MẠNH T
1. c
Mạnh Tử nhà triết gia Nho giáo đến từ Trung Quốc người tiếp nối Khổng Tử.
Ông được người đời xem ông tổ thứ hai của Nho giáo được thế hệ sau này tôn
làm thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Mạnh Tử tên Mạnh Kha, t Tử , sinh vào đời vua Liệt Vương - thời nhà Chu,
quê gốc đất Trâu, nay thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông
mồ i cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ Chương thị. Mạnh mẫu đã ba lần
chuyển nhà để Mạnh Tử được trong môi trường hội tốt nhất cho việc học tập, tu
dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư (tức Khổng Cấp, cháu
nội của Khổng Tử). vậy, ông chịu ảnh hưởng u sắc từ các tưởng Khổng giáo.
2. Nội dung tưởng triết học của Mạnh Tử
Mạnh Tử sinh sống trong thời kỳ Chiến Quốc, khi phong trào du thuyết của các
tử đang cùng sôi nổi. Họ đều mong muốn được cống hiến tài năng và t
tuệ của mình để tham gia vào hoạt động chính trị, thực hiện hoài bão xây dựng
đất nước.Với mong muốn bảo vệ phát huy học thuyết của Khổng Tử, Mạnh
Tử đã mang theo niềm tin mãnh liệt đi chu du các nước, sử dụng kiến thức uyên
thâm của mình đ thuyết phục các nước chư hầu. Môi trường gia đình, bối cảnh
hội những chuyến du hành đã tác động mạnh mẽ, hun đúc nên tưởng
triết học độc đáo của Mạnh Tử. Trong đó, những yếu tố khách quan đồng
thời tồn tại những yếu tố chủ quan đã ảnh hưởng đến tưởng của ông.
2.1. Quan điểm về thế giới
Trời trong triết học Mạnh Tử là đấng anh minh, ban cho con người bản tính
thiện chi phối mọi quy luật vận hành trong trụ. Mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới, từ sự biến hóa của giới t nhiên đến sự biến đổi của đời sống
hội; từ sự thịnh vượng suy tàn của các triều đại khác nhau trong lịch s đến
quyền hành của bọn quý tộc địa vị của thường dân, cũng đều bị chi phối bởi
ý chi quyền uy của trời. Trời luôn công bằng khi ban thưởng cho người hiền
đức trừng phạt k n ác. Theo ông: “Phàm việc mình không cố ý làm
tự nhiên mình làm, đó ý trời; mình không mong cầu tự nhiên tới, đó
mạng trời vậy" (Quân tử sở tính, tuy đại hành bất gia yên; tuy cùng cư, bất tổn
yên. Phận định cố dã). thế, Mạnh T khuyên nhủ hậu thế phải luôn luôn hoàn
toàn phục tùng mệnh trời, an phận đón nhận số mệnh trời đã định: "Chẳng
việc xảy ra chẳng do nơi mạng Trời. Mình nên y thuận nhận lấy cái
mạng chính đáng ấy”. Từ đó, Mạnh Tử cho rằng, trụ, vạn vật cũng đều tồn
tại trong ý thức chủ quan trong quan niệm đạo đức trời phú cho con người.
Ông dạy con người chỉ cần suy xét trong tâm của mình chứ không phải đi tìm
chân ngoài thế giới bao la rộng lớn kia.
Như vậy, với những quan niệm về thế giới, Mạnh Tử đã bộc lộ rõ tính chất duy
tâm trong thế giới quan triết học của ông. Thế giới quan đó đã khai thác thổi
phồng những yếu tố duy tâm, những mặt tiêu cực trong triết học của Khổng Tử
thực tế đã chi phối phần lớn những quan điểm về chính trị - hội, luân
đạo đức của ông nói riêng cũng như hệ thống triết học Nho gia sau này nói
chung.
2.2. Quan điểm về triết nhân sinh
Nội dung chủ yếu mỗi khi nhắc đến tưởng triết học của Mạnh Tử vấn đề
triết nhân sinh, trọng tâm của học thuyết về "tính thiện". Mạnh Tử
cho rằng: "Bản tính con người ta thiện”. Không một người nào sinh ra tự
nhiên bất thiện.
Tính thiện của con nời được biểu hiện bốn đức lớn: Nhân, nghĩa, lễ, trí.
Bốn đức lớn đó bắt nguồn "tứ đoan", bốn đầu mối của thiện. tiềm ẩn vốn
trong con người. Con người ta ai cũng lòng trắc ẩn (biết thương xót), lòng
u t (biết thẹn, ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) lòng thị phi (biết phải
trái). Người tính thiện, biết giữ phần quý b phần hèn, giữ cái cao đạo, bỏ
phần ti tiện, có thể trở thành thánh nhân. Mạnh Tử khẳng định, bản tính con
người ta thiện, còn con người ta trở thành bất thiện, đó là do không giữ
được cái tâm tốt đẹp vốn của mình do hoàn cảnh nhấn chìm cái lương tâm
thiện của họ chứ không phải do bản tính của con người.
2.2.1. Phạm trù nhân
người kế thừa tưởng triết học của Khổng Tử trong bối cảnh thời Chiến
Quốc, Mạnh Tử đã phát triển làm cho phạm t nhân trở nên phong phú hơn
với những sắc thái mới, chiều sâu nội tâm hơn. Nhân lòng nhân ái, yêu
thương con người, phẩm chất đạo đức cao đẹp giúp con người sống hòa
thuận, gắn với nhau, tạo nên một hội văn minh, thịnh vượng. Tuy nhiên,
đối với ông, trong cùng một thời điểm con người không thể yêu thương tất cả
mọi người được. Đó là điều không thể. Điều tiên quyết là phải yêu thương
những người thân trong gia đình, kể người tài đức, rồi sau đó người đời
người bình thường.
2.2.2. Phạm trù nghĩa
Theo Mạnh Tử, nghĩa cũng tương đương với nhân, một trong bốn đức tính
biểu hiện bản tính thiện của con người do trời phú. Nghĩa chính việc thi hành
cái lẽ tự nhiên trong tâm, tính con người, ai cũng phải nuôi dưỡng đức nghĩa
cho trong hoàn cảnh nào. Nghĩa không chỉ thuộc tính vốn của con
người cần nuôi dưỡng, cao hơn hết nghĩa còn điều con người sẵn sàng x
thân, hy sinh. Theo ông, lòng h thẹn nền tảng cho mọi đức tính tốt đẹp. Khi
bị mất đi, con người sẽ dễ dàng sa đà vào những hành vi sai trái, dẫn đến sự
tan vỡ của các giá trị đạo đức khác. Sống như thế thì chết còn hơn. Nếu Khổng
Tử không cho nhân, nghĩa đi chung với nhau t Mạnh Tử đã đưa nghĩa lên
“ngang hàng” với nhân. Cho nên, ta thể thấy, Mạnh Tử hễ nói đến nhân t
cũng nói đến nghĩa. Hơn nữa, trong thực tiễn hội luân đạo đức, nhân,
nghĩa luôn mối liên hệ mật thiết với nhau. Mạnh Tử nói: "Nhân cái tâm
người ta phải có; Nghĩa con đường người ta phải theo".
2.2.3. Phạm trù lễ
Bên cạnh phạm trù nhân, nghĩa còn lễ. thể nói nhân, nghĩa nội dung,
còn hình thức để thực hiện nhân, nghĩa chính lễ. Lễ quy tắc đạo đức, hành
vi ng xử thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên con người với Trời, thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau trong cộng đồng, góp phần duy trì trật tự hội sự hài hòa giữa con
người với trụ. Mạnh Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của nội dung đạo đức
trong Lễ, cho rằng Lễ phải xuất phát từ cái tâm chân thành, thiện lương của con
người. Nhờ lễ, phận làm con giữ được chữ hiếu với cha mẹ. Mạnh Tử đã
nhắc lại câu nói thuở xưa của Tăng Tử rằng, phận làm con: "Khi cha mẹ còn
sống, mình phải noi theo lễ phụng dưỡng; khi cha mẹ qua đời, mình phải noi
theo lễ tống tang; rồi đến những kỳ tế tự, mình cũng phải noi theo lễ
cúng quải. Như vậy mới đáng gọi con hiếu" (Sinh, sự chi đi lễ: từ, tang chi
lễ, tế chi lễ; khả vị hiếu hỹ).
2.2.4. Phạm trù trí
Trí một trong bốn phạm trù đạo đức quan trọng nhất trong triết học Nho giáo,
được Mạnh Tử kế thừa phát triển một cách sáng tạo. Trí năng lực nhận
thức, phân biệt đúng sai, sáng suốt trong suy nghĩ hành động, giúp con người
hiểu biết bản thân, hiểu biết thế giới xung quanh đưa ra những quyết định
sáng suốt. Mạnh Tử coi t điều kiện tiên quyết để rèn luyện đạo đức hoàn
thiện nhân cách, phân biệt thiện ác, hướng thiện tránh xa cái ác. Trí sự
thông hiểu đạo lý, năm bắt nhận thức được cái thế, cải tinh của vạn vật, vạn sự.
Như vậy, về luân đạo đức, Mạnh Tử đã lý giải, khẳng định bản tính thiện
của con nời. Từ đó, đưa ra các phương pháp để răn dạy con người thay đổi
hội ngày càng tốt đẹp hơn. Đó chính tính nhân bản trong tưởng của
Mạnh Tử. Với những tư tưởng phong phú qua các phạm trù đạo đức, tâm lý như
tâm, tính, khí, chí, nhân, nghĩa, lương năng, lương tri... cùng với những quan
điểm đặc sắc về những biện pháp giáo dục con người của mình, Mạnh Tử đã
đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng luận về giáo dục trong lịch sử
tưởng Trung Quốc cổ đại.
3. Sức ảnh hưởng
tưởng triết học của Mạnh Tử còn ảnh hưởng đến các nước Á Đông khác, trong
đó Việt Nam. tưởng triết học của ông đã ảnh ởng đến ởng chính tr của
các triều đại phong kiến Trung Quốc, góp phần hạn chế sự chuyên chế của vua, y
dựng một hội văn minh.
4. Hạn chế ý nghĩa trong tưởng triết học của Mạnh Tử
4.1. Hạn chế
Hạn chế thứ nhất, tính chất tiên nghiệm luận thần trong quan niệm của Mạnh Từ
về sinh mệnh con người: Mạnh Tử đã quá đề cao vai trò của trời đến cùng. Theo
ông, trời đấng anh minh tối cao, sáng tạo và chi phối vạn vật trong trụ. Khẳng
định bản chất con người thiện, ông đồng thời phủ nhận vai trò của giáo dục trong
việc tạo n phẩm chất y. Theo ông, một đặc tính bẩm sinh, tồn tại sẵn trong
tâm hồn mỗi con người. thể nói những quan niệm mang tính chất “tiên nghiệm
luận" thần của Mạnh Tử về bản tính, tri thức, đạo đức, số mệnh con người đã
tình cản trở tính năng động ng tạo của con người trong việc ớng ra thế giới bên
ngoài để từng ớc chinh phục thế giới. Quan điểm này cũng hạn chế vai trò của giáo
dục trong việc bồi dưỡng đạo đức và tri thức cho con người, đặc biệt tri thức về thế
giới tự nhiên. Chính những ảnh hưởng từ mặt trái của Nho gia đã dẫn đến sự trì trệ của
dân tộc Trung Hoa cũng như một số nước phương Đông.
Hạn chế thứ hai, dấu ấn của sự phân biệt đẳng cấp, danh phận trong ởng triết
học Mạnh Tử: Mặc đề cao bình đẳng, tưởng của ông vẫn thể hiện sự phân biệt
giữa những bậc trí tuệ siêu phàm, đạo đức cao quý với người dân bình thường. Quan
điểm của ông cho rằng, người quân tử người luôn lấy nhân nghĩa m kim chỉ nam,
đồng thời biết vận dụng nhân, nghĩa, lễ, trí để tu dưỡng đạo đức bản thân, biết giữ cái
"thiên tước". Ngược lại, những kẻ bình dân, không noi theo đường lối nhân nghĩa,
không biết lấy nhân, nghĩa, lễ, trí để giữ lòng mình, b cái "thiên tước" đi tìm
cái"nhân ớc".
Tóm lại, do lập trường giai cấp điều kiện lịch sử hội quy định nên tưởng
triết học của Mạnh Tử nhiều giá trị, nhưng vẫn mang trong mình những hạn chế
nhất định, tưởng của ông không thoát khỏi tính chất duy tâm dấu ấn của tính
đẳng cấp danh phận, bảo thủ.
4.2. Ý nghĩa
tưởng triết học của Mạnh Tử, đặc biệt quan điểm về tính thiện nhân chính,
đã góp phần định ớng đạo đức cho con người trong hội. khẳng định niềm tin
vào bản chất tốt đẹp của con người, khuyến khích con người hướng thiện, hoàn thiện
bản thân góp phần xây dựng hội n minh. Quan điểm về “mạng trời” cũng
tác động nhất định đến hệ thống chính trị, củng cố quyền lực của vua nhưng đồng thời
cũng lời nhắc nhở vua về trách nhiệm của mình đối với đất nước nhân dân.
tưởng triết học của Mạnh Tử một kho tàng tri thức quý giá, giá trị lịch sử văn
hóa to lớn. đã đang góp phần định hướng đạo đức cho con người, ảnh hưởng
đến tưởng chính trị xây dựng hội văn minh. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận
những hạn chế trong tưởng của Mạnh Tử để cái nhìn toàn diện khách quan.

Preview text:

MẠNH TỬ 1. Sơ lược
Mạnh Tử là nhà triết gia Nho giáo đến từ Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử.
Ông được người đời xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được thế hệ sau này tôn
làm "Á thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).
Mạnh Tử tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương - thời nhà Chu,
quê gốc ở đất Trâu, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông
mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương thị. Mạnh mẫu đã ba lần
chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu
dưỡng. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư (tức là Khổng Cấp, cháu
nội của Khổng Tử). Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo.
2. Nội dung tư tưởng triết học của Mạnh Tử
Mạnh Tử sinh sống trong thời kỳ Chiến Quốc, khi phong trào du thuyết của các
sĩ tử đang vô cùng sôi nổi. Họ đều mong muốn được cống hiến tài năng và trí
tuệ của mình để tham gia vào hoạt động chính trị, thực hiện hoài bão xây dựng
đất nước.Với mong muốn bảo vệ và phát huy học thuyết của Khổng Tử, Mạnh
Tử đã mang theo niềm tin mãnh liệt đi chu du các nước, sử dụng kiến thức uyên
thâm của mình để thuyết phục các nước chư hầu. Môi trường gia đình, bối cảnh
xã hội và những chuyến du hành đã tác động mạnh mẽ, hun đúc nên tư tưởng
triết học độc đáo của Mạnh Tử. Trong đó, có những yếu tố khách quan đồng
thời tồn tại những yếu tố chủ quan đã ảnh hưởng đến tư tưởng của ông.
2.1. Quan điểm về thế giới
Trời trong triết học Mạnh Tử là đấng anh minh, ban cho con người bản tính
thiện và chi phối mọi quy luật vận hành trong vũ trụ. Mọi sự vật, hiện tượng
trong thế giới, từ sự biến hóa của giới tự nhiên đến sự biến đổi của đời sống xã
hội; từ sự thịnh vượng và suy tàn của các triều đại khác nhau trong lịch sử đến
quyền hành của bọn quý tộc và địa vị của thường dân, cũng đều bị chi phối bởi
ý chi và quyền uy của trời. Trời luôn công bằng khi ban thưởng cho người hiền
đức và trừng phạt kẻ tàn ác. Theo ông: “Phàm việc gì mình không cố ý làm mà
tự nhiên mình làm, đó là ý trời; mình không mong cầu mà tự nhiên tới, đó là
mạng trời vậy" (Quân tử sở tính, tuy đại hành bất gia yên; tuy cùng cư, bất tổn
yên. Phận định cố dã). Vì thế, Mạnh Tử khuyên nhủ hậu thế phải luôn luôn hoàn
toàn phục tùng mệnh trời, an phận đón nhận số mệnh trời đã định: "Chẳng có
việc gì xảy ra mà chẳng do nơi mạng Trời. Mình nên tùy thuận mà nhận lấy cái
mạng chính đáng ấy”. Từ đó, Mạnh Tử cho rằng, vũ trụ, vạn vật cũng đều tồn
tại trong ý thức chủ quan và trong quan niệm đạo đức trời phú cho con người.
Ông dạy con người chỉ cần suy xét ở trong tâm của mình chứ không phải đi tìm
chân lý ở ngoài thế giới bao la rộng lớn kia.
Như vậy, với những quan niệm về thế giới, Mạnh Tử đã bộc lộ rõ tính chất duy
tâm trong thế giới quan triết học của ông. Thế giới quan đó đã khai thác và thổi
phồng những yếu tố duy tâm, những mặt tiêu cực trong triết học của Khổng Tử
và thực tế đã chi phối phần lớn những quan điểm về chính trị - xã hội, luân lý
đạo đức của ông nói riêng cũng như hệ thống triết học Nho gia sau này nói chung.
2.2. Quan điểm về triết lý nhân sinh
Nội dung chủ yếu mỗi khi nhắc đến tư tưởng triết học của Mạnh Tử là vấn đề
triết lý nhân sinh, mà trọng tâm của nó là học thuyết về "tính thiện". Mạnh Tử
cho rằng: "Bản tính con người ta là thiện”. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện.
Tính thiện của con người được biểu hiện ở bốn đức lớn: Nhân, nghĩa, lễ, trí.
Bốn đức lớn đó bắt nguồn ở "tứ đoan", bốn đầu mối của thiện. Nó tiềm ẩn vốn
có trong con người. Con người ta ai cũng có lòng trắc ẩn (biết thương xót), lòng
u tố (biết thẹn, ghét), lòng từ nhượng (biết cung kính) và lòng thị phi (biết phải
trái). Người có tính thiện, là biết giữ phần quý bỏ phần hèn, giữ cái cao đạo, bỏ
phần ti tiện, có thể trở thành thánh nhân. Mạnh Tử khẳng định, bản tính con
người ta là thiện, còn con người ta có trở thành bất thiện, đó là do không giữ
được cái tâm tốt đẹp vốn có của mình và do hoàn cảnh nhấn chìm cái lương tâm
thiện của họ chứ không phải do bản tính của con người.
2.2.1. Phạm trù nhân
Là người kế thừa tư tưởng triết học của Khổng Tử trong bối cảnh thời Chiến
Quốc, Mạnh Tử đã phát triển và làm cho phạm trù nhân trở nên phong phú hơn
với những sắc thái mới, có chiều sâu nội tâm hơn. Nhân là lòng nhân ái, yêu
thương con người, là phẩm chất đạo đức cao đẹp giúp con người sống hòa
thuận, gắn bó với nhau, tạo nên một xã hội văn minh, thịnh vượng. Tuy nhiên,
đối với ông, trong cùng một thời điểm con người không thể yêu thương tất cả
mọi người được. Đó là điều không thể. Điều tiên quyết là phải yêu thương
những người thân trong gia đình, kể người có tài có đức, rồi sau đó là người đời và người bình thường.
2.2.2. Phạm trù nghĩa
Theo Mạnh Tử, nghĩa cũng tương đương với nhân, là một trong bốn đức tính
biểu hiện bản tính thiện của con người do trời phú. Nghĩa chính là việc thi hành
cái lý lẽ tự nhiên trong tâm, tính con người, ai cũng phải nuôi dưỡng đức nghĩa
cho dù trong hoàn cảnh nào. Nghĩa không chỉ là thuộc tính vốn có của con
người cần nuôi dưỡng, mà cao hơn hết nghĩa còn là điều con người sẵn sàng xả
thân, hy sinh. Theo ông, lòng hổ thẹn là nền tảng cho mọi đức tính tốt đẹp. Khi
nó bị mất đi, con người sẽ dễ dàng sa đà vào những hành vi sai trái, dẫn đến sự
tan vỡ của các giá trị đạo đức khác. Sống như thế thì chết còn hơn. Nếu Khổng
Tử không cho nhân, nghĩa đi chung với nhau thì Mạnh Tử đã đưa nghĩa lên
“ngang hàng” với nhân. Cho nên, ta có thể thấy, Mạnh Tử hễ nói đến nhân thì
cũng nói đến nghĩa. Hơn nữa, trong thực tiễn xã hội và luân lý đạo đức, nhân,
nghĩa luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mạnh Tử nói: "Nhân là cái tâm mà
người ta phải có; Nghĩa là con đường mà người ta phải theo". 2.2.3. Phạm trù lễ
Bên cạnh phạm trù nhân, nghĩa còn có lễ. Có thể nói nhân, nghĩa là nội dung,
còn hình thức để thực hiện nhân, nghĩa chính là lễ. Lễ là quy tắc đạo đức, hành
vi ứng xử thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự
nhiên và con người với Trời, thể hiện sự tôn trọng, yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau trong cộng đồng, góp phần duy trì trật tự xã hội và sự hài hòa giữa con
người với vũ trụ. Mạnh Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của nội dung đạo đức
trong Lễ, cho rằng Lễ phải xuất phát từ cái tâm chân thành, thiện lương của con
người. Nhờ có lễ, phận làm con giữ được chữ hiếu với cha mẹ. Mạnh Tử đã
nhắc lại câu nói thuở xưa của Tăng Tử rằng, phận làm con: "Khi cha mẹ còn
sống, mình phải noi theo lễ mà phụng dưỡng; khi cha mẹ qua đời, mình phải noi
theo lễ mà tống tang; rồi đến những kỳ tế tự, mình cũng phải noi theo lễ mà
cúng quải. Như vậy mới đáng gọi là con có hiếu" (Sinh, sự chi đi lễ: từ, tang chi
dĩ lễ, tế chi dĩ lễ; khả vị hiếu hỹ). 2.2.4. Phạm trù trí
Trí là một trong bốn phạm trù đạo đức quan trọng nhất trong triết học Nho giáo,
được Mạnh Tử kế thừa và phát triển một cách sáng tạo. Trí là năng lực nhận
thức, phân biệt đúng sai, sáng suốt trong suy nghĩ và hành động, giúp con người
hiểu biết bản thân, hiểu biết thế giới xung quanh và đưa ra những quyết định
sáng suốt. Mạnh Tử coi trí là điều kiện tiên quyết để rèn luyện đạo đức và hoàn
thiện nhân cách, phân biệt thiện ác, hướng thiện và tránh xa cái ác. Trí là sự
thông hiểu đạo lý, năm bắt nhận thức được cái thế, cải tinh của vạn vật, vạn sự.
Như vậy, về luân lý đạo đức, Mạnh Tử đã lý giải, khẳng định bản tính thiện
của con người. Từ đó, đưa ra các phương pháp để răn dạy con người và thay đổi
xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Đó chính là tính nhân bản trong tư tưởng của
Mạnh Tử. Với những tư tưởng phong phú qua các phạm trù đạo đức, tâm lý như
tâm, tính, khí, chí, nhân, nghĩa, lương năng, lương tri. . cùng với những quan
điểm đặc sắc về những biện pháp giáo dục con người của mình, Mạnh Tử đã
đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận về giáo dục trong lịch sử tư
tưởng Trung Quốc cổ đại. 3. Sức ảnh hưởng
Tư tưởng triết học của Mạnh Tử còn có ảnh hưởng đến các nước Á Đông khác, trong
đó có Việt Nam. Tư tưởng triết học của ông đã ảnh hưởng đến tư tưởng chính trị của
các triều đại phong kiến Trung Quốc, góp phần hạn chế sự chuyên chế của vua, xây
dựng một xã hội văn minh.
4. Hạn chế và ý nghĩa trong tư tưởng triết học của Mạnh Tử 4.1. Hạn chế
Hạn chế thứ nhất, tính chất tiên nghiệm luận thần bí trong quan niệm của Mạnh Từ
về sinh mệnh con người: Mạnh Tử đã quá đề cao vai trò của trời đến vô cùng. Theo
ông, trời là đấng anh minh tối cao, sáng tạo và chi phối vạn vật trong vũ trụ. Khẳng
định bản chất con người là thiện, ông đồng thời phủ nhận vai trò của giáo dục trong
việc tạo nên phẩm chất này. Theo ông, nó là một đặc tính bẩm sinh, tồn tại sẵn trong
tâm hồn mỗi con người. Có thể nói những quan niệm mang tính chất “tiên nghiệm
luận" thần bí của Mạnh Tử về bản tính, tri thức, đạo đức, số mệnh con người đã vô
tình cản trở tính năng động sáng tạo của con người trong việc hướng ra thế giới bên
ngoài để từng bước chinh phục thế giới. Quan điểm này cũng hạn chế vai trò của giáo
dục trong việc bồi dưỡng đạo đức và tri thức cho con người, đặc biệt là tri thức về thế
giới tự nhiên. Chính những ảnh hưởng từ mặt trái của Nho gia đã dẫn đến sự trì trệ của
dân tộc Trung Hoa cũng như một số nước phương Đông.
Hạn chế thứ hai, dấu ấn của sự phân biệt đẳng cấp, danh phận trong tư tưởng triết
học Mạnh Tử: Mặc dù đề cao bình đẳng, tư tưởng của ông vẫn thể hiện sự phân biệt
giữa những bậc trí tuệ siêu phàm, đạo đức cao quý với người dân bình thường. Quan
điểm của ông cho rằng, người quân tử là người luôn lấy nhân nghĩa làm kim chỉ nam,
đồng thời biết vận dụng nhân, nghĩa, lễ, trí để tu dưỡng đạo đức bản thân, biết giữ cái
"thiên tước". Ngược lại, những kẻ bình dân, không noi theo đường lối nhân nghĩa,
không biết lấy nhân, nghĩa, lễ, trí để giữ lòng mình, bỏ cái "thiên tước" mà đi tìm cái"nhân tước".
Tóm lại, do lập trường giai cấp và điều kiện lịch sử xã hội quy định nên dù tư tưởng
triết học của Mạnh Tử có nhiều giá trị, nhưng vẫn mang trong mình những hạn chế
nhất định, tư tưởng của ông không thoát khỏi tính chất duy tâm và dấu ấn của tính
đẳng cấp danh phận, bảo thủ. 4.2. Ý nghĩa
Tư tưởng triết học của Mạnh Tử, đặc biệt là quan điểm về tính thiện và nhân chính,
đã góp phần định hướng đạo đức cho con người trong xã hội. Nó khẳng định niềm tin
vào bản chất tốt đẹp của con người, khuyến khích con người hướng thiện, hoàn thiện
bản thân và góp phần xây dựng xã hội văn minh. Quan điểm về “mạng trời” cũng có
tác động nhất định đến hệ thống chính trị, củng cố quyền lực của vua nhưng đồng thời
cũng là lời nhắc nhở vua về trách nhiệm của mình đối với đất nước và nhân dân. Tư
tưởng triết học của Mạnh Tử là một kho tàng tri thức quý giá, có giá trị lịch sử và văn
hóa to lớn. Nó đã và đang góp phần định hướng đạo đức cho con người, ảnh hưởng
đến tư tưởng chính trị và xây dựng xã hội văn minh. Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận
những hạn chế trong tư tưởng của Mạnh Tử để có cái nhìn toàn diện và khách quan.
Document Outline

  • 1.Sơ lược
  • 2.Nội dung tư tưởng triết học của Mạnh Tử
  • 2.1.Quan điểm về thế giới
  • 2.2.Quan điểm về triết lý nhân sinh
  • 2.2.1.Phạm trù nhân
  • 2.2.2.Phạm trù nghĩa
  • 2.2.3.Phạm trù lễ
  • 2.2.4.Phạm trù trí
  • 3.Sức ảnh hưởng
  • 4.Hạn chế và ý nghĩa trong tư tưởng triết học của Mạ
  • 4.2.Ý nghĩa