của các luật gia nổi tiếng có giá trị như là luật. Đây
cũng là khái niệm nguồn mà chúng ta cần tìm hiểu. Do lịch sử phát triển lâu dài,
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau nên nguồn của luật tư La Mã vì thế cũng
phức tạp. Nguồn của luật tư La Mã cổ đại về căn bản có thể phân loại thành
nguồn thành văn (luật, nghị quyết của Viện nguyên lão, sắc chỉ của hoàng đế,
quyết định của các pháp quan, luận giải của các luật gia) ; và nguồn bất thành
văn (tập quán). Mỗi thời kì lại có một loại nguồn đóng vai trò chủ đạo của hệ thống pháp luật.
a. Nguồn của luật dưới thời Vương chính
Sử liệu còn sót lại cho thấy luật dưới thời Vương chính luật pháp xuất
phát chủ yếu từ hai nguồn chính là tập quán và các sắc chỉ của Vua.
Tập quán là các quy tắc bất thành văn (ius non scriptum). Đó là các quy
tắc xử sự đã được thiết lập và thực hành một cách vững chắc đến mức có giá trị
ràng buộc như là luật. Đây cũng là nguồn đầu tiên của luật La Mã. Nhiều quy
định của luật tư La Mã có nguồn gốc tập quán. Ví dụ như một số quy định trong
lĩnh vực gia đình : Sự thành lập, cấu trúc và hoạt động hay vị trí của người gia trưởng (paterfamilias)
Các sắc chỉ của Vua (Royal decrees). Các sắc chỉ này có giá trị ràng buộc
như luật. Tuy nhiên vẫn có các nghi ngờ về hình thức và phạm vi của các quy
phạm pháp luật trong thời nguyên thủy này. Một số sử gia cho rằng các sắc chỉ
của Vua trong giai đoạn này chỉ là những tập hợp của các tập quán chủ chốt,
nhiều trong số đó liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng. 10 lOMoAR cPSD| 45988283
b. Nguồn của luật dưới thời cộng hòa
Trong giai đoạn cộng hòa La Mã, nguồn luật chủ yếu là các văn bản quy
phạm pháp luật, những chỉ thị của các pháp quan và những lời biện giải của các luật gia.
Văn bản quy phạm pháp luật (legislation). Văn bản pháp luật quan trọng
nhất của giai đoạn này chính là Bộ luật mười hai bảng. Nội dung của Luật mười
hai bảng bao gồm các tập quán pháp chủ chốt của La Mã đương thời, một số sắc
chỉ của Vua và một số bổ sung, sáng tạo mới. Nội dung của các quy định trong
luật 12 bảng có thể chia thành các quy phạm thuộc luật công và các quy phạm
thuộc luật tư. Trong đó luật tư là chiếm đa số. Người La Mã coi luật 12 bảng là
khởi nguồn của luật dân sự của mình. Các quy định dân sự trong đó bao gồm cả
các quy định về luật tố tụng lẫn luật nội dung. Ví dụ Bảng IV bao hàm các
nguyên tắc căn bản của luật gia đình La Mã.
Chỉ thị, quyết định của các pháp quan (edits). Các pháp quan cấp cao có
quyền ban hành các chỉ thị, có giá trị ràng buộc trong phạm vi quản lý của
mình. Chính các chỉ thị của các pháp quan trong giai đoạn hậu cộng hòa đã góp
phần cải cách luật dân sự La Mã, thường được biết đến dưới tên gọi ius
honorarium. Các chỉ thị này bổ sung cho bộ phận chính của luật dân sự La Mã,
ius civile (luật dành cho công dân La Mã).
Biện giải của các học giả (interpretatio) biện giải của các học giả góp
phần làm rõ ý nghĩa của các quy định hiện này. Về bản chất, những bình luận
này không phải là nguồn luật trực tiếp. Nhưng chính trong quá trình bình luận
mà các quy định mới hoặc các trường hợp áp dụng tương tự được phát hiện.
Trong thời kì đầu của nền cộng hòa tăng lữ là những người thực hiện công tác
bình luận luật chủ chốt. Bên cạnh đó, các luật gia cũng đóng vai trò quan trọng.
Một số luật gia nổi tiếng của thời kì ày là Aelius, Scaevola, và Gallus.
c. Nguồn luật dưới thời đế chế
Luật La Mã dưới thời đế chế thường được chia thành hai thời kì. Thời kì
đầu kéo dài khoảng 250 năm được gọi là thời kì luật La Mã cổ điển. Thời kì 300 11 lOMoAR cPSD| 45988283
năm sau cho đến khi Justinian ban hành bộ Corpus juris civilis là thời kì hậu cổ
điển. Trong thời kì luật cổ điển biện giải và các sắc lệnh của hoàng đế đóng vai
trò là nguồn luật quan trọng. Sang đến giai đoạn hậu cổ điển, sắc lệnh hoàng đế
gần như trở thành nguồn luật duy nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật (legislation). Tuy các sắc lệnh của hoàng đế
là nguồn luật thành văn quan trọng nhất thì quy định do Viện nguyên lão và các
nghị viện nhân dân ban hành vẫn có những giá trị nhất định. Đặc biệt là Viện
nguyên lão, tuy không có thẩm quyền ban hành pháp luật trực tiếp nhưng do
mối quan hệ gần gũi với Hoàng đế, người đồng thời đứng đầu Viện nguyên lão
nên các nghị quyết của Viện được xem là có giá trị rất cao. Ngoài ra, còn phải
kể đến các chỉ thị do Hoàng đế ban hành. Các edicta ban hành dưới sự tư vấn
của các pháp quan. Các decreta là các quyết định xét xử tranh chấp do chính
Hoàng Đế thụ lý. Các mandata là các chỉ đạo cấp dưới thực thi quyền hạn của
mình. Các rescripta là các trả lời chính thức của Hoàng Đế đối với các vấn đề
gửi đến xin ý kiến. Đó đều là các nguồn chính thức của luật.
Các chỉ thị của pháp quan (edicts) Chỉ thị của các pháp quan chỉ có giá trị
trong giai đoạn ban đầu của nền đế chế. Sau này cùng với vai trò giảm sút của
các pháp quan thì chỉ thị của họ cũng mất dần đi giá trị ràng buộc.
Biện giải của các luật gia. Các biện giải của luật gia đóng vai trò quan
trọng trong giai đoạn luật cổ điển của thời kì đế chế. Các luật gia đóng góp vào
việc xây dựng các quy phạm pháp luật qua nhiều cách khác nhau như tư vấn,
giảng dạy hay viết lách. Một số luật gia nổi tiếng là Labeo, Paul, và nhất là Ulpian.
d. Bộ tổng tập pháp luật dân sự
Nguồn luật quan trọng nhất có vai trò tổng hợp của luật tư La Mã chính là
bộ tổng tập pháp luật dân sự corpus juris civilis do Justinian, hoàng đế của đế
quốc Đông La Mã ra lệnh chuẩn bị vào thế kỉ thứ 6 SCN. Bộ tổng tập ban đầu
có ba phần. Sau này được bổ sung thêm một phần mới. Ba phần ban đầu là Codes, Digest và Institutes 12 lOMoAR cPSD| 45988283
Đầu tiên Justinian thành lập một hội đồng có 10 người để tập hợp tất cả
các quy định do Hoàng đế ban hành vẫn còn hiệu lực gọi là bộ Codex. Hoàn
thành vào năm 529 SCN, bộ Codex thay thế hiệu lực cho tất cả các văn bản đã
được ban hành trước đó. Sau đó, Justinian lại chỉ đạo chuẩn bị phần Digest, tác
phẩm trung tâm của bộ tổng tập, dưới hình thức một bách khoa toàn thư về luật
pháp đồng thời là nguồn quan trọng nhất để nghiên cứu luật La Mã về sau này.
Về cơ bản Digest chọn lọc và chứa đựng các nguyên tắc pháp lý cốt yếu được
tìm thấy trong gần 2000 tác phẩm của các luật gia. Các nguyên tắc này được
nghiên cứu và phát biểu lại dưới dạng tổng quát, trừu tượng nhằm thực hiện vai
trò của các nguyên tắc pháp lý tổng quát, bất biến. Chính vì vậy, Digest sau này
đã được các luật gia châu Âu đánh giá cao và đóng vai trò trung tâm trong quá
trình tái tiếp nhận luật La Mã.
Institutes đóng vai trò là một quyển sách giáo khoa về luật pháp nhằm
giải thích và dậy cho sinh viên về ý nghĩa của Digest. Institutes chủ yếu dựa trên
tác phẩm Institutes của Gaius và do đó, được chia thành bốn quyền. Quyển 1 về
người (chủ thể). Quyển 2 về vật. Quyển 3 về các phương thức xác lập quyền với
vật. Và Quyển 4 về tố quyền và hình thức của tố quyền.
Phần thứ 4 của bộ tổng tập, Novellae được bổ sung vào năm 534 SCN sau
khi Justinian đã qua đời. Phần này bao gồm các sắc chỉ của hoàng đế mới được
ban hành sau khi bộ Codex ra đời.
1.2.3. Các yếu tố cấu thành hệ thống luật tư La Mã
Như trên đã trình bày, luật La Mã có thể được phân loại theo nhiều tiêu
chí, ví dụ như luật công – luật tư. Đối với luật tư La Mã các yếu tố cấu thành
quan trọng nhất là ba hệ thống quy phạm được áp dụng cho ba nhóm chủ thể
khác nhau. Đó là luật dành cho công dân La Mã (ius civile), luật dành cho vạn
dân (ius gentium), và luật quan (ius honororium).
1.2.3.1. Luật dành cho công dân La Mã
Mở đầu tác phẩm Institutes nổi tiếng của mình Gaius nhận định tất cả
mọi người đều được điều chỉnh bởi luật pháp và tập quán trong đó một phần áp 13 lOMoAR cPSD| 45988283
dụng cho riêng họ, một phần thì áp dụng cho tất cả mọi người. Luật mà mỗi dân
tộc ban hành cho riêng mình thì gọi là luật nhà nước. Còn luật, bởi các lý do tự
nhiên, áp dụng cho tất cả mọi người thì được áp dụng như nhau ở mọi nơi. Đây
được goi là luật vạn dân. Luật của dân tộc La Mã cũng có một phần áp dụng
riêng cho dân La Mã và một phần áp dụng chung cho các sắc dân khác. Bằng
nhận định này Gaius đã chỉ ra phạm vi và cơ sở cho luật dành riêng cho công
dân La Mã là những luật dành cho người có quốc tịch La Mã và luật áp dụng
cho những người khác. Luật dành riêng cho công dân La Mã gọi là ius civile
quiritium. Luật này do các pháp quan tư pháp đô thị áp dụng. Đây là tập hợp các
quy phạm áp dụng riêng đối với các công dân La Mã và sự hành xử quyền lợi
của họ. Đây cũng là bộ phận quan trọng nhất cấu tạo nên luật dân sự La Mã.
Ban đầu, việc tồn tại ius civile riêng là bình thường do phạm vi nhỏ hẹp của La
Mã. Nhưng khi La Mã mở rộng và trở thành một đế quốc thì càng ngày càng có
nhiều người nước ngoài đến La Mã sinh sống. Từ đó phát sinh hai nhu cầu là
luật áp dụng cho riêng họ khi sống ở các thành bang của La Mã và luật áp dụng
khi họ xác lập quan hệ với một công dân La Mã. 1.2.3.2. Luật vạn dân
Sự xuất hiện của nhóm chủ thể mới ở trên ius civile cho thấy sự cứng
nhắc và thiếu hiệu quả. Do vậy, một hệ thống các quy phạm mới được phát triển
đề áp dụng riêng cho những người nước ngoài sống ở La Mã và khi họ xác lập
quan hệ với công dân La Mã. Bộ phận này được gọi là luật vạn dân (ius
gentium) và do pháp quan tư pháp ngoại giao áp dụng (praetor peregrinus). Luật
vạn dân áp dụng cho tất cả mọi người. Ius gentium về sau được coi là một trong
những nền tảng của luật quốc tế hiện đại.
Ius gentium được nhận định là bắt nguồn từ luật tự nhiên như Gaius đã
tuyên bố. Cicero lập luận rằng ius gentium là luật pháp cao hơn về mặt nghĩa vụ
đạo đức, ràng buộc mọi người hơn cả các yêu cầu của luật dân sự thông thường.
Ví dụ một công dân La Mã phải đi tị nạn, dù mất đi tư cách công dân của mình
và do đó không còn áp dụng ius civile thì vẫn được bảo vệ bởi các quy định của 14 lOMoAR cPSD| 45988283
ius gentium. Ius gentium thường bao gồm các quy định về chiến tranh, lợi ích
quốc gia, chủ quyền và hoàng tộc, sở hữu và giới hạn tài sản, định cư và thương
mại. Đặc biệt, Justinian nêu ra hai ví dụ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật vạn
dân là nô lệ và hợp đồng, trừ những quy định áp dụng riêng của ius civile. Do
đó, Ius gentium trở thành một bộ phận bổ khuyết quan trọng cho ius civile. 1.2.3.3. Luật quan
Bên cạnh ius civile và ius gentium, trong giai đoạn sau này, nhất là từ
thời Cộng Hòa một hệ thống các quy tắc khác cũng xuất hiện được gọi là luật
quan (ius honorarium). Gọi là luật quan bởi đây là các quy tắc do các pháp quan
ban hành theo thẩm quyền và áp dụng trong các lĩnh vực do mình phụ trách.
Một phần lớn các luật quan quan trọng là do các pháp quan tư pháp ban hành
trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Vì thế nó có hình thức giống như là
các án lệ. Ban đầu các án lệ này chỉ ràng buộc chính các pháp quan đã ban hành
nó. Nhưng dần dần, các pháp quan sau cũng thường xuyên tham khảo các án lệ
trước đó trước khi ra quyết định của riêng mình. Năm 67 TCN một đạo luật lex
Cornelia de edicti được ban hành yêu cầu các pháp quan phải tuân theo chính
các phán quyết hay chỉ thị của mình.
Nội dung các quy định của luật quan rất đa dạng, tùy thuộc vào phạm vi
điều chỉnh và thẩm quyền. Các luật quan có ưu điểm là cập nhập thường xuyên
bởi các pháp quan giải quyết công việc hàng ngày. Đa số các quy định này là để
bổ sung cho ius civile và đạt đến đỉnh cao của sự phát triển vào thế kỉ thứ 2
SCN với sự ban hành Edictum Perpetuum.
Tài liệu tham khảo
Nguyễn Minh Tuấn và các tác giả khác, Giáo trình Luật La Mã (NXB Công an nhân dân 2003) tr.5-36.
Vũ Tam Tư, Luật Rooma, khế ước và nghĩa vụ (Trường đại học tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh …..) tr.3-13.
Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật La Mã (NXB Chính trị quốc gia 2009) tr.7- 9. 15 lOMoAR cPSD| 45988283
Andrew Borkowski và Paul Du Plessis, Textbook on Roman Law (Oxford
University Press 2005) tr.1 – 63.
The Institutes of Gaius (trans W.M. Gordon & O.F.Robinson, Duckworth 1988).
David Johnston, ‘The general influence of Roman institutions of state and
public law’ Roman Law Resources (www.IusCivile.com).
Ernest Metzger (ed), A Companion to Justinian’s Institutes (Duckworth 1998) tr.1-18 16