Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa | Đông Nam Á học | Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố HCM

"Một Số Vấn Đề Về Ngôn Ngữ và Văn Hóa" trong chương trình Đông Nam Á học tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là một học phần quan trọng, nhằm nghiên cứu sâu về sự đa dạng và phức tạp của ngôn ngữ và văn hóa trong khu vực Đông Nam Á. Khóa học này tập trung vào các chủ đề như ảnh hưởng của ngôn ngữ đến văn hóa, sự giao thoa văn hóa giữa các quốc gia, và các vấn đề liên quan đến bảo tồn và phát triển ngôn ngữ trong bối cảnh hiện đại. Mục tiêu là giúp sinh viên hiểu rõ hơn về vai trò của ngôn ngữ và văn hóa trong việc hình thành bản sắc và sự phát triển của các quốc gia Đông Nam Á, từ đó phát triển kỹ năng nghiên cứu và phân tích trong lĩnh vực này.

lOMoARcPSD| 40749825
{[[W+bz0FkV4
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC – TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC
BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH
NGUYỄN MAI ANH
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU
Trình bày bìa:
ĐẶNG CHU CHỈNH
Chế bản vi tính:
LÊ MINH ĐỨC
Sửa bản in:
VŨ THỊ THU
NGUYỄN THỊ YẾN
Đọc sách mẫu:
NGUYỄN MAI ANH
VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/32-365/CTQG.
Số quyết định xuất bản: 35-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021.
Nộp lưu chiểu: tháng 4 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6520-3.
lOMoARcPSD| 40749825
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt
Nam Hồ Xuân Mai
Đông Nam Á học - Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hoá / Hồ
Xuân Mai. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 288tr. ; 21cm
ISBN 9786045760574
1. Ngôn ngữ 2. Văn hoá 3. Đông Nam Á
306.440959 - dc23
CTF0502p-CIP
2
lOMoARcPSD| 40749825
LI NH XUT BN
Đông Nam Á là tên gi mt khu vc nm phía đông nam
lục địa Á - Âu, tiếp giáp Thái Bình Dương n Độ Dương,
cu ni gia lục địa Á - Âu với Ôxtrâylia và châu Đại Dương.
Trong lch sử, đây khu vực v thế địa - chính tr quan
trọng, nơi giao thoa của nhiu nền văn minh ln, tài nguyên
khoáng sn phong phú, ngun lao đng di dào th trường
tiêu th rng lớn, nên đồng thời cũng nơi các cường quc
thưng xuyên cnh tranh ảnh hưởng. Tuy nhiên, t sau khi
Chiến tranh thế gii th hai kết thúc, Đông Nam Á đã sự
vươn mình, các quc gia lần lượt tuyên b độc lp, ra sc
xây dng, phát triển đất nước theo nhng hình khác nhau
đạt được nhiu thành tựu đáng kể, tr thành mt trong
nhng khu vc phát triển năng đng nht trên thế gii
v thế ngày càng cao trên trưng quc tế.
Đông Nam Á hiện nay gm 11 quc gia vi lch s phát
trin nền văn hóa đc sắc, đa dng. K t khi chính thc
gia nhp Hip hi các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm
1995, Việt Nam đã thể hin mt thành viên hoạt động tích
cc và có vai trò quan trng trong khu vc. My chc năm trở
lại đây, nhiều trường đại hc và vin nghiên cu trong
5
lOMoARcPSD| 40749825
c và quc tế đã thành lập các b môn, khoa Đông Nam
Á hc, nghiên cu ging dy nhng kiến thc v khoa
hc hội nhân văn nói chung như đa lý, lch s; kinh tế,
chính tr, ngoi giao; ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, li sng
bn sc dân tc ca các quốc gia Đông Nam Á...; trong
đó ngôn ngữ là cu ni không th b qua. Ngày càng nhiu
công trình kho cu v Đông Nam Á học được công b,
nhiu tài liu nghiên cu trên nhiều phương diện của lĩnh
vực này đưc ra mt bạn đọc.
Mong mun cung cấp cho đông đo bạn đọc quan tâm
mt ngun tài liu tham kho thú v hu ích, Nxut bn
Chính tr quc gia S tht xut bn cun sách Đông Nam
Á hc - Mt s vấn đề v ngôn ng văn hóa ca TS. H Xuân
Mai, Vin Khoa hc hi vùng Nam B, Vin Hàn lâm Khoa hc
hi Vit Nam. Tp trung nghiên cu sâu mi quan h gia
ngôn ng với văn hóa, cun sách ch yếu trình bày các kết qu
kho sát ca tác gi v lch s phân b, phát trin ca các ngôn
ng khu vực Đông Nam Á, nhng nghiên cứu bước đu v mi
quan h gia ngôn ng và văn hóa cũng như một vài trăn trở,
suy nghĩ của tác gi trước thc trng s dng tiếng m đẻ, nht
mt b phn lp tr hin nay.
Xin trân trng gii thiu cun sách cùng bn đọc.
Tháng 9 năm 2020
NHÀ XUT BN CHÍNH TR QUC GIA S THT
6
lOMoARcPSD| 40749825
LỜI NÓI ĐẦU
1. Năm 2002 tôi dịp gặp Giáo sư, Tiến Phạm Đức
Dương, nguyên Viện trưởng Vin Nghiên cu Đông Nam Á. Ông
say nói v quan h gia ngôn ng văn hóa, tôi cảm thy
mình b thu hút. Thú tht, lúc ấy tôi đã ý định nghiên cứu nh
vực này nhưng chưa biết bắt đầu t đâu. Những ông nói đã
giúp tôi xác định hướng đi. Năm 2009, tình cờ gp lại ông và điều
thú v hơn là tôi và ông cùng dy mt lp, ông dy bui sáng còn
tôi dy bui chiu. Tôi tranh th trao đổi với ông; đưa ra vấn đề
mình đang p cùng ông tranh lun. để hc thêm thôi. V
ti Hà Ni, ông gi tng tôi quyn
Bc tranh ngôn ng - văn hóa tộc người Việt Nam và Đông
Nam Á của ông. Tôi say mê đc, phát hin nhiu vấn đề thú v
nhưng cũng có nhng ch khiến tôi không khi phân vân.
2. Tôi đề ngh với lãnh đạo xin được đi đin mt vài
c trong khu vực Đông Nam Á, nhưng điều kin kinh phí
không cho phép. Tôi đành phải la chn gii pháp nghiên cu
th cấp. Cho nên, Chương hai ca sách này không có gì mi, ch
nhng kết qu đã có, ca những đàn anh, bc thầy đi trước;
tôi lược li nêu nhn xét. Tôi c gng trung thành nht vi
nhng gì có lý và t chi nhng gì tạm chưa phù hợp.
7
lOMoARcPSD| 40749825
3. Bạn đọc tinh ý s nhn ra ch chưa vừa ý: tên cun sách
Đông Nam Á học: Mt s vấn đề v ngôn ng văn hóa,
nhưng phần ln ni dung ca cun sách là nói v ngôn ng. Thú
thực, lĩnh vực văn hóa chỗ gii hn v chuyên môn ca tôi.
Cho nên, tôi không đi sâu vào lĩnh vực này, ch làm vic trên
tinh thn biết mới nói”. Cuối mc 3 ca phn Dn nhp s trình
bày sau đây, tôi cũng thng thn bày t quan điểm khi trình bày
sách: ch đề cp mi quan h gia ngôn ng văn hóa nhằm
giúp bạn đọc bước đầu hình thành cho mình phương pháp
nghiên cu ngôn ng qua văn hóa và ngược lại. Chương năm s
giúp bạn đọc đạt được mục đích này.
4. Cui mi trang tôi chú thích nhng tài liệu đã trích
dn hoặc đề cp trên để bạn đc d đối chiếu, kim
chng, nhm tránh tình trạng đưa ra hàng lot tài liu, c
trong nước ln nước ngoài.
Hy vng cun sách này s giúp ích cho nhiều người,
đặc bit là các bạn sinh viên các ngành Đông phương hc,
Đông Nam Á học, Ngôn ng văn hóa phương Đông.
Mặc tôi đã cố gng trong quá trình biên son,
nhưng cuốn sách này khó tránh khi nhng hn chế. Rt
mong bạn đọc lượng th.
Tôi xin cảm ơn Nhà xut bn Chính tr quc gia S tht
đã tạo điều kiện để cuốn sách đến vi bạn đọc. Xin cảm ơn
bạn bè, đng nghiệp đã dành thời gian đc, góp ý cho bn
tho cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Hà Ni, mùa Thu 2020
Tác gi
TS. H Xuân Mai
8
lOMoARcPSD| 40749825
DN NHP
1. V mặt địa lý, Đông Nam Á (tiếng Anh:
Southeast, South East, South - East) mt khu vc
nm phía đông nam lục đa Á - Âu. Phía bc ca
Đông Nam Á giáp Trung Quốc, phía tây giáp n Độ,
phía nam giáp Ôxtrâylia phía đông giáp bin1. Tuy
đã hiện din t rất lâu nhưng phải ti đu Chiến tranh
thế gii th hai, Đông Nam Á mới chính thức đưc
biết đến như một khu vực địa lý quan trng2.
Trước đây Đông Nam Á gồm 10 quc gia (theo th
t abc Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaixia,
Mianma, Philíppin, Thái Lan, Vit Nam, Xingapo), tri dài
trên mt din tích 4.494.047km2 (bng khong 1/10 din
tích châu Á 1/4 diện tích c Nga). Ngày 03/5/2002,
Đông Timo tách khỏi Inđônêxia, trở thành mt
1. Theo Địa lý lp 11, Nxb. Giáo dc Vit Nam, Hà Ni, 2018.
2. Xem Phan Ngc Liên (Ch biên), Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc
Bo, Trn Th Vinh: c s Đông Nam Á, Nxb. Giáo dc, Ni,
2003, tr. 5-13.
9
lOMoARcPSD| 40749825
quốc gia độc lp thành viên quan sát ca khu
vc. Trong s 11 quc gia này thì ch 5 c Lào,
Campuchia, Thái Lan, Mianma Vit Nam thuc
Đông Nam Á lục địa, các c còn li phn ln
đảo1, gi chung quần đảo Lai. Trong khối Đông
Nam Á, Lào là quc gia duy nht không có bin.
Dân s của Đông Nam Á tính đến năm 2018
651.583.049 người, quốc gia đông dân nhất Inđônêxia2.
Đông Nam Á khu vực rt nhiu ngôn ng3, thuc các
ng h Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesia),
Thái - Kađai (Tai - Kađai) và Hán - Tng (Sino - Tibertan).
Tt c các đặc trưng của Đông phương, từ chng tc,
lch sử, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, đặc điểm sinh sng,
trình độ phát triển và đặc trưng kinh tế, v.v. đều Đông
Nam Á. Cho nên, nghiên cứu Đông Nam Á - Đông Nam Á
hc chính góp mt phn vào nghiên cứu Đông phương.
Những đặc điểm của Đông Nam Á gần như hoàn toàn khác
bit so vi những nơi khác, đặc biệt phương Tây. Như
ngôn ng chng hn. Hu hết các ngôn ng phương
Tây, c th là châu Âu, đều thuc loi biến hình
1. Thc ra, phía Tây Malaixia là phn lục địa. Tuy nhiên, do din
tích phn này nh nên có th xem Malaixia là mt quc gia hải đảo.
2. Theo thông tin t Liên hp quc ngày 18/10/2018 (Ngun:
https:// danso.org/dong-nam-a/).
3. Theo Mai Ngc Ch thì có khong 600 ngôn ng. Xem: Mai Ngc
Ch: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, Nxb. Phương Đông,
Thành ph H Chí Minh, 2009, tr. 276-281.
10
lOMoARcPSD| 40749825
hoc/và chp dính thì Đông Nam Á, phần ln các ngôn
ng đều thuc loại đơn lập. Văn hóa cũng có sự khác bit1.
Do vậy, Đông Nam Á hc (Southeast Studies)
mt ngành khoa hc nghiên cu nhng thuc tính,
đặc điểm này của Đông Nam Á.
2. Như vậy, đối tượng nghiên cu của Đông Nam
Á hc rt rng, gm tt c những đặc trưng nói
trên của Đông phương. Hoàn toàn có th xem mỗi đối
ng là mt chuyên ngành của Đông Nam Á học. Và,
ngôn ng là đối tượng chính ca cun sách này.
nhiu cách tiếp cận đối tượng: tiếp cn t ci
nguồn đến hin ti hoc ngược li; tiếp cận theo hướng
chú ý đến s tác động ca các yếu t hi ti thời điểm
đang xét (trục ngang, đồng đại - synchronic) để tr li câu
hi s phát trin, biến đổi như thế nào sao b
biến đổi, h qu ca biến đổi đó gì, kết qu ca phát
trin là gì. Chng hn, nghiên cu quá trình phát trin ngôn
ng ca mt dân tc không th không tính đến nhng tác
động của văn hóa - hi ngôn ng đó một yếu t
hợp thành. Cũng thể tiếp cận theo hướng xem xét quá
trình phát trin của đối tượng (trc dc, lch
1. Xem Trn Ngc Thêm: sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dc, Ni, 2000, tr. 20; Mai Ngc Ch: Văn hóa ngôn ngữ
phương Đông, Sđd, tr. 30; Phạm Đức Dương: Bc tranh ngôn ng -
văn hóa tộc người Việt Nam Đông Nam Á, Nxb. Đại hc Quc
gia Hà Ni, 2007, tr. 30-33 và mt s tác gi khác.
11
lOMoARcPSD| 40749825
đại - diachronic) để thấy được các giai đoạn phát trin
ni ti của đối tượng những tác động t bên ngoài
trong quá trình vận động, phát triển đó. Kết hp c hai
phương pháp này trong nghiên cứu khoa hc hi nói
chung, Đông Nam Á học nói riêng, s giúp cho chúng ta
thấy được mi quan h hai chiu gia chúng, vai trò ca
đối tượng này trong quá trình phát trin của đối tượng
kia, ngược li. Nghiên cứu đặc điểm ngôn ng ca
khu vực Đông Nam Á cũng vậy. Chúng tôi ly s phát
trin ca các ngôn ng làm đối ợng nhưng đt
trong s tác động ca các yếu t bên ngoài, nhm xem
xét vai trò ca chúng trong sut quá trình phát trin ca
mi ngôn ngữ. Đây chính phương pháp nghiên cứu
ca chúng tôi trong cun sách này.
3. Đến lượt mình, ngôn ng hc mt chuyên ngành
nhiều phân ngành, như ngôn ngữ học địa
(geographical linguistics/geolinguistics), ngôn ng hc -
địa bàn sinh sng (linguistic - area), ngôn ng hc - n
tc hc (ethnic linguistics), ngôn ng hc lch s
(historical linguistics), ngôn ng hc s phát trin
hi, chính sách ngôn ng (policy of language), giao thoa
(interference), tiếp xúc ngôn ng (language contact), loi
hình hc (typology), ng h ngôn ng (language family/
family of languages), ngôn ng hc so sánh (comparative
linguistics), ngôn ng học đối chiếu (contrastive
12
lOMoARcPSD| 40749825
linguistics), ngôn ng hc - văn hóa tộc người (ethnic
- culture linguistics); ngôn ng - hi hc (linguistic
- sociology); ngôn ng - tâm dân tc (linguistic -
ethnic psychology); ngôn ng - tôn giáo, tín ngưỡng
(linguistic - religion); ngôn ng tâm giáo dc
(linguistic - educational psychology),...
Mi phân ngành li riêng nhng mc tiêu, mc
đích và phương pháp tiếp cận cũng như kết qu ca nó.
Chc hn không ai th bao quát được hết chúng. Do
vy, cun sách này ch th đề cp nhng vấn đề
bn là quan h ci ngun gia mt s ngôn ng Đông
Nam Á; s phân b các ngôn ng trong khu vc; tiếp
xúc ngôn ng Đông Nam Á; tiếng Vit trong mi quan
h vi các ngôn ng Đông Nam Á; những ngôn ng h
Nam Á Vit Nam; quan h gia ngôn ng văn hóa;
và chính sách ngôn ng.
4. T lâu, các nhà ngôn ng hc, các nhà khoa hc
trên thế giới đã quan tâm đến vấn đề ngôn ng ca khu
vực Đông Nam Á. Kết qu là có rt nhiu công trình nghiên
cu v ngôn ng khu vc này. Hu hết các công trình ch
yếu xoay quanh nhng vấn đề như quan hệ gia các ngôn
ng; loi hình ca các ngôn ngữ; đặc điểm ng pháp
ng âm ca mt s ngôn ng c thể; đặc điểm cu to t;
s phân b các ng h; chính sách ngôn
13
lOMoARcPSD| 40749825
ng; và vn đ bo v, phát trin các ngôn ng
nguy cơ cao.
a) Trước hết nhng công trình liên quan ti
tiếng Vit và các ngôn ng Vit Nam. Nhng nghiên
cứu đu tiên v đối tượng này thuc v các nhà
nghiên cu, các nhà ngôn ng học phương Tây.
A. de Rhodes mt trong nhng người phương
Tây đầu tiên đ cp ngôn ng Đông Nam Á, cụ th
tiếng Vit, trong T đin Annam - Lusitan - Latinh
xut bn lần đầu năm 16511 (đưc gi tt T đin
Vit - B - La). Đây được xem là công trình đầu tiên v
tiếng Việt, đặt nn tng cho quá trình phát trin tiếng
Vit sau này. Tuy còn hn chế nhiu mặt, nhưng T
đin Annam - Lusitan - Latinh tính khoa hc, giúp
ích rt nhiu cho các nhà ngôn ng hc, nhng ai
mun tìm hiu lch s tiếng Vit.
Còn vi Phép ging tám ngày (tên đầy đủ Phép
ging tám ngày cho k mun chu phép ra ti, theo
đạo thánh Đức Chúa Tri)2 cũng ra đời năm 1651 ca A.
de Rhodes, chúng ta thy lần đầu tiên ch quc ng
đưc in thành sách, ph biến rộng rãi. Đây là mt quyn
sách quý hiếm, xưa nhất v ch quc ng.
1. Alexandre de Rhodes: T đin Annam - Lusitan - Latinh
(1651), Nxb. Khoa hc xã hi, Hà Ni, 1991.
2. Alexandre de Rhodes: Phép ging tám ngày (1651), T sách
Đoàn Kết, Nxb. Thành ph H Chí Minh, 1993.
14
lOMoARcPSD| 40749825
T đin song ng Vit - Latinh đầu tiên ca
Pigneaux de Béhaine vi tiêu đề T v Annam - Latinh1,
sau T đin Annam - Lusitan - Latinh ca A. de Rhodes 122
năm (1773), ghi lại tương đối đầy đủ t vng của người
Vit lúc by gi. Ngày nay, các nhà ngôn ng học, đặc bit
những người nghiên cu ng âm lch sử, thường phi
da vào hai quyn t điển nói trên để nghiên cu ng âm
tiếng Vit thi k c và trung đại.
l tiếng Vit nhiu yếu t th đại din cho
loi hình ngôn ng đơn âm tiết nên rt nhiều người
quan tâm. J.L. Taberd mt trong những người như
vy, vi t đin Dictionarium Annammitico - Latinum2,
xut bản năm 1838. Cũng giống như những quyn t
điển trước đó, Dictionarium Annammitico - Latinum
t đin song ngữ, tuy chưa thật đầy đủ nhưng ý
nghĩa rất lớn, đặc biệt đối vi quá trình phát trin ca
tiếng Việt cũng như cung cấp nguồn tư liệu quý báu cho
những người làm công tác nghiên cu.
Henri Maspero quan tâm đặc biệt đến vấn đề ng âm
lch s ca tiếng Vit. Trong “Etude sur la phonetique
1. Pigneaux de Béhaine: T v Annam - Latinh (1773), Hng
Nhu Nguyn Khc Xuyn dch gii thiu, Nxb. Thành ph H
Chí Minh, 1999.
2. Jean - Louis Taberd: Dictionarium Annammitico - Latinum, J.
Marshnam, Serampore, 1838.
15
lOMoARcPSD| 40749825
historique de la langue Annamite: Les initiales”1, t
vic phân tích quá trình phát trin ng âm cũng như
đặc đim ng âm ca ngôn ng này, tác gi đã khẳng
định tiếng Vit thuc ng h Thái2. Như chúng ta đã
biết, đây kết luận không chính xác nhưng vào thi
điểm đó, được đông đảo các nhà ngôn ng hc
trên thế gii ng h, thm chí những người ni
tiếng như W. Schmidt, H.J. Pinnow, R. Shafer3.
G. Aubaret người nghiên cu ng pháp tiếng Vit
sm nht trong Grammaire de la langue Annamite4. Tuy
nhiên, do nhiu nguyên nhân, tác gi ch mi dng li
miêu t t và cách s dng t để đặt câu.
1. Henry Maspero: “Etude sur la phonetique historique de la
langue Annamite: Les initiales”, BEFEO, XII, N0 1, 1912.
2. Trước đây tiếng Thái được xếp vào ng h Hán - Tng (Sino -
Tibertan), sau này mới được xếp vào ng h Nam Á, thuc nhóm Tày -
Thái nhưng cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Chng hn, Jame A.
Matisoff cho rng nên xem tiếng Thái thuc ng h Nam - Thái (Austro -
Tai), tc là không quan h vi tiếng Vit. V vấn đề này, xem thêm: a)
Mai Ngc Ch: Văn hóa ngôn ngữ phương Đông, Sđd, tr. 290-293; b)
Jame A. Matisoff: “Tonogenesis in Southeast Asia”, Southern California
Occasional Papers in Linguistics, UCLA, Los Angeles, No.1, 1973.
3. Dn theo Mai Ngc Ch: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông,
Sđd, tr. 291. Tuy nhiên, chúng tôi hoài nghi ti sao Mai Ngc Ch
dn tên c gi không cho biết tên tài liệu, năm và nơi xuất bn
cũng như số trang.
4. G. Aubaret: Grammaire de la langue Annamite, Paris, Impr.
Imperial, VIII, 1864.
16
lOMoARcPSD| 40749825
T năm 1885, E.F. Aymonier trong ghi chép về vùng
đất Trung K “Notes sur l’Annam”1, đã nghiên cứu t
vng các ngôn ng Chăm, Churu Cơho khu vc
Bình Thun. Tuy những ghi chép ban đầu này còn nhiu
thiếu sót nhưng đã giúp ích rt nhiu cho những người
mun nghiên cu các ngôn ng trên.
S.E. Aurousseau đã điểm li quyn Les Origines de la
langue Annamite2 của Souvignet. Qua đó chúng ta thấy
đưc ngun gc ca tiếng Việt qua cái nhìn, cách đánh giá
ca các nhà nghiên cứu phương Tây nói chung. nhiên
nhng vấn đề cn phi nghiên cu thêm, có nhng vn
đề đã được các nhà khoa hc, nhà ngôn ng hc chng
minh mức đ chính xác ca nó, nhưng tất c đu giúp cho
chúng ta hiu thêm v tiếng Vit thi k này.
Maurice Abadie trong “Les races du Haut-Tonkin de
Phong Th à Lạng Sơn”3, đã chứng minh s gần gũi về
mt ci ngun gia các dân tc (tác gi gi chng
tc) khu vc Tây Bc Vit Nam nh vào các chng c
v mt t ng gia các ngôn ng ca các dân tc này.
1. E.F. Aymonier: “Notes sur l'Annam” (I. Le Binh-thuan; II. Le
Khanh-hoa), Excursions et Reconnaissances IX-24 (1886), p. 199-340;
XI-26 (1886), p. 179-208; XII-27 (1886), p. 5-20.
2. S.E. Aurousseau: “Les Origines de la langue Annamite”,
BEFEO, 1922, pp. 168-172.
3. Maurice Abadie: “Les races du Haut-Tonkin de Phong Th à
Lạng Sơn”, Société d’Editions Géographiniques, maritimes et
coloniales, Paris, 1924.
17
lOMoARcPSD| 40749825
B.F. Banker đã so sánh tiếng Bana tiếng Vit
trong “A comparison of Bahnar and Vietnamese”1. Theo
đó, giữa hai ngôn ng này nhng âm rt ging nhau
nhưng hai ngôn ngữ không cùng mt ng h.
J.E. Banker đã dành rất nhiu công sc cho tiếng
Bana, như chú ý tới âm v hc ca ngôn ng Bana
trong “Bahnar phonology”; nghiên cứu ng pháp
tiếng Bana qua s ci biên các tiu ca ngôn ng
này “Transformation paradigms of Bahnar clause”;
nghiên cu t loi tiếng Bana trong “Bahnar word
classes”; nghiên cứu các ph âm tin thanh hu
trong các ngôn ng Đông Nam Á “Preglottalized
consonants in languages of Southeast Asia”2.
E. Barker Milton đã công bố các kết qu nghiên cu v
ngôn ng các dân tc thiu s Việt Nam như phụ âm môi
trong tiếng tin Vit - ờng “Proto Viet - Muong initial
labial consonants”; cấu trúc ng âm tiếng Mường trong
The phonological of Muong; s ơng ng Vit -
1. B.F. Banker đã so sánh tiếng Bana tiếng Việt trong “A
comparison of Bahnar and Vietnamese”, Institute of Linguistics,
mimeo-graphed, Saigon, 1960.
2. J.E. Banker: 1) “Bahnar phonology”, Vietnam Linguistics papers,
Summer Institue of Linguistics (SIL), Saigon, 1961; 2) “Transformation
paradigms of Bahnar clause”, Mon-Khmer studies, Vol 1, p.7-39,
Linguistics Circle of Saigon and Summer Institute of Linguistics,
Saigon,1964; 3) Bahnar word classes”, Luận văn Thạc sĩ, Hartfort
Seminar Foundation, V, 56p, 1965; 4) “Preglottalized consonants in
languages of Southeast Asia”, SIL. U.N. Dakota, ms, 6p, 1978.
18
| 1/20

Preview text:

lOMoAR cPSD| 40749825 {[[W+bz0FkV4
Chịu trách nhiệm xuất bản:
GIÁM ĐỐC – TỔNG BIÊN TẬP
PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN
Chịu trách nhiệm nội dung:
PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
ThS. PHẠM THỊ THINH
Biên tập nội dung: ThS. PHẠM THỊ NGỌC
BÍCH ThS. NGUYỄN THỊ HẢI BÌNH NGUYỄN MAI ANH
TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: ĐẶNG CHU CHỈNH Chế bản vi tính: LÊ MINH ĐỨC Sửa bản in: VŨ THỊ THU NGUYỄN THỊ YẾN Đọc sách mẫu: NGUYỄN MAI ANH VIỆT HÀ
Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 427-2021/CXBIPH/32-365/CTQG.
Số quyết định xuất bản: 35-QĐ/NXBCTQG, ngày 18/02/2021.
Nộp lưu chiểu: tháng 4 năm 2021.
Mã ISBN: 978-604-57-6520-3. lOMoARcPSD|407 498 25 lOMoAR cPSD| 40749825
Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia Việt Nam Hồ Xuân Mai
Đông Nam Á học - Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hoá / Hồ
Xuân Mai. - H. : Chính trị Quốc gia, 2020. - 288tr. ; 21cm ISBN 9786045760574
1. Ngôn ngữ 2. Văn hoá 3. Đông Nam Á 306.440959 - dc23 CTF0502p-CIP 2 lOMoAR cPSD| 40749825
{[[W+bz0FkV43GmRt7u4DpvuYxd]]} lOMoARcPSD|407 498 25 lOMoAR cPSD| 40749825
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đông Nam Á là tên gọi một khu vực nằm ở phía đông nam
lục địa Á - Âu, tiếp giáp Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, là
cầu nối giữa lục địa Á - Âu với Ôxtrâylia và châu Đại Dương.
Trong lịch sử, đây là khu vực có vị thế địa - chính trị quan
trọng, nơi giao thoa của nhiều nền văn minh lớn, tài nguyên
khoáng sản phong phú, nguồn lao động dồi dào và thị trường
tiêu thụ rộng lớn, nên đồng thời cũng là nơi các cường quốc
thường xuyên cạnh tranh ảnh hưởng. Tuy nhiên, từ sau khi
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Đông Nam Á đã có sự
vươn mình, các quốc gia lần lượt tuyên bố độc lập, ra sức
xây dựng, phát triển đất nước theo những mô hình khác nhau
và đạt được nhiều thành tựu đáng kể, trở thành một trong
những khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới và có
vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế.
Đông Nam Á hiện nay gồm 11 quốc gia với lịch sử phát
triển và nền văn hóa đặc sắc, đa dạng. Kể từ khi chính thức
gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) năm
1995, Việt Nam đã thể hiện là một thành viên hoạt động tích
cực và có vai trò quan trọng trong khu vực. Mấy chục năm trở
lại đây, nhiều trường đại học và viện nghiên cứu trong 5 lOMoAR cPSD| 40749825
nước và quốc tế đã thành lập các bộ môn, khoa Đông Nam
Á học, nghiên cứu và giảng dạy những kiến thức về khoa
học xã hội nhân văn nói chung như địa lý, lịch sử; kinh tế,
chính trị, ngoại giao; ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo, lối sống
và bản sắc dân tộc của các quốc gia Đông Nam Á...; trong
đó ngôn ngữ là cầu nối không thể bỏ qua. Ngày càng nhiều
công trình khảo cứu về Đông Nam Á học được công bố,
nhiều tài liệu nghiên cứu trên nhiều phương diện của lĩnh
vực này được ra mắt bạn đọc.
Mong muốn cung cấp cho đông đảo bạn đọc quan tâm
một nguồn tài liệu tham khảo thú vị và hữu ích, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn sách Đông Nam
Á học - Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa của TS. Hồ Xuân
Mai, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam. Tập trung nghiên cứu sâu mối quan hệ giữa
ngôn ngữ với văn hóa, cuốn sách chủ yếu trình bày các kết quả
khảo sát của tác giả về lịch sử phân bố, phát triển của các ngôn
ngữ ở khu vực Đông Nam Á, những nghiên cứu bước đầu về mối
quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa cũng như một vài trăn trở,
suy nghĩ của tác giả trước thực trạng sử dụng tiếng mẹ đẻ, nhất
là ở một bộ phận lớp trẻ hiện nay.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Tháng 9 năm 2020
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT 6 lOMoAR cPSD| 40749825 LỜI NÓI ĐẦU
1. Năm 2002 tôi có dịp gặp Giáo sư, Tiến sĩ Phạm Đức
Dương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Nam Á. Ông
say mê nói về quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, tôi cảm thấy
mình bị thu hút. Thú thật, lúc ấy tôi đã có ý định nghiên cứu lĩnh
vực này nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu. Những gì ông nói đã
giúp tôi xác định hướng đi. Năm 2009, tình cờ gặp lại ông và điều
thú vị hơn là tôi và ông cùng dạy một lớp, ông dạy buổi sáng còn
tôi dạy buổi chiều. Tôi tranh thủ trao đổi với ông; đưa ra vấn đề
mình đang ấp ủ và cùng ông tranh luận. Là để học thêm thôi. Về
tới Hà Nội, ông gửi tặng tôi quyển
Bức tranh ngôn ngữ - văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông
Nam Á của ông. Tôi say mê đọc, phát hiện nhiều vấn đề thú vị
nhưng cũng có những chỗ khiến tôi không khỏi phân vân.
2. Tôi đề nghị với lãnh đạo xin được đi điền dã ở một vài
nước trong khu vực Đông Nam Á, nhưng điều kiện kinh phí
không cho phép. Tôi đành phải lựa chọn giải pháp nghiên cứu
thứ cấp. Cho nên, Chương hai của sách này không có gì mới, chỉ
là những kết quả đã có, của những đàn anh, bậc thầy đi trước;
tôi lược lại và nêu nhận xét. Tôi cố gắng trung thành nhất với
những gì có lý và từ chối những gì tạm chưa phù hợp. 7 lOMoAR cPSD| 40749825
3. Bạn đọc tinh ý sẽ nhận ra chỗ chưa vừa ý: tên cuốn sách
Đông Nam Á học: Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn hóa,
nhưng phần lớn nội dung của cuốn sách là nói về ngôn ngữ. Thú
thực, lĩnh vực văn hóa là chỗ giới hạn về chuyên môn của tôi.
Cho nên, tôi không đi sâu vào lĩnh vực này, mà chỉ làm việc trên
tinh thần “biết mới nói”. Cuối mục 3 của phần Dẫn nhập sẽ trình
bày sau đây, tôi cũng thẳng thắn bày tỏ quan điểm khi trình bày
sách: chỉ đề cập mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa nhằm
giúp bạn đọc bước đầu hình thành cho mình phương pháp
nghiên cứu ngôn ngữ qua văn hóa và ngược lại. Chương năm sẽ
giúp bạn đọc đạt được mục đích này.
4. Cuối mỗi trang tôi chú thích những tài liệu đã trích
dẫn hoặc đề cập ở trên để bạn đọc dễ đối chiếu, kiểm
chứng, nhằm tránh tình trạng đưa ra hàng loạt tài liệu, cả
trong nước lẫn nước ngoài.

Hy vọng cuốn sách này sẽ giúp ích cho nhiều người,
đặc biệt là các bạn sinh viên các ngành Đông phương học,
Đông Nam Á học, Ngôn ngữ và văn hóa phương Đông.

Mặc dù tôi đã cố gắng trong quá trình biên soạn,
nhưng cuốn sách này khó tránh khỏi những hạn chế. Rất
mong bạn đọc lượng thứ.
Tôi xin cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật
đã tạo điều kiện để cuốn sách đến với bạn đọc. Xin cảm ơn
bạn bè, đồng nghiệp đã dành thời gian đọc, góp ý cho bản
thảo cuốn sách được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, mùa Thu 2020 Tác giả TS. Hồ Xuân Mai 8 lOMoAR cPSD| 40749825 DẪN NHẬP
1. Về mặt địa lý, Đông Nam Á (tiếng Anh:
Southeast, South East, South - East) là một khu vực
nằm ở phía đông nam lục địa Á - Âu. Phía bắc của
Đông Nam Á giáp Trung Quốc, phía tây giáp Ấn Độ,
phía nam giáp Ôxtrâylia và phía đông giáp biển1. Tuy
đã hiện diện từ rất lâu nhưng phải tới đầu Chiến tranh

thế giới thứ hai, Đông Nam Á mới chính thức được
biết đến như một khu vực địa lý quan trọng2.
Trước đây Đông Nam Á gồm 10 quốc gia (theo thứ
tự abc là Brunây, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaixia,
Mianma, Philíppin, Thái Lan, Việt Nam, Xingapo), trải dài
trên một diện tích 4.494.047km2 (bằng khoảng 1/10 diện
tích châu Á và 1/4 diện tích nước Nga). Ngày 03/5/2002,
Đông Timo tách khỏi Inđônêxia, trở thành một
1. Theo Địa lý lớp 11, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2018.
2. Xem Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Nghiêm Đình Vỳ, Đinh Ngọc
Bảo, Trần Thị Vinh: Lược sử Đông Nam Á, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2003, tr. 5-13. 9 lOMoAR cPSD| 40749825
quốc gia độc lập và là thành viên quan sát của khu
vực. Trong số 11 quốc gia này thì chỉ 5 nước Lào,
Campuchia, Thái Lan, Mianma và Việt Nam thuộc
Đông Nam Á lục địa, các nước còn lại phần lớn là
đảo1, gọi chung là quần đảo Mã Lai. Trong khối Đông

Nam Á, Lào là quốc gia duy nhất không có biển.
Dân số của Đông Nam Á tính đến năm 2018 là
651.583.049 người, quốc gia đông dân nhất là Inđônêxia2.
Đông Nam Á là khu vực có rất nhiều ngôn ngữ3, thuộc các
ngữ hệ Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesia),
Thái - Kađai (Tai - Kađai) và Hán - Tạng (Sino - Tibertan).
Tất cả các đặc trưng của Đông phương, từ chủng tộc,
lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ, tôn giáo, đặc điểm sinh sống,
trình độ phát triển và đặc trưng kinh tế, v.v. đều có ở Đông
Nam Á. Cho nên, nghiên cứu Đông Nam Á - Đông Nam Á
học chính là góp một phần vào nghiên cứu Đông phương.
Những đặc điểm của Đông Nam Á gần như hoàn toàn khác
biệt so với những nơi khác, đặc biệt là phương Tây. Như
ngôn ngữ chẳng hạn. Hầu hết các ngôn ngữ ở phương
Tây, cụ thể là châu Âu, đều thuộc loại biến hình
1. Thực ra, phía Tây Malaixia là phần lục địa. Tuy nhiên, do diện
tích phần này nhỏ nên có thể xem Malaixia là một quốc gia hải đảo.
2. Theo thông tin từ Liên hợp quốc ngày 18/10/2018 (Nguồn:
https:// danso.org/dong-nam-a/).
3. Theo Mai Ngọc Chừ thì có khoảng 600 ngôn ngữ. Xem: Mai Ngọc
Chừ: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông
, Nxb. Phương Đông,
Thành phố Hồ Chí Minh, 2009, tr. 276-281. 10 lOMoAR cPSD| 40749825
hoặc/và chắp dính thì ở Đông Nam Á, phần lớn các ngôn
ngữ đều thuộc loại đơn lập. Văn hóa cũng có sự khác biệt1.
Do vậy, Đông Nam Á học (Southeast Studies) là
một ngành khoa học nghiên cứu những thuộc tính,
đặc điểm này của Đông Nam Á.
2. Như vậy, đối tượng nghiên cứu của Đông Nam
Á học là rất rộng, gồm tất cả những đặc trưng nói
trên của Đông phương. Hoàn toàn có thể xem mỗi đối
tượng là một chuyên ngành của Đông Nam Á học. Và,
ngôn ngữ là đối tượng chính của cuốn sách này.
Có nhiều cách tiếp cận đối tượng: tiếp cận từ cội
nguồn đến hiện tại hoặc ngược lại; tiếp cận theo hướng
chú ý đến sự tác động của các yếu tố xã hội tại thời điểm
đang xét (trục ngang, đồng đại - synchronic) để trả lời câu
hỏi nó sẽ phát triển, biến đổi như thế nào và vì sao nó bị
biến đổi, hệ quả của biến đổi đó là gì, kết quả của phát
triển là gì. Chẳng hạn, nghiên cứu quá trình phát triển ngôn
ngữ của một dân tộc không thể không tính đến những tác
động của văn hóa - xã hội mà ngôn ngữ đó là một yếu tố
hợp thành. Cũng có thể tiếp cận theo hướng xem xét quá
trình phát triển của đối tượng (trục dọc, lịch
1. Xem Trần Ngọc Thêm: Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2000, tr. 20; Mai Ngọc Chừ: Văn hóa và ngôn ngữ
phương Đông, Sđd,
tr. 30; Phạm Đức Dương: Bức tranh ngôn ngữ -
văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Á
, Nxb. Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2007, tr. 30-33 và một số tác giả khác. 11 lOMoAR cPSD| 40749825
đại - diachronic) để thấy được các giai đoạn phát triển
nội tại của đối tượng và những tác động từ bên ngoài
trong quá trình vận động, phát triển đó. Kết hợp cả hai
phương pháp này trong nghiên cứu khoa học xã hội nói
chung, Đông Nam Á học nói riêng, sẽ giúp cho chúng ta
thấy được mối quan hệ hai chiều giữa chúng, vai trò của
đối tượng này trong quá trình phát triển của đối tượng
kia, và ngược lại. Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ của
khu vực Đông Nam Á cũng vậy. Chúng tôi lấy sự phát
triển của các ngôn ngữ làm đối tượng nhưng đặt nó
trong sự tác động của các yếu tố bên ngoài, nhằm xem
xét vai trò của chúng trong suốt quá trình phát triển của
mỗi ngôn ngữ. Đây chính là phương pháp nghiên cứu
của chúng tôi trong cuốn sách này.
3. Đến lượt mình, ngôn ngữ học là một chuyên ngành
có nhiều phân ngành, như ngôn ngữ học địa lý
(geographical linguistics/geolinguistics), ngôn ngữ học -
địa bàn sinh sống (linguistic - area), ngôn ngữ học - dân
tộc học (ethnic linguistics), ngôn ngữ học lịch sử
(historical linguistics), ngôn ngữ học và sự phát triển xã
hội, chính sách ngôn ngữ (policy of language), giao thoa
(interference), tiếp xúc ngôn ngữ (language contact), loại
hình học (typology), ngữ hệ ngôn ngữ (language family/
family of languages), ngôn ngữ học so sánh (comparative
linguistics), ngôn ngữ học đối chiếu (contrastive 12 lOMoAR cPSD| 40749825
linguistics), ngôn ngữ học - văn hóa tộc người (ethnic
- culture linguistics); ngôn ngữ - xã hội học (linguistic
- sociology); ngôn ngữ - tâm lý dân tộc (linguistic -
ethnic psychology); ngôn ngữ - tôn giáo, tín ngưỡng
(linguistic - religion); ngôn ngữ và tâm lý giáo dục
(linguistic - educational psychology),...
Mỗi phân ngành lại có riêng những mục tiêu, mục
đích và phương pháp tiếp cận cũng như kết quả của nó.
Chắc hẳn không ai có thể bao quát được hết chúng. Do
vậy, cuốn sách này chỉ có thể đề cập những vấn đề cơ
bản là quan hệ cội nguồn giữa một số ngôn ngữ ở Đông
Nam Á; sự phân bố các ngôn ngữ trong khu vực; tiếp
xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á; tiếng Việt trong mối quan
hệ với các ngôn ngữ Đông Nam Á; những ngôn ngữ họ
Nam Á ở Việt Nam; quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa;
và chính sách ngôn ngữ.
4. Từ lâu, các nhà ngôn ngữ học, các nhà khoa học
trên thế giới đã quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ của khu
vực Đông Nam Á. Kết quả là có rất nhiều công trình nghiên
cứu về ngôn ngữ khu vực này. Hầu hết các công trình chủ
yếu xoay quanh những vấn đề như quan hệ giữa các ngôn
ngữ; loại hình của các ngôn ngữ; đặc điểm ngữ pháp và
ngữ âm của một số ngôn ngữ cụ thể; đặc điểm cấu tạo từ;
sự phân bố các ngữ hệ; chính sách ngôn 13 lOMoAR cPSD| 40749825
ngữ; và vấn đề bảo vệ, phát triển các ngôn ngữ có nguy cơ cao.
a) Trước hết là những công trình liên quan tới
tiếng Việt và các ngôn ngữ ở Việt Nam. Những nghiên
cứu đầu tiên về đối tượng này thuộc về các nhà
nghiên cứu, các nhà ngôn ngữ học phương Tây.
A. de Rhodes là một trong những người phương
Tây đầu tiên đề cập ngôn ngữ Đông Nam Á, cụ thể là
tiếng Việt, trong Từ điển Annam - Lusitan - Latinh
xuất bản lần đầu năm 16511 (được gọi tắt là Từ điển
Việt - Bồ - La). Đây được xem là công trình đầu tiên về
tiếng Việt, đặt nền tảng cho quá trình phát triển tiếng
Việt sau này. Tuy còn hạn chế nhiều mặt, nhưng Từ
điển Annam - Lusitan - Latinh có tính khoa học, giúp
ích rất nhiều cho các nhà ngôn ngữ học, những ai
muốn tìm hiểu lịch sử tiếng Việt.
Còn với Phép giảng tám ngày (tên đầy đủ Phép
giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội, mà theo
đạo thánh Đức Chúa Trời)2 cũng ra đời năm 1651 của A.
de Rhodes, chúng ta thấy lần đầu tiên chữ quốc ngữ
được in thành sách, phổ biến rộng rãi. Đây là một quyển
sách quý hiếm, xưa nhất về chữ quốc ngữ.
1. Alexandre de Rhodes: Từ điển Annam - Lusitan - Latinh
(1651), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
2. Alexandre de Rhodes: Phép giảng tám ngày (1651), Tủ sách
Đoàn Kết, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993. 14 lOMoAR cPSD| 40749825
Từ điển song ngữ Việt - Latinh đầu tiên là của
Pigneaux de Béhaine với tiêu đề Từ vị Annam - Latinh1, có
sau Từ điển Annam - Lusitan - Latinh của A. de Rhodes 122
năm (1773), ghi lại tương đối đầy đủ từ vựng của người
Việt lúc bấy giờ. Ngày nay, các nhà ngôn ngữ học, đặc biệt
là những người nghiên cứu ngữ âm lịch sử, thường phải
dựa vào hai quyển từ điển nói trên để nghiên cứu ngữ âm
tiếng Việt thời kỳ cổ và trung đại.
Có lẽ tiếng Việt có nhiều yếu tố có thể đại diện cho
loại hình ngôn ngữ đơn âm tiết nên rất nhiều người
quan tâm. J.L. Taberd là một trong những người như
vậy, với từ điển Dictionarium Annammitico - Latinum2,
xuất bản năm 1838. Cũng giống như những quyển từ
điển có trước đó, Dictionarium Annammitico - Latinum
là từ điển song ngữ, tuy chưa thật đầy đủ nhưng có ý
nghĩa rất lớn, đặc biệt là đối với quá trình phát triển của
tiếng Việt cũng như cung cấp nguồn tư liệu quý báu cho
những người làm công tác nghiên cứu.
Henri Maspero quan tâm đặc biệt đến vấn đề ngữ âm
lịch sử của tiếng Việt. Trong “Etude sur la phonetique
1. Pigneaux de Béhaine: Từ vị Annam - Latinh (1773), Hồng
Nhuệ và Nguyễn Khắc Xuyền dịch và giới thiệu, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
2. Jean - Louis Taberd: Dictionarium Annammitico - Latinum, J.
Marshnam, Serampore, 1838. 15 lOMoAR cPSD| 40749825
historique de la langue Annamite: Les initiales”1, từ
việc phân tích quá trình phát triển ngữ âm cũng như
đặc điểm ngữ âm của ngôn ngữ này, tác giả đã khẳng
định tiếng Việt thuộc ngữ hệ Thái2. Như chúng ta đã
biết, đây là kết luận không chính xác nhưng vào thời
điểm đó, nó được đông đảo các nhà ngôn ngữ học
trên thế giới ủng hộ, thậm chí là những người nổi
tiếng như W. Schmidt, H.J. Pinnow, R. Shafer3.
G. Aubaret là người nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt
sớm nhất trong Grammaire de la langue Annamite4. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân, tác giả chỉ mới dừng lại ở
miêu tả từ và cách sử dụng từ để đặt câu.
1. Henry Maspero: “Etude sur la phonetique historique de la
langue Annamite: Les initiales”, BEFEO, XII, N0 1, 1912.
2. Trước đây tiếng Thái được xếp vào ngữ hệ Hán - Tạng (Sino -
Tibertan), sau này mới được xếp vào ngữ hệ Nam Á, thuộc nhóm Tày -
Thái nhưng cũng còn nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn, Jame A.

Matisoff cho rằng nên xem tiếng Thái thuộc ngữ hệ Nam - Thái (Austro -
Tai), tức là không có quan hệ với tiếng Việt. Về vấn đề này, xem thêm: a)
Mai Ngọc Chừ: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, Sđd, tr. 290-293; b)
Jame A. Matisoff: “Tonogenesis in Southeast Asia”, Southern California

Occasional Papers in Linguistics, UCLA, Los Angeles, No.1, 1973.
3. Dẫn theo Mai Ngọc Chừ: Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông,
Sđd
, tr. 291. Tuy nhiên, chúng tôi hoài nghi tại sao Mai Ngọc Chừ
dẫn tên tác giả mà không cho biết tên tài liệu, năm và nơi xuất bản cũng như số trang.

4. G. Aubaret: Grammaire de la langue Annamite, Paris, Impr. Imperial, VIII, 1864. 16 lOMoAR cPSD| 40749825
Từ năm 1885, E.F. Aymonier trong ghi chép về vùng
đất Trung Kỳ “Notes sur l’Annam”1, đã nghiên cứu từ
vựng các ngôn ngữ Chăm, Churu và Cơho ở khu vực
Bình Thuận. Tuy những ghi chép ban đầu này còn nhiều
thiếu sót nhưng đã giúp ích rất nhiều cho những người
muốn nghiên cứu các ngôn ngữ trên.
S.E. Aurousseau đã điểm lại quyển Les Origines de la
langue Annamite2 của Souvignet. Qua đó chúng ta thấy
được nguồn gốc của tiếng Việt qua cái nhìn, cách đánh giá
của các nhà nghiên cứu phương Tây nói chung. Dĩ nhiên
có những vấn đề cần phải nghiên cứu thêm, có những vấn
đề đã được các nhà khoa học, nhà ngôn ngữ học chứng
minh mức độ chính xác của nó, nhưng tất cả đều giúp cho
chúng ta hiểu thêm về tiếng Việt thời kỳ này.
Maurice Abadie trong “Les races du Haut-Tonkin de
Phong Thổ à Lạng Sơn”3, đã chứng minh sự gần gũi về
mặt cội nguồn giữa các dân tộc (tác giả gọi là chủng
tộc) ở khu vực Tây Bắc Việt Nam nhờ vào các chứng cứ
về mặt từ ngữ giữa các ngôn ngữ của các dân tộc này.
1. E.F. Aymonier: “Notes sur l'Annam” (I. Le Binh-thuan; II. Le
Khanh-hoa), Excursions et Reconnaissances IX-24 (1886), p. 199-340;
XI-26 (1886), p. 179-208; XII-27 (1886), p. 5-20.
2. S.E. Aurousseau: “Les Origines de la langue Annamite”,
BEFEO, 1922, pp. 168-172.
3. Maurice Abadie: “Les races du Haut-Tonkin de Phong Thổ à
Lạng Sơn”, Société d’Editions Géographiniques, maritimes et
coloniales, Paris, 1924. 17 lOMoAR cPSD| 40749825
B.F. Banker đã so sánh tiếng Bana và tiếng Việt
trong “A comparison of Bahnar and Vietnamese”1. Theo
đó, giữa hai ngôn ngữ này có những âm rất giống nhau
nhưng hai ngôn ngữ không cùng một ngữ hệ.

J.E. Banker đã dành rất nhiều công sức cho tiếng
Bana, như chú ý tới âm vị học của ngôn ngữ Bana
trong “Bahnar phonology”; nghiên cứu ngữ pháp

tiếng Bana qua sự cải biên các tiểu cú của ngôn ngữ
này “Transformation paradigms of Bahnar clause”;
nghiên cứu từ loại tiếng Bana trong “Bahnar word
classes”; nghiên cứu các phụ âm tiền thanh hầu
trong các ngôn ngữ Đông Nam Á “Preglottalized
consonants in languages of Southeast Asia”2.
E. Barker Milton đã công bố các kết quả nghiên cứu về
ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam như phụ âm môi
trong tiếng tiền Việt - Mường “Proto Viet - Muong initial
labial consonants”; cấu trúc ngữ âm tiếng Mường trong
The phonological of Muong; sự tương ứng Việt -
1. B.F. Banker đã so sánh tiếng Bana và tiếng Việt trong “A
comparison of Bahnar and Vietnamese”, Institute of Linguistics,
mimeo-graphed, Saigon, 1960.

2. J.E. Banker: 1) “Bahnar phonology”, Vietnam Linguistics papers,
Summer Institue of Linguistics (SIL), Saigon, 1961; 2) “Transformation
paradigms of Bahnar clause”, Mon-Khmer studies
, Vol 1, p.7-39,
Linguistics Circle of Saigon and Summer Institute of Linguistics,
Saigon,1964; 3) “Bahnar word classes”, Luận văn Thạc sĩ, Hartfort
Seminar Foundation, V, 56p, 1965; 4) “Preglottalized consonants in
languages of Southeast Asia”, SIL. U.N. Dakota, ms, 6p, 1978.
18