Mối quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền và những ảnh hưởng đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế | Tiểu luận kinh tế chính trị
Mối quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền và những ảnh hưởng đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế | Tiểu luận kinh tế chính trị. Tài liệu được biên soạn giúp các bạn tham khảo, củng cố kiến thức, ôn tập và đạt kết quả cao kết thúc học phần. Mời các bạn đọc đón xem!
Môn: Kinh tế chính trị Mác-Lenin (BK)
Trường: Đại học Bách Khoa Hà Nội
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ****************
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
(Mã học phần SSH 1121)
ĐỀ TÀI: Mối quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền và những ảnh hưởng
đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ĐIỂM
NHẬN XÉT VÀ CHỮ KÝ CỦA GIẢNG VIÊN
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Minh Tiến 20203769
Phạm Văn Vĩnh 20203786
Trần Văn Xuân 20203792
Ung Đức Mạnh 20193003
Nguyễn Trọng Nghĩa 20190992
Lớp: 123888
Giảng viên hướng dẫn: PGS, TS. Trần Thị Lan Hương
Hà Nội, tháng 05 năm 2021
Phân công nghiệm vụ - Nguyễn Minh Tiến: viết tiểu luận - Phạm Văn Vĩnh:
phần Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền (phần 1) - Trần Văn Xuân:
phần Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lực của Chủ nghĩa tư bản độc
quyền trên thế giới (phần 3) - Ung Đức Mạnh:
phần mở đầu, kết luận
Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản sang Việt Nam chi phối thị trường nội địa (phần 2.3)
Các nước lớn phân chia ảnh hưởng trên thế giới, chi phối chính sách của các
nước khác trong đó có Việt Nam (phần 2.4) -
Nguyễn Trọng Nghĩa:
Các tổ chức độc quyền dựng rào cản ngăn chặn doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu (phần 2.1)
Tư bản tài chính chi phối thị trường tài chính toàn cầu trong đó có Việt Nam (phần 2.2) Mục lục
Phần mở đầu..........................................................................................................4
Phần nội dung.......................................................................................................6
1.Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền..................................................6
1.1.Cạnh tranh..........................................................................................................6
1.2.Độc quyền..........................................................................................................7
1.3.Quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền.............................................................10
2.Ảnh hưởng của độc quyền đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế........................................................................................................................11
2.1.Các tổ chức độc quyền dựng rào cản ngăn chặn doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu............................................................................................................................11
2.2.Tư bản tài chính chi phối thị trường tài chính toàn cầu trong đó có Việt Nam. .12
2.3.Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản sang Việt Nam chi phối thị trường
nội địa.........................................................................................................................13
2.4.Các nước lớn phân chia ảnh hưởng trên thế giới, chi phối chính sách của các
nước khác trong đó có Việt Nam................................................................................14
3.Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lực của Chủ nghĩa tư bản độc quyền
trên thế giới...............................................................................................................16
3.1.Mục tiêu..............................................................................................................16
3.2.Một số khuyến nghị............................................................................................19
Phần kết luận.........................................................................................................22
Tài liệu tham khảo...............................................................................................23 Phần mở đầu
1.Sự cần thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ XXI hiện đại, nền kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến.
Kinh tế tư bản chủ nghĩa, là một bộ phận của nó cũng có nhiều sự phát triển, thích
ứng với thời đại. Thời đại hiện nay là thời đại của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
và công nghệ thông tin, với xu hướng hội nhập hóa, quốc tế hóa mạnh mẽ mang tính
toàn cầu. Sự vận động của các dòng vốn đầu tư diễn ra với quy mô và chất lượng
ngày càng lớn và cùng với xu hướng đó sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu
sắc. Trong tình hình đó, sự cạnh tranh và độc quyền cũng phát triển theo, nhằm phù
hợp hơn với nền kinh tế hiện đại và năng động, chuẩn bị bước sang một nền kinh tế
hậu công nghiệp hay kinh tế tri thức. Mức độ độc quyền của các tổ chức kinh tế ngày
càng được tăng cường, ảnh hưởng sâu rộng đồng thời đến cả kinh tế và chính trị thế
giới. Việc nghiên cứu các động của cạnh tranh, độc quyền và quan hệ giữa chúng,
cũng như nghiên cứu nền kinh tế toàn cầu hiện nay là nhu cầu tất yếu khách quan đối
với tất cả các nước trong đó có Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong những năm qua, Việt
Nam đã có những thuận lợi và khó khăn nhất định trong phát triển kinh tế. Bối cảnh
tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới là cơ hội lớn cho Việt Nam
phát triển. Nghiên cứu về cạnh tranh, độc quyền cũng như quá trình xuất khẩu tư bản,
tức dòng vốn của các tổ chức độc quyền quốc tế là điều cần thiết cho chúng ta để có
thể hoạch định, xây dựng chính sách phù hợp nhằm tận dụng được các cơ hội để phát
triển kinh tế bền vững. Chúng ta phải chủ động hội nhập, xây dựng chiến lược cơ cấu
thích ứng vào nền kinh tế thế giới để nền kinh tế nước ta gắn kết ngày càng mạnh
hơn, dần trở thành một thực thể hữu cơ của kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực trạng, nhóm chúng em xin trình bày đề tài:
“Mối quan hệ giữa cạnh tranh với độc quyền và những ảnh hưởng đến Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”.
2.Đối tượng nghiên cứu -
Cạnh tranh là gì, có những loại cạnh tranh nào và tác dụng của nó. -
Độc quyền là gì, các khái niệm liên quan đến độc quyền và tác dụng của nó. -
Ảnh hưởng hiện nay của độc quyền tới Việt Nam, trong đó có sự cản trở,
chi phối của nó, cũng như cơ hội mà nó mang lại. -
Những khuyến nghị có thể đưa ra để tận dụng thời cơ, đồng thời tránh
những rủi ro với nền kinh tế Việt Nam khi tiếp xúc với Chủ nghĩa tư bản độc quyền trên thế giới.
3.Phạm vi nghiên cứu 4
Do giới hạn của mục tiêu đề tài tiểu luận, đề tài chỉ nghiên cứu những nội dung
cơ bản nhất của lý luận cạnh tranh, độc quyền mà Chủ nghĩa Mác – Lê nin đưa ra,
đồng thời bước đầu vận dụng vào xem xét tác động tới nền kinh tế Việt Nam sau Đổi
Mới. Qua đó, ta có được cái nhìn khách quan và tổng thể về những vấn đề này.
4.Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận của Triết học Mác – Lê nin để nghiên cứu đề tài.
Ngoài phương pháp luận, bài tiểu luận sử dụng phương pháp cụ thể, phân tích,
tổng hợp, tổng kết thực tiễn,...
5.Giới thiệu nội dung nghiên cứu
Trong bài tiểu luận, chúng em đã tiến hành nghiên cứu, phân tích về các vấn
đề: Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền, mối quan hệ giữa chúng; Ảnh
hưởng của độc quyền đến Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế; Một số
khuyến nghị để ứng phó với áp lực của Chủ nghĩa tư bản độc quyền trên thế giới.
Trên đây là những khái quát cơ bản về bài tiểu luận của nhóm chúng em. Do
giới hạn về trình độ ở mức sinh viên không chuyên về kinh tế chính trị, cũng như giới
hạn về thời gian, khó khăn về trao đổi thông tin trong thời kỳ dịch bệnh,... nên tiểu
luận có thể còn một số sai sót. Chúng em xin nhận những đánh giá, nhận xét từ cô. Chúng em xin cám ơn! 5 Phần nội dung
1.Khái quát lý luận về cạnh tranh và độc quyền 1.1.Cạnh tranh
* Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh là khái niệm rất rộng, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực khác
nhau của đời sống xã hội, từ cuộc sống sinh hoạt hằng ngày đến các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hoá, thể thao... và có khá nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau về cạnh tranh.
Theo cách hiểu phổ thông thể hiện trong Từ điển ngôn ngữ tiếng Anh,
“competition” (cạnh tranh) là “một sự kiện hoặc một cuộc đua, theo đó các đối thủ
ganh đua để giành phần hơn hay ưu thế tuyệt đổi về phía mình”. Theo Từ điển tiếng
Việt, “cạnh tranh” là “ cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những
người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau”.
Trong khoa học kinh tế, đến nay các nhà khoa học dường như chưa thoả mãn
với bất cứ khái niệm nào về cạnh tranh. Bởi lẽ, cạnh tranh là hiện tượng kinh tế chỉ
xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, ở mọi lĩnh vực, mọi giai đoạn của
quá trình kinh doanh và gắn với mọi chủ thể kinh doanh đang hoạt động trên thị
trường. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ thuộc vào ý
định và hướng tiếp cận nghiên cứu của các nhà khoa học.
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể kinh doanh, cuốn “Các hoạt
động hạn chế cạnh tranh và hoạt động thương mại không lành mạnh” của Tổ chức
thống nhất, tín thác vì người tiêu dùng (Ấn Độ) đã diễn tả: “Cạnh tranh trên thị
trường là quá trình ở đó nhà cung cấp cố gắng ganh đua để giành khách hàng bằng
các phương thức, biện pháp khác nhau”.
Theo Từ điển kinh doanh, xuất bản ở Anh năm 1992 thì "cạnh tranh" được
hiểu là "sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm
tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về
phía mình". Từ điển tiếng Việt Bách khoa tri thức phổ thông cũng giải thích cạnh
tranh theo nghĩa kinh tế là: Hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá,
giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều
kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Mặc dù được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau và có nhiều định nghĩa
khác nhau về cạnh tranh song nhìn chung theo các cách giải thích trên, trong khoa
học kinh tế cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị
trường nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng. Cạnh tranh
có thể xuất hiện giữa những người bán hàng và cũng có thể xuất hiện giữa những
người mua hàng nhưng cạnh tranh giữa những người bán hàng là phổ biến. 6
* Căn cứ theo phạm vi nhanh kinh tế:
Người ta chia cạnh tranh thành hai loại:
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: Là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng
sản xuất hoặc tiêu thụ một loại hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó. Trong cuộc cạnh tranh
này có sự thôn tính lẫn nhau. Những doanh nghiệp chiến thắng sẽ mở rộng phạm vi
hoạt động của mình trên thị trường. Những doanh nghiệp thua cuộc sẽ phải thu hẹp
kinh doanh thậm chí phá sản.
- Cạnh tranh giữa các ngành: Là sự cạnh tranh giữa các chủ doanh nghiệp
trong ngành kinh tế khác nhau, nhằm giành lấy lợi nhuận lớn nhất. Trong quá trình
cạnh tranh này, các chủ doanh nghiệp luôn say mê với những ngành đầu tư có lợi
nhuận nên đã chuyển vốn từ ngành ít lợi nhuận sang ngành nhiều lơị nhuận. Sự điều
tiết tự nhiên theo tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian nhất định sẽ hình
thành nên một sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất, để rồi kết quả cuối cùng
là, các chủ doanh nghiệp đầu tư ở các ngành khác nhau với số vốn như nhau thì cũng
chỉ thu được như nhau, tức là hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
* Vai trò, tác dụng của cạnh tranh:
Cạnh tranh có vai trò đặc biệt không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn cả người
tiêu dùng và nền kinh tế
- Đối với doanh nghiệp: Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi
doanh nghiệp do khả năng cạnh tranh tác động đến kết quả tiêu thụ mà kết quả tiêu
thụ sản phẩm là khâu quyết định trong việc doanh nghiệp có nên sản xuất nữa hay
không. Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh
nghiệp tìm ra những biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình.
Cạnh tranh quyết định vị trí của doanh nghiệp trên thị trường thông qua thị phần của
doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh.
- Đối với người tiêu dùng: Nhờ có cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mà người
tiêu dùng có cơ hội nhận được những sản phẩm ngày càng phong phú và đa dạng với
chất lượng và giá thành phù hợp với khả năng của họ.
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh là động lực phát triển của các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Cạnh tranh là biểu hiện quan trọng để phát triển lực
lượng sản xuất, thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Cạnh tranh là điều kiện
giáo dục tính năng động của nhà doanh nghiệp bên cạnh đó góp phần gợi mở nhu cầu
mới của xã hội thông qua sự xuất hiện của các sản phẩm mới. Điều này chứng tỏ chất
lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên cạnh tranh cũng dẫn tới sự
phân hoá giàu nghèo có thể dẫn tới xu hướng độc quyền trong kinh doanh. 1.2.Độc quyền
* Khái niệm độc quyền 7
Độc quyền là thuật ngữ trong kinh tế học chỉ về trạng thái thị trường chỉ có
duy nhất một người bán và sản xuất ra sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần gũi.
Trong tiếng Anh monopoly có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp monos (nghĩa là một)
và polein (nghĩa là bán). Đây là một trong những dạng của thất bại thị trường, là
trường hợp cực đoan của thị trường thiếu tính cạnh tranh. Mặc dù trên thực tế hầu
như không thể tìm được trường hợp đáp ứng hoàn hảo hai tiêu chuẩn của độc quyền
và do đó độc quyền thuần túy có thể coi là không tồn tại nhưng những dạng độc
quyền không thuần túy đều dẫn đến sự phi hiệu quả của lợi ích xã hội. Độc quyền
được phân loại theo nhiều tiêu thức: mức độ độc quyền, nguyên nhân của độc quyền,
cấu trúc của độc quyền... Độc quyền là hiện tượng trên thị trường chỉ có một doanh
nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp câu kết với nhau chiếm vị trí độc tôn trong việc
cung cấp sản phẩm nhất định nào đó, cho phép họ kiểm soát trọn vẹn giá cả sản phẩm
để thu lợi nhuận tối đa và ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh khác thâm nhập thị trường.
Độc quyền là hậu quả tất yếu của quá trình cạnh tranh không được định
hướng và điều chỉnh: từ cạnh tranh lành mạnh chuyển sang cạnh tranh không lành
mạnh dẫn tới cạnh tranh mang tính độc quyền và cuối cùng xuất hiện độc quyền. Độc
quyền làm tê liệt cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng, tác động xấu đến công bằng xã hội, tạo sức ì
đối với chính bản thân các doanh nghiệp độc quyền.
Cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền là những khuyết tật của nền kinh
tế thị trường. Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau để kiểm soát độc quyền: chính sách thuế, quản lí giá sản phẩm, điều chỉnh
độc quyền, chống các-ten, tơ-rớt...
* Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ
nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó
không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng,
phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng
hóa nói chung làm cho các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và của chủ
nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
- Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả
độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị
không còn hoạt động, về thực chất, giá cá độc quyền vẫn không thoát ly và không
phủ định cơ sở của nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc
quyền chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người
khác. Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả
vẫn bằng tổng số giá trị. Như vậy, nếu như trong giai doạn chủ nghĩa tư bản tự do
cạnh tranh, quy luật giá trị biểu liện thành quy luật giá cả sản xuất, thì trong giai đoạn
chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị biêu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. 8
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư
biểu hiện thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ nghĩa
tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá cả độc quyền
và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do đó, quy luật lợi nhuận độc quyền cao là
hình thức biểu hiện của quy luật giá tri thặng dư trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là lao động không công của công nhân
ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao động không công của nhân công ở các xí
nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và nhỏ bị
mất đi do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi có một phần
lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản
và các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị thặng dư
biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này phản ánh quan hệ
thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của xã hội tư
bản và trên toàn thế giới.
* Ảnh hưởng của độc quyền
- Tác hại: Độc quyền hạn chế thương mại tự do và ngăn thị trường thiết lập
giá. Điều đó tạo ra bốn tác dụng phụ sau:
Vì độc quyền là nhà cung cấp duy nhất nên họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ
muốn. Đó gọi là ấn định giá. Họ có thể làm điều này bất kể nhu cầu người dùng vì họ
biết người tiêu dùng không có lựa chọn nào khác. Điều này đặc biệt đúng khi nhu cầu
không đổi đối với hàng hóa và dịch vụ. Đó là khi mọi người không có nhiều sự lựa
chọn . Xăng là một ví dụ. Một số lái xe có thể chuyển sang phương tiện giao thông
đại chúng hoặc xe đạp, nhưng hầu hết không thể.
Độc quyền không chỉ vừa có thể tăng giá mà lại vừa có thể cung cấp các sản
phẩm kém hơn. Điều đó đã xảy ra ở một số khu vực đô thị, nơi các cửa hàng tạp hóa
biết cư dân nghèo có ít lựa chọn thay thế.
Độc quyền khiến doanh nghiệp mất mọi động lực để đổi mới hoặc cung cấp
các sản phẩm "mới và cải tiến". Một nghiên cứu năm 2017 của Cục nghiên cứu kinh
tế quốc gia cho thấy các doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đầu tư ít hơn dự kiến kể từ năm
2000 do sự cạnh tranh giảm sút. Điều đó đúng với các công ty cáp cho đến khi các
ăng-ten đĩa vệ tinh và dịch vụ phát trực tuyến phá vỡ sự nắm giữ của họ trên thị trường.
Độc quyền tạo ra lạm phát. Vì họ có thể đặt bất kỳ giá nào họ muốn, họ sẽ
tăng chi phí cho người tiêu dùng. Nó được gọi là lạm phát do chi phí đẩy. Một ví dụ
điển hình về cách thức hoạt động của nó là Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ. 12
quốc gia xuất khẩu dầu trong OPEC hiện kiểm soát giá 46% lượng dầu sản xuất trên thế giới. 9
- Tác dụng: Đôi khi một sự độc quyền là cần thiết. Nó đảm bảo phân phối
nhất quán một sản phẩm hoặc dịch vụ có chi phí trả trước rất cao. Một ví dụ là các
tiện ích điện và nước. Việc xây dựng các nhà máy điện hoặc đập mới rất tốn kém, vì
vậy điều hợp lý là cho phép các nhà độc quyền kiểm soát giá để trả cho các chi phí này.
1.3.Quan hệ giữa độc quyền với cạnh tranh
Mối quan hệ giữa độc quyền và cạnh tranh:
- Độc quyền sinh ra từ cạnh tranh tự do, độc quyền đối lập với cạnh tranh tự
do. Nhưng sự xuất hiện của độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, trái lại còn
làm cho cạnh tranh trở nên đa dạng, gay gắt và có sức phá hoại to lớn hơn.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, không chỉ tồn tại sự cạnh
tranh giữa những người sản xuất nhỏ, giữa những nhà tư bản vừa và nhỏ như trong
giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, mà còn có thêm các loại cạnh tranh sau:
Một là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với các xí nghiệp ngoài độc
quyền. Các tổ chức độc quyền tìm mọi cách chèn ép, chi phối thôn tính các xí nghiệp
ngoài độc quyền bằng nhiều biện pháp như: độc chiếm nguồn nguyên liệu, nguồn
nhân công, phương tiện vận tải, tín dụng, hạ giá có hệ thống... để đánh bại đốỉ thủ.
Hai là, cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền với nhau. Loại cạnh tranh này
có nhiều hình thức: cạnh tranh giữa các tổ chức độc quyền trong một ngành, kết thúc
bằng một sự thoả hiệp hoặc bằng sự phá sản của một bên; cạnh tranh giữa các tổ chức
độc quyềnkhác ngành có liên quan với nhau về nguồn nguyên liệu, kỹ thuật...
Ba là, cạnh tranh trong nội bộ các tổ chức độc quyền. Những nhà tư bản
tham gia cácten, xanhđica cạnh tranh với nhau để giành thị trường tiêu thụ có lợi
hoặc giành tỷ lệ sản xuất cao hơn. Các thành viên của tơrớt và côngxoócxiom cạnh
tranh với nhau để chiếm cổ phiếu khống chế, từ đó chiếm địa vị lãnh đạo và phân
chia lợi nhuận có lợi hơn. 10
2.Ảnh hưởng của độc quyền đến VN trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
2.1.Các tổ chức độc quyền dựng rào cản ngăn chặn doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu
Trong thương mại quốc tế, rào cản thương mại được chia làm hai loại: rào cản
thuế quan và rào cản phi thuế quan. Rào cản phi thuế quan là các rào cản ngoài thuế
làm ảnh hưởng đến lưu chuyển hàng hoá quốc tế, nhằm duy trì và bảo hộ sản xuất
cũng như người tiêu dùng nội địa. Các rào cản thương mại ngày nay thực sự là một
vấn đề toàn cầu. Mối quan hệ giữa chính sách của một nước nhập khẩu và quyền lợi
của các nhà sản xuất trong nước có thể chứa đựng những yếu tố phức tạp và mâu
thuẫn. Các nước phát triển trong đó có Hoa Kỳ thường đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật
trong thương mại có liên quan tới thực trạng kinh tế – chính trị của họ. Nhiều nghiên
cứu đã chỉ ra rằng các rào cản thương mại truyền thống trong thương mại quốc tế đã
bị dỡ bỏ bởi các hiệp định thương mại song phương và các thoả ước quốc tế. Hoa Kỳ
hiện nay đang đối mặt với sự cạnh tranh của luồng hàng hoá từ các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam với giá thấp, lao động rẻ và kỹ thuật trung bình so với
hàng hoá của Hoa Kỳ. Kết quả là Hoa Kỳ đã phản ứng lại tình trạng này bằng cách
đặt ra nhiều yêu cầu chặt chẽ gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu, đặc biệt là từ các
nước đang phát triển khi họ muốn xuất khẩu sản phẩm sang Hoa Kỳ. Các rào cản kỹ
thuật trong thương mại được sử dụng trong hầu hết các ngành công nghiệp, đặc biệt
là đối với các sản phẩm nông nghiệp chế biến. Các quy định về môi trường đối với
các sản phẩm nông nghiệp trở nên phức tạp hơn, mặc dù đã có những sáng kiến để
làm giảm bớt các quy định khắt khe đang được nhiều nước xem xét. Hiện nay một số
lượng đáng kể các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đã bị trả lại ngay từ khi được
nhập tại các cảng của Mỹ bởi vì chúng không phù hợp với các quy định của Mỹ về
yếu tố môi trường, an toàn thực phẩm v.v… đã gây ra nhiều thiệt hại cho các nhà sản
xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Lấy vụ tranh chấp về cá catfish giữa Việt Nam và
Mỹ và vụ tranh chấp về cá “sardine” giữa Châu Âu và Pê-ru làm thí dụ cho thấy còn
có một khoảng cách khá xa để Việt Nam được hưởng quy chế thương mại của Mỹ
một cách thực sự. Các trường hợp trước đó cho thấy Mỹ sử dụng các rào cản kỹ thuật
trong thương mại (TBTs) để làm giảm lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp từ
Việt Nam. Bài viết cũng đề cập về việc Mỹ áp dụng các 2 rào cản kỹ thuật trong
thương mại đối với các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam như là một công cụ nhằm
hạn chế hàng hóa nhập khẩu vào thị trường này. Ngoài ra khi thảo luận về các rào cản
kỹ thuật trong thương mại của Mỹ, bài viết cũng giải thích lý do của việc nghiên cứu
các rào cản thương mại trong thị trường nông sản và lý giải vì sao các rào cản kỹ
thuật lại được tập trung áp dụng ngày càng nhiều. Nó cũng góp phần đánh giá các tác
động của rào cản kỹ thuật trong thương mại đối với thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam
vào thị trường Mỹ. Giải pháp của vấn đề này sẽ hỗ trợ các cộng đồng các doanh
nghiệp Việt Nam trong quá trình mở rộng giao thương với các đối tác Mỹ. 11
2.2.Tư bản tài chính chi phối thị trường tài chính toàn cầu, trong đó có Việt Nam
- Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa tư bản hiện đại cũng có những đặc điểm mới. Tích tụ, tập trung sản xuất làm
hình thành các công ty có quy mô ngày càng lớn, trở thành những công ty tư bản độc
quyền. Nhu cầu vốn của các công ty này vô cùng lớn, vượt quá khả năng của một vài
cá nhân, đòi hỏi phải thu hút các nguồn lực xã hội. Công ty cổ phẩn trở thành hình
thức tổ chức phổ biến của các công ty, tập đoàn kinh tế trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại. Sở hữu tư nhân, nền tảng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, trong các công ty này,
không còn tồn tại dưới hình thức sở hữu của những người sản xuất độc lập, mà là sở
hữu tư nhân đã được xã hội hóa. Trong các công ty cổ phần, không chỉ có vốn của
các nhà tư bản mà còn có sự tham gia của công nhân, người lao động. Với việc tham
gia thị trường chứng khoán, phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường
chứng khoán, số người (và tổ chức) đầu tư vào cổ phiếu ngày càng nhiều, quyền sở
hữu cổ phần của công ty ngày càng phân tán. Tuy nhiên, các nhà tư bản vẫn là người
nắm giữ cổ phần chi phối công ty, tập đoàn. Trong các công ty, tập đoàn xuyên quốc
gia, siêu quốc gia, các nhà tư bản chỉ cần nắm giữ cổ phần chi phối ở công ty mẹ thì
thông qua “chế độ tham dự” có thể chi phối được lượng vốn rất lớn của xã hội.
Các quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất, phân phối trong chủ nghĩa tư bản hiện
đại cũng có những thay đổi lớn. Các dây chuyền sản xuất tự động, các máy móc tự
động, các robốt thay thế cho con người được sử dụng ngày càng nhiều. Các dây
chuyền tự động hóa không chỉ sản xuất hàng loạt một loại sản phẩm mà còn có khả
năng sản xuất được những sản phẩm đơn chiếc theo nhu cầu, thiết kế riêng của từng
khách hàng. Hệ thống máy tính, trí tuệ nhân tạo đã thay thế nhiều hoạt động quản lý
sản xuất, phân phối của con người. Thay thế cho việc tổ chức sản xuất tập trung, hoàn
chỉnh một sản phẩm trước đây, ngày nay, việc sản xuất một sản phẩm, nhất là những
sản phẩm lớn, phức tạp, được chia nhỏ, phân tán cho nhiều đơn vị sản xuất độc lập
thực hiện, chuyên môn hóa sản xuất những chi tiết, linh kiện được tiêu chuẩn hóa, tạo
nên chuỗi các công đoạn sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm có quan hệ gắn bó chặt chẽ
với nhau. Các đơn vị sản xuất có thể ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau.
Cách thức tổ chức sản xuất mới tạo điều kiện, cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa nhưng có công nghệ hiện đại hợp tác, liên kết, trở thành vệ tinh, đối tác tham gia
vào các chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn kinh tế lớn. Các công ty, tập đoàn kinh
tế lớn chuyển quản lý từ mô hình “kim tự tháp”, tập trung quyền quản lý vào các
công ty mẹ sang quản lý theo mô hình “mạng lưới”, mỗi đơn vị sản xuất là một điểm
nút trong mạng lưới, có tính tự chủ cao, có khả năng ứng phó linh hoạt, hiệu quả với
các biến động của thị trường. Các nhà tư bản chỉ cần nắm cổ phần chi phối ở công ty
mẹ, nắm các công nghệ cốt lõi, thương hiệu, hệ thống phân phối sản phẩm cuối cùng
là chi phối được toàn bộ chuỗi giá trị sản phẩm. Nền kinh tế thị trường hiện đại với
vai trò chi phối của các tổ chức tư bản độc quyền là cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. 12
2.3.Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản sang Việt Nam, chi phối
thị trường nội địa
Sau năm 1986, Đảng và Nhà nước Việt Nam tiến hành Đổi Mới, xóa bỏ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung mang tính quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội hội chủ nghĩa, chịu sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Một
trong các chủ trương của Đảng và Nhà nước là mở cửa, biến Việt Nam thành một nền
kinh tế sản xuất và xuất khẩu, thu hút dòng vốn đầu tư từ nước ngoài. Hay, đây chính
là sự nhập khẩu tư bản từ các nước phát triển hơn vào Việt Nam.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước
ngoài) nhằm mục đích giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập
khẩu tư bản. Đối với các tập đoàn độc quyền, việc đưa tư bản ra nước ngoài để tìm
kiếm nơi đầu tư có lợi nhất trở thành phổ biến, gắn liền với sự tồn tại của các tổ chức
độc quyền. Các tổ chức độc quyền lớn xuất khẩu tư bản vào Việt Nam có thể phân ra
làm 2 loại: tổ chức độc quyền tư nhân và tổ chức độc quyền Nhà nước. Các tổ chức
độc quyền tư nhân, đại diện tiêu biểu là các tập đoàn độc quyền lớn, các công ty
xuyên quốc gia như Samsung, Sony,... ở lĩnh vực công nghệ, đến mảng bán lẻ, khâu
tiêu thụ sản phẩm như Central Group. Độc quyền nhà nước là sự đầu tư của chính
phủ các nước vào Việt Nam ở đa dạng các ngành nghề, từ nông nghiệp, giao thông
vận tải, logistic tới năng lượng,...
Về các hình thức xuất khẩu tư bản, đầu tư vào Việt Nam của các tập đoàn độc
quyền gồm 2 hình thức là xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp.
Đầu tư trực tiếp là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp
mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư để trực tiếp
nhận kinh doanh thu lợi nhuận cao, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở
chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song
phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty
nước ngoài. Biểu hiện của hình thức này là nguồn vốn FDI (Foreign Direct
Investment) là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Lũy kế đến ngày 20/12/2020, cả nước
có 33.070 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 384 tỷ USD;
vốn thực hiện ước đạt 231.86 tỷ USD. Đứng đầu là Hàn Quốc với tổng số vốn đăng
ký 70.6 tỷ USD, theo sau là Nhật Bản – 60.3 tỷ USD, Singapore, Đài Loan.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc cho vay để thu lợi tức, mua
cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá trị khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham
gia quản lý hoạt động đầu tư. Biểu hiện của hình thức này có thể kể đến các khoản
đầu tư Hỗ trợ Phát triển Chính thức ODA (Officail Development Assistance), gồm
ODA không hoàn lại và ODA ưu đãi. Các khoản đầu tư này nhằm xây dựng cơ sở hạ
tầng, vật chất kỹ thuật, đổi lại, bên nhận (ở đây là Việt Nam) phải chịu các điều kiện
ràng buộc về kinh tế hay chính trị. 13
Sự đầu tư từ nước ngoài dưới các hình thức trên đây tạo điều kiện phát triển
kinh tế mạnh mẽ. Nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua (từ năm 2011 đến 2020) đã
phát triển nhanh chóng, theo Dự thảo Báo cáo Chính trị tháng 10-2020 trình Đại hội
XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5.9%/năm,
quy mô GDP tăng từ 116 tỷ USD (2010) lên 268.4 tỷ USD (2020). Tuy vậy, ta không
thể phủ nhận có những mặt trái của quá trình nhập khẩu tư bản vào nước ta từ các tổ
chức độc quyền: việc chiếm lĩnh thị phần trong nước và chi phối thị trường nội địa
của các tổ chức độc quyền. Các tổ chức độc quyền nước ngoài hiện đang chiếm giữ
thị phần không nhỏ ở nhiều ngành kinh tế khác nhau ở Việt Nam, có ưu thế trong việc
quyết định giá cả sản phẩm. Điều này gây ra ảnh hưởng không nhỏ đến sự cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nước. Điển hình có thể kể đến thị trường smartphone Việt
Nam năm 2020, theo số liệu thị trường của GfK công bố tháng 11/2020, trong top 5
thương hiệu smartphone chiếm thị phần lớn tại Việt Nam: Samsung chiếm 31%,
Oppo 18.6%, Vsmart 15.2%, Vivo 9.6% và Realme 7.2%. Thị trường smartphone
được đánh giá là đã bão hòa, với những cái tên lớn tới từ các tập đoàn khổng lồ Hàn
Quốc và Trung Quốc. Thương hiệu Vsmart mới đây, 9/5/2021, đã tuyên bố rút khỏi
mảng này vì không có lợi nhuận, làm cho người tiêu dùng càng mất đi sự đa dạng sản
phẩm để lựa chọn khi chỉ còn một vài hàng lớn kinh doanh ở mảng này. Các doanh
nghiệp này cũng hạn chế nguồn cung nguyên vật liệu và đối tác phân phối, cộng với
sự lạc hậu về kỹ thuật làm cho các doanh nghiệp Việt cũng khó có cơ hội chen chân
vào chuỗi cung ứng của họ, mà chỉ có thể tham gia ở một số khâu đơn giản. Không
chỉ thiết bị điện tử, trong nhiều năm, các ngành sản xuất ôtô, kinh doanh bán lẻ,...
cũng chịu chi phối bởi nhiều doanh nghiệp ngoại với những cái tên sừng sỏ. Thực
trạng nền kinh tế như vậy đặt ra những thách thức lớn cho cả nhà nước cũng như các
doanh nghiệp trong nước về vấn đề hạn chế sự chi phối thị trường của các tập đoàn tư
bản nước ngoài, giành lại thị phần trong nước. Ngoài ra, không chỉ chịu chi phối về
kinh tế bởi các tổ chức độc quyền, nước ta, và nhiều nước khác trên thế giới cũng
chịu ảnh hưởng chính trị từ các quốc gia lớn.
2.4.Các nước lớn phân chia ảnh hưởng trên thế giới, chi phối chính sách
của các nước khác, trong đó có Việt Nam
Nhập khẩu tư bản mang lại tác động đáng kể tới nền kinh tế nhưng cũng đồng
thời là mối tiềm ẩn, là một cái bẫy nếu không có sự thu chi hợp lý, sẽ dẫn tới lệ thuộc
cả về kinh tế và chính trị vào nước ngoài. Do nắm giữ sự chi phối về kinh tế, các tổ
chức độc quyền có thể ảnh hưởng đến Chính phủ các nước phụ thuộc, tác động làm
thay đổi chính sách đối nội, đối ngoại của nước đó theo hướng có lợi cho chúng. Sự
phụ thuộc này là cơ sở của chính sách thực dân kiểu mới mà các cường quốc đang sử
dụng, áp đặt lên các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Định nghĩa chủ nghĩa thực dân mới là thuật ngữ chỉ việc sử dụng chủ nghĩa tư
bản, toàn cầu hóa và các công cụ văn hóa để kiểm soát một quốc gia thay vì kiểm
soát trực tiếp quân sự hoặc chính trị. Quyền lực của Chủ nghĩa thực dân mới được
cho là việc sử dụng các chính sách tài chính và thương mại để thống trị các quốc gia 14
kém phát triển. Các nước lớn cấp những khoản cho vay, viện trợ đi kèm điều kiện để
duy trì sự “kiểm soát lỏng”.
Đây là một chiến lược trọng tâm, là thượng sách, được nhiều cường quốc áp
dụng để có được “quyền lực mềm” tại các quốc gia nhỏ, mà Hoa Kỳ và Trung Quốc
hiện là hai quốc gia đang áp dụng triệt để chính sách này. Một minh chứng rõ ràng
nhất là “Sáng kiến Vành đai và Con đường” mà Trung Quốc khởi xướng và triển khai
trong thời gian gần đây. Kế hoạch này là một đại dự án đầu tư quy mô khổng lồ của
Trung Quốc vào các quốc gia Á-Âu-Phi, nhằm tăng cường tầm ảnh hưởng về kinh tế
và chính trị của nước này các quốc gia, vùng lãnh thổ mà kế hoạch này đi qua. Sáng
kiến này có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế và trao đổi, thương mại trên một khu
vực rộng lớn, đặc biệt là Trung Quốc. Tuy vậy, nó cũng hứng chịu nhiều chỉ trích, bởi
có thể khiến các quốc gia khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương rơi vào “bẫy nợ” của
Trung Quốc. Mới đây, Sri Lanka, một đảo quốc Nam Á đã gặp rắc rối về tài chính và
khó có khả năng chi trả 6 tỷ USD từ các khoản đầu tư cơ sở hạ tầng của Trung Quốc,
và buộc phải cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota vào ngày 29/7/2017 với thời hạn
99 năm. Nhiều đảo quốc Thái Bình Dương rơi vào bẫy nợ, khi từ năm 2011 đến 2018,
6 đảo quốc gồm Quần đảo Cook, Fiji, Papua New Guinea, Samoa, Tonga và Vanuata
vay nợ trung quốc 6 tỷ USD. Campuchia, do ảnh hưởng từ các khoản đầu tư khổng lồ
của Trung Quốc, cũng có rất nhiều quyết sách ủng hộ, nghiêng về lập trường Trung
Quốc trên trường quốc tế. Thật vậy, như nhiều quốc gia khác trên thế giới hiện nay,
khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đang chịu sự tác động của
cuộc tranh giành, phân chia ảnh hưởng giữa các cường quốc kinh tế. Để có thể có các
khoản ODA ưu đãi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chúng ta đã phải chịu một số điều kiện
từ các nước cho vay, như phải sử dụng chuyên gia của họ, phải có chính sách ưu đãi
cho họ,... Những điều kiện ấy cũng tác động phần nào đến chính sách của nước ta. Để
có thể phát triển bền vững, toàn diện, nước ta cần phải khôn khéo trong sử dụng
nguồn vốn vay, tránh các các điều khoản ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền,
cũng như tranh thủ sự cạnh tranh ảnh hưởng của các bên để có thể tối đa thu hút
nguồn đầu tư mà vẫn giữ vững được sự độc lập chính trị và kinh tế. 15
3.Một số khuyến nghị để ứng phó với áp lực của chủ nghĩa tư bản độc
quyền trên thế giới.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là một hình thức cực đoan của chủ nghĩa tư bản
nhà nước trong đó nhà nước được coi là một doanh nghiệp độc quyền duy nhất chi
phối hầu hết các hoạt động sản xuất và phân phối hàng hóa trong nền kinh tế.
Sự tích tụ ,thống trị và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền. Từ tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ
chức độc quyền trong ngân hàng. Do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội,
ngân hàng đã trở thành người có quyền lực có thể chi phối hoạt động kinh tế xã hội,
các tổ chức độc quyền ngân hàng này cho tổ chức độc quyền công nghiệp vay và
nhận gửi lãi sinh ra nhiều lợi nhuận. Từ đây tư bản tài chính ra đời.
Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài nhằm mục đích chiếm đoạt
thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản. Từ đây sinh ra sự phân chia thế giới. Có hai
hình thức phân chia thế giới đó là phân chia về mặt kinh tế giữa các liên minh độc
quyền kinh tế và phân chia về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc. Sự phân
chia này là vì mục đích đáp ứng nhu cầu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản độc quyền.
Từ những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản, nhận thấy cần phải có các khuyến
nghị và mục tiêu để ứng phó với áp lực của chủ nghĩa tư bản độc quyền trên thế giới. 3.1.Mục tiêu
3.1.1.Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
3.1.1.1.Tổng quát nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mô hình kinh tế thị trường này được thực hiện thành công ở khá nhiều nước
Tây - Bắc Âu, điển hình là Đức (quê hương của mô hình kinh tế thị trường - xã hội),
Thuỵ Điển, Na Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có
mặt ở một số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những mức độ khác nhau.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó
các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại và khu vực kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi
Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế
thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu.
Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ 16
nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
3.1.1.2.Đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Về chủ thể kinh tế: Các chủ thể kinh tế được tự do sản xuất kinh doanh theo
luật pháp và được bình đẳng không phân biệt đối xử. Các chủ thể kinh tế đều có cơ
hội để tiếp cận các nguồn lực phát triển có hiệu quả.
Về thị trường: Thực hiện các giải pháp để tạo lập và phát triển các yếu tố thị
trường cơ bản như thị trường hàng hóa và dịch vụ; thị trường vốn, tiền tệ; thị trường
khoa học, công nghệ; thị trường lao động, thị trường bất động sản và lành mạnh hóa
các yếu tố thị trường đó nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn
định, bền vững và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về cơ chế vận hành: Tôn trọng tính khách quan của các quy luật kinh tế thị
trường; tính năng động của cơ chế thị trường.
Về vai trò của Nhà nước: Nhà nước điều tiết nền kinh tế thị trường trên cơ sở
vận dụng các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường vào điều kiện Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để định hướng phát triển nền kinh tế, tạo lập
môi trường cho nền kinh tế phát triển ổn định, bền vững và hạn chế mặt trái của cơ chế thị trường.
3.1.2.Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng.
3.1.2.1.Nền kinh tế độc lập tự chủ là gì
Có rất nhiều cách hiểu về nền kinh tế độc lập tự chủ. Nhưng theo cách hiểu
truyền thống thì một nền kinh tế độc lập là một nền kinh tế phát triển toàn diện, có
khả năng tự thoả mãn những nhu cầu mọi mặt của đời sống xã hội, của an ninh quốc
phòng và quá trình tái sản xuất xã hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành bình thường và đảm bảo được nền
tảng cho việc duy trì an ninh quốc phòng. Ngày nay khi toàn cầu hoá đã phát triển ở
mức cao, thị trường của các quốc gia đã đang và tiếp tục được mở rộng chúng ta có
cách hiểu mới đó là nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế có khả năng thích ứng
cao với những biến động của tình hình quốc tế và ít bị tổn thương trước những biến
động đó, trong bất kì một tình huống nào nó cũng có thể cho phép duy trì được hoạt
động bình thường của xã hội và phục đắc lực cho các mục tiêu an ninh quốc phòng của đất nước.
3.1.2.2.Vì sao phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Trong thời đại ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một nhu cầu, một xu thế
tất yếu kéo theo nó phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Thực tiễn cho thấy nếu
một nước không có một nền kinh tế độc lập tự chủ thì sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, lệ
thuộc về chính trị mà một khi không có độc lập về chính trị thì độc lập của dân tộc ấy 17
cũng không còn. Mặt khác, khi nền kinh tế bị lệ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài thì
không thể tự mình lựa chọn mục tiêu phát triển định hướng phát triển tự mình xác
định chủ trương chính sách và lựa chọn mô hình phát triển phù hợp, sẽ rất dễ dẫn đến
nguy cơ khủng hoảng kinh tế, làm cho đời sống của nhân dân khó khăn, nền kinh tế
trì trệ kém phát triển và dẫn đến nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Hơn thế nữa, Việc
mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế cũng gặp phải khó khăn và không đạt được kết
quả như mong muốn vì không đủ tiềm lực kinh tế để tham gia vào quá trình hội nhập
thì sẽ bị thua thiệt so với các nước khác khống chế. Nhận thức rõ được tầm quan
trọng của việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Đảng và nhà nước ta coi đây là
nội dung chính yếu trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Trong văn kiện đại
hội đảng lần thứ IX đề ra “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp....”.Sự cần thiết
phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ kinh tế xuất phát từ một số luận điểm được nêu dưới đây.
Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự phát triển vững chắc và
đảm bảo tính an toàn. Ai cũng rõ, toàn cầu hoá làm lây lan nhanh chóng những cuộc
khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ...làm trầm trọng thêm những vấn đề mang tính
toàn cầu mà thế giới chưa tìm được lối thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền kinh
tế trở nên dễ biến động, bất ổn định hơn trước. Để có một nền kinh tế ổn định ít bị
ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng đó yêu cần cần có một nền kinh tế độc lập tự
chủ ít lệ thuộc nhất vào nước ngoài.
Nước nào muốn thu được nhiều lợi nhuận thì phải nắm công cụ quan trọng là
khoa học công nghệ hiện đại. Để thực hiện việc chuyển giao công nghệ, mỗi nước
phải đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu được công nghệ hiện đại. Thế nhưng
một vấn đề quan trọng hơn, là phải phá vỡ bức rào cản do các công ty xuyên quốc gia
đặt ra về tình trạng độc quyền các công nghệ hiện đại. Trong nhiều trường hợp, dựa
vào ưu thế công nghệ hiện đại, họ tự cho mình quyền chi phối các tổ chức kinh tế, tài
chính quốc tế, quyền đa lợi ích kinh tế đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt tư
tưởng. Thậm chí, một số nước phát triển còn đặt ra quyền trừng phạt các nước dưới
nhiều hình thức. Vì vậy, để khắc phục đến mức thấp nhất tình trạng bị rơi vào thế lệ
thuộc, tất cả các nền kinh tế bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội lực của mình,
nâng sức mạnh kinh tế trong nước, chống sự can thiệp quá sâu từ bên ngoài.
Theo chủ nghĩa Mác Lê-nin nguồn gốc của chiến tranh là do sự xuất hiện và
tồn tại của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Tất cả đều bắt nguồn từ lợi
ích kinh tế. Để bảo vệ một quốc gia không bị xâm lược điều đầu tiên cần phải trang
bị lực lượng vũ trang. Muốn trang bị lực lượng vũ trang được đầy đủ hiện đại thì yếu
tố kinh tế là điều quan trọng nhất. Tự chủ độc lập về kinh tế giúp quốc gia có lực
lượng vũ trang vững mạnh không phải phụ thuộc vào các nước bên ngoài và bảo đảm
được an ninh quốc phòng thường xuyên.
Độc lập tự chủ về kinh tế luôn đi đôi với an ninh, quốc phòng của mỗi quốc
gia. Khi một quốc gia đã độc lập, tự chủ về nền kinh tế sẽ hạn chế được việc vay vốn 18
nước ngoài, phải chịu ít hơn các áp đặt, điều kiện vay, lệ thuộc chính trị. Nền kinh tế
được độc lập tự chủ sẽ chủ động được trong việc trang bị thiết bị quân sự, nâng cao
chất lượng đời sống vật chất của quân nhân. Tạo tâm thế luôn chủ động sẵn sàng ứng
phó với mọi ý định xâm phạm lãnh thổ của các nước khác trên thế giới.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn như đã phân tích, đối với
đất nước ta, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cần thiết hơn bởi nó
là điều kiện quyết định giữ vững được định hướng phát triển mà chúng ta đã lựa
chọn. Nói một cách khác, có xây dựng được một nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới
tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất kĩ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ.
Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ
về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của một quốc gia.
Tóm lại, chỉ có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ, chúng ta mới có cơ sở và
điều kiện để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh” và gắn liền với đảm bảo an ninh quốc phòng. 3.2.Khuyến nghị
3.2.1.Đối với nhà nước
3.2.1.1.Về chính sách đối ngoại
Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa
phương hoá các quan hệ quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ với các nước lớn theo
quan điểm thận trọng, cân bằng, tạo thế đan xen lợi ích, không phụ thuộc vào bất cứ
nước nào, không đi với nước này để chống nước kia.
Phải luôn đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu trong tất cả các mối quan hệ, phấn
đấu cho lợi ích cao nhất của dân tộc. Kết hợp hài hoà sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, dân tộc với quốc tế, trong đó yếu tố trong nước giữ vai trò quyết định.
3.2.1.2.An ninh quốc phòng
Nền an ninh quốc phòng ổn định hòa bình sẽ tạo nền tảng cho việc phát triển
kinh tế. Nền kinh tế phát triển sẽ góp phần tạo sức mạnh quân sự để bảo vệ nền an
ninh quốc phòng. An ninh quốc phòng với kinh tế có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Chính vì vậy cần nâng cao chất lượng sức mạnh quân sự, luôn nhạy bén, cảnh giác
với các hoạt động gây ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng để đảm bảo nền kinh tế
luôn phát triển, không bị ảnh hưởng bởi sự phân chia thế giới của chủ nghĩa tư bản độc quyền.
3.2.1.3.Hợp tác quốc tế
Hợp tác với các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên trường quốc tế
nhằm mở rộng nguồn hàng hóa. Tìm ra những nhà cung cấp với chất lượng tốt giá
thành hợp lý để giảm bớt độc quyền trong nước. Tuy nhiên, không nên quá phụ thuộc
vào các tổ chức kinh tế mà phải gây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ của mỗi quốc gia. 19
3.2.2.Đối với doanh nghiệp
3.2.2.1.Về nâng cao sức cạnh tranh
Lựa chọn hướng và mặt hàng để xây dựng chiến lược. Hướng chiến lược
doanh nghiệp nhằm tạo ra ưu thế về chi phí và giá trị cho khách hàng. Doanh nghiệp
phải đặt ra mục tiêu cạnh tranh bằng việc chuyển lợi thế về giá lao động rẻ hay tài
nguyên dồi dào sang cung cấp những sản phẩm có ưu thế cơ bản về chi phí và giá trị
cho khách hàng, tạo ra ưu thế về tiếp thị tổ chức tiêu thụ và từng bước xác lập thương hiệu riêng.
Trong khi quyết định lựa chọn hướng chiến lược phát triển, các doanh nghiệp
cần chú trọng đến các vấn dề như phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong
tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành, các đối tác cạnh tranh, trên cơ sở xác
định các đặc diểm kinh tế chủ chốt như thị trường, thị phần, các điều kiện của thị
trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của sản
lượng, xác định các nhân tố tác động đến dự phát triển của từng ngành, điều kiện
cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu, phương hướng kinh doanh,
xu hướng tiêu dùng của thị trường. Tổ chức nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh
tranh trên thị trường trong nước, khu vực và thế giới.
Tăng cường năng lực của chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý trong
các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh, quản trị chiến lược. Trong mọi điều kiện,
doanh nhân cần thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần thiết (kỹ
năng quản trị trong cạnh tranh, kỹ năng lãnh đạo doanh nghiệp, kỹ năng quản lý sự
biến đổi, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng đàm phán và giao tiếp v.v…) để có đủ sức
cạnh tranh trên thị trường và tiếp cận nền kinh tế tri thức.
3.2.2.2.Đa dạng hóa khối đối tác kinh tế
Nghiên cứu, lập và thực thi chiến lược đa dạng hóa đối tác là một khuyến nghị
tốt đối với doanh nghiệp để ứng phó với áp lực của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đây
cần được coi là nhiệm vụ cấp bách, nhằm hạn chế tối đa việc phụ thuộc quá nhiều
vào một đối tác, cũng là chiến lược phân tán rủi ro theo thông lệ.
3.2.2.3.Năng lực đấu tranh pháp lý quốc tế
Nâng cao trình độ học vấn, hiểu biết về kinh tế – xã hội, văn hóa, luật pháp…
nhất là hiểu biết về pháp luật, pháp lý quốc tế, năng lực đấu tranh cho người quản lý
doanh nghiệp. Hiểu rõ pháp lý và có năng lực đấu tranh giúp cho doanh nghiệp ứng
phó với chủ nghĩa độc quyền trên thế giới. Hơn nữa nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
3.2.3.Đối với người lao động
3.2.3.1.Kỷ luật lao động
Người lao động cần có ý thức kỷ luật, tính tự giác và nâng cao trình độ của
mình để nâng cao chất lượng lao động. Tạo ra sản phẩm lao động đẹp về mẫu mã tốt 20
về chất lượng để sản phẩm của doanh nghiệp đủ khả năng để cạnh tranh công bằng
với doanh nghiệp khác nâng cao thu nhập của người lao động. Tạo điều kiện ứng phó
chủ nghĩa tư bản độc quyền.
3.2.3.2.Nhận thức pháp luật
Tăng cường giáo dục pháp luật cho người lao động để người lao động biết
hành vi nào không phạm pháp trong quá trình sản xuất. Tránh nhìn cái lợi ích trước
mắt mà vi phạm pháp luật gây cạnh tranh không công bằng giữa cách doanh nghiệp.
3.2.3.3.Tinh thần dân tộc
Nêu cao tinh thần dân tộc, vì sức khỏe của dân tộc không được sử dụng các thủ
đoạn, chất cấm trong lao động sản suất nhằm mục đích kinh tế. 21 Phần kết luận
Như vậy, cạnh tranh là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh tế với nhau nhằm
có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và thông qua đó mà thu được lợi
ích tối đa. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh trên thị trường càng trở
nên thường xuyên, quyết liệt hơn. Cạnh tranh dẫn đến tích tụ và tập trung sản xuất,
tích tụ và tập trung sản xuất ngày một nhiều, đến một lúc nào đó sẽ sinh ra độc
quyền. Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả năng thâu tóm
việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền,
nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao. Độc quyền không triệt tiêu cạnh tranh, mà còn
thúc đẩy cạnh tranh phát triển lên mức độ cao hơn, giữa các tổ chức độc quyền với
nhau, và với doanh nghiệp ngoài độc quyền. Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa cạnh
tranh và độc quyền. Ngày nay, các tổ chức độc quyền quốc tế kiểm soát nền tài chính
thế giới, không chỉ gồm hoạt động sản xuất mà còn cả trao đổi thương mại, hệ thống
tín dụng, với các trung tâm tài chính toàn cầu. Các tổ chức độc quyền ngày càng nắm
giữ ảnh hưởng mạnh mẽ, tác động không nhỏ tới nền kinh tế thế giới hội nhập và
năng động, trong đó bao gồm cả nền kinh tế Việt Nam là một thành phần của nó.
Những tác động này có thể có hại, gây ảnh hưởng tiêu cực, làm khó dễ cho kinh tế
Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trong tiến trình hội nhập quốc tế.
Nhưng đồng thời, nó cũng mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam tận dụng nhằm phát
triển kinh tế bền vững, mục tiêu trở thành một quốc gia công nghiệp phát triển trong
thời gian tới. Nhận định được xu hướng vận động, phát triển, tác động của cạnh tranh
và độc quyền là cần thiết để nước ta có giải pháp thích ứng, điều tiết nền kinh tế phù
hợp, thu hút hiệu quả và ngày càng lớn nguồn vốn từ nước ngoài, đẩy mạnh hơn nữa
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước cũng
như các doanh nghiệp hết sức quan tâm, chú ý trong thời gian tới. 22 Tài liệu tham khảo -
Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lê Nin, các tác giả, 2019 -
Kinh tế Việt Nam – nguồn mở Wikipedia -
Chủ nghĩa thực dân mới – Wikipedia -
Báo Đầu từ Online - 28,53 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
trong năm 2020 - Nguyên Đức - 27/12/2020
- Báo VOV – Thị trường smartphone Việt Nam 2020: các ông lớn không còn
“ăn ngon ngủ yên” – Anh Linh - 31/12/2020 -
Báo điện tử Zingnews - Trung Quốc đẩy các đảo quốc Thái Bình Dương
vào bẫy nợ - Phương Thảo – 21/10/2019 -
Báo tuổi trẻ online - Vingroup dừng sản xuất điện thoại di động sau ba năm
– Trần Vũ Nghi - 09/05/2021 -
Tạp chí tài chính Online - Doanh nghiệp Việt Nam đối phó với rào cản phi
thuế quan – PGS, TS Nguyễn Thị Thương Huyền – 30/6/2014 23