







Preview text:
Mục tiêu kinh tế vĩ mô hiện nay
Quản lý công nghiệp (Đại học Mỏ – Địa chất) 1
II. Mục tiêu kinh tế vĩ mô Việt Nam.
1. Phục hồi, phát triển nhanh hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy các
động lực tăng trưởng, ưu tiên một số ngành, lĩnh vực quan trọng, phấn đấu đạt mục
tiêu của giai đoạn 2021-2025: tăng trưởng GDP bình quân 6,5-7%/năm, chỉ tiêu nợ
công dưới mức cảnh báo Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15, tỷ lệ
thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm
các cân đối lớn trong trung hạn và dài hạn.
2. Tiết giảm chi phí, hỗ trợ dòng tiền, bảo đảm tính chủ động, tạo thuận lợi
cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và người dân.
3. Phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả; bảo đảm an sinh xã hội và đời
sống của người dân, nhất là người lao động, người nghèo, người yếu thế, đối tượng
chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
III. Chính sách, biện pháp
1. Chính sách tiền tệ.
a) Điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ để góp phần
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm an toàn hệ thống các
tổ chức tín dụng, hỗ trợ tích cực cho phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; nghiên
cứu để giữ ổn định tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, tính toán
hợp lý tỷ lệ dự trữ bắt buộc, thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, chỉ
đạo các tổ chức tín dụng tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động để phấn đấu giảm lãi
suất cho vay khoảng 0,5%-1% trong 2 năm 2022 và 2023, nhất là đối với lĩnh vực ưu tiên;
b) Tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi
vay đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, theo dõi sát diễn biến
kinh tế, thị trường tiền tệ để có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân phù hợp,
đồng thời bảo đảm an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng;
c) Điều tiết thanh khoản phù hợp, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ giải ngân
cho các đối tượng thụ hưởng gói hỗ trợ lãi suất;
d) Điều tiết tiền tệ hợp lý, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu Chính phủ và để các tổ chức tín
dụng tiếp tục đầu tư trái phiếu Chính phủ;
2. Chính sách tài khóa.
2.1. Chính sách miễn, giảm thuế. 2
a) Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng trong năm 2022, áp dụng đối với
các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế giá trị gia tăng 10%
(còn 8%), trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ sau: viễn thông, công nghệ thông tin,
hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản,
kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác
than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hóa chất, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt;
b) Cho phép tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp đối với khoản chi ủng hộ, tài trợ của doanh nghiệp, tổ chức cho
các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19 tại Việt Nam cho kỳ tính thuế năm 2022.
2.2. Chính sách đầu tư phát triển.
Tăng chi đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước tối đa 176 nghìn tỷ
đồng, tập trung trong 2 năm 2022 và 2023, bao gồm: a) Về y tế:
Bố trí tối đa 14 nghìn tỷ đồng để đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, hiện đại
hóa hệ thống y tế cơ sở, y tế dự phòng, trung tâm kiểm soát bệnh tật cấp vùng,
nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh của viện và bệnh viện cấp trung ương
gắn với đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực y tế, sản xuất
vaccine trong nước và thuốc điều trị COVID-19;
b) Về an sinh xã hội, lao động, việc làm:
- Cấp cho Ngân hàng Chính sách Xã hội tối đa 5 nghìn tỷ đồng, bao gồm cấp
bù lãi suất và phí quản lý 2 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi
thuộc Chương trình; hỗ trợ lãi suất tối đa 3 nghìn tỷ đồng cho đối tượng vay vốn
theo các chương trình tín dụng chính sách có lãi suất cho vay hiện hành trên 6%/năm;
- Đầu tư xây mới, cải tạo, nâng cấp, mở rộng và hiện đại hóa các cơ sở trợ
giúp xã hội, đào tạo, dạy nghề, giải quyết việc làm tối đa 3,15 nghìn tỷ đồng;
c) Về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh:
- Hỗ trợ lãi suất (2%/năm) tối đa 40 nghìn tỷ đồng thông qua hệ thống các
ngân hàng thương mại cho một số ngành, lĩnh vực quan trọng, các doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ kinh doanh có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi; cho vay cải
tạo chung cư cũ, xây dựng nhà ở xã hội, nhà cho công nhân mua, thuê và thuê mua;
- Cấp vốn điều lệ cho Quỹ Hỗ trợ phát triển du lịch tối đa 300 tỷ đồng; 3
d) Về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng:
Bổ sung tối đa 113,55 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước để
phát triển kết cấu hạ tầng: giao thông, công nghệ thông tin, chuyển đổi số, phòng,
chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo đảm an toàn hồ chứa nước, thích ứng biến đổi
khí hậu, khắc phục hậu quả thiên tai;
đ) Việc lựa chọn và phân bổ vốn cho các dự án thuộc Chương trình phải bảo
đảm giải ngân vốn của Chương trình trong 2 năm 2022 và 2023, và tuân thủ các
nguyên tắc, tiêu chí sau đây:
- Ưu tiên phân bổ vốn cho các dự án quan trọng quốc gia, các dự án trong
danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đang triển khai
thực hiện, có khả năng hoàn thành sớm nhưng chưa được bố trí vốn hoặc chưa
được bố trí đủ vốn;
- Trường hợp bố trí vốn cho các dự án nằm ngoài danh mục Kế hoạch đầu tư
công trung hạn giai đoạn 2021-2025: chỉ bố trí cho các dự án quan trọng, cấp thiết,
có tác động lan tỏa, có khả năng giải ngân nhanh và hấp thụ ngay vào nền kinh tế,
phù hợp với quy hoạch, sử dụng nguồn vốn hiệu quả, bảo đảm khả năng cân đối
vốn để hoàn thành dự án trong giai đoạn 2022-2025; đối với một số dự án mới có ý
nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế-xã hội thì ưu tiên hỗ trợ giải phóng mặt bằng;
- Các dự án phải bảo đảm đủ thủ tục đầu tư theo quy định;
- Bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng, hài hòa giữa các vùng, miền, địa phương, lĩnh vực.
3. Chính sách khác.
Áp dụng các chính sách khác để thực hiện Chương trình tập trung trong 2
năm 2022 và 2023, bao gồm:
a) Sử dụng khoảng 5 nghìn tỷ đồng từ Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt
Nam để phát triển hạ tầng viễn thông, internet, trong đó sử dụng 1 nghìn tỷ đồng
để trang bị máy tính bảng thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em”;
b) Giải quyết các vướng mắc trong quy định về nội dung chi và quản lý Quỹ
Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp; sử dụng khoảng 5 nghìn tỷ
đồng để đổi mới công nghệ, ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học
công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
giải mã công nghệ; mua thiết bị, máy móc, nguyên vật liệu cho đổi mới công nghệ,
phục vụ trực tiếp hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp IV. Kết quả 4
Trong bối cảnh quốc tế phục hồi trong bất định, rủi ro; với Việt Nam, nhờ
Chính phủ triển khai quyết liệt chính sách linh hoạt, phù hợp trong phòng, chống
dịch bệnh, kiên định với chiến lược "Sống chung an toàn với Covid-19"; tiếp tục
ban hành các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp giúp khôi phục các hoạt
động kinh tế - xã hội, mở cửa du lịch, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm tiếp tục
phục hồi mạnh mẽ ở hầu hết các ngành, lĩnh vực với 9 điểm sáng như sau.
Thứ nhất, tình hình dịch bệnh kiểm soát tốt, các chính sách hỗ trợ tiếp
tục được cụ thể hóa tạo điều kiện cho kinh tế phục hồi. Nửa đầu năm 2022, tình
hình dịch bệnh được kiểm soát, cùng sự linh hoạt trong chính sách kiểm soát dịch
bệnh giúp các hoạt động kinh tế - xã hội đã được khôi phục gần như trước đại dịch.
Bên cạnh đó, nhiều chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp cũng đã được ban
hành và triển khai như Nghị quyết 01 (ngày 8/1) về nhiệm vụ, giải pháp phát triển
KT-XH và Nghị quyết 02 (ngày 10/1) về cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh
năm 2022; Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 30/1/2022 về chương trình phục hồi và
phát triển KT-XH 2022-2023 nhằm triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 (ngày
11/1/2022) của Quốc hội; Nghị quyết 38/NQ-CP ngày 17/3/2022 về Chương trình
phòng, chống dịch Covid-19 trong bối cảnh mới.
Các hoạt động kinh tế - xã hội được duy trì và tái khởi động như mở lại các
đường bay quốc tế (từ ngày 15/2); mở cửa lại trường học; mở cửa du lịch quốc tế
từ ngày 15/3; các hoạt động du lịch trong nước được thúc đẩy trong đợt nghỉ lễ
30/4 và dịp Hè 2022 và SEA Games 31; Thông tư 03/2022/TT-NHNN (ngày
20/5/2022) về hướng dẫn hỗ trợ lãi suất 2% đối với doanh nghiệp, HTX, hộ kinh
doanh theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP (ngày 20/5/2022); Nghị định số
34/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 về gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN,
cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2022…; góp phần hỗ trợ phục hồi trong năm 2022.
Thứ hai, kinh tế phục hồi mạnh mẽ, tăng trưởng GDP quý II/2022
đạt 7,72%, là mức tăng trưởng quý II cao nhất từ năm 2011 đến nay, cho thấy sự
phục hồi tích cực của nền kinh tế Việt Nam, một phần nhờ các chính sách nêu
trên. Tính chung 6 tháng đầu năm, GDP tăng 6,42% so với cùng kỳ năm 2021,
cao hơn mức tăng 5,64% cùng kỳ năm trước, gần bằng mức tăng 6,76% cùng kỳ
năm 2019 và cao hơn mục tiêu của Chính phủ tại Nghị quyết 01 (5,1-5,7%). Trong
đó, ngành công nghiệp chế biến - chế tạo là động lực tăng trưởng chính, tăng
9,66%, cao hơn mức tăng 9,63% năm 2019 (trước đại dịch), đóng góp 2,58 điểm %
vào mức tăng trưởng chung; lĩnh vực dịch vụ chứng kiến đà phục hồi mạnh mẽ
(tăng 6,6%), tương đương với giai đoạn trước đại dịch (6,69% cùng kỳ năm 2019).
Đây là kết quả rất đáng khích lệ trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều rủi ro, bất 5
ổn, lạm phát tăng cao, nhiều nước bị các tổ chức quốc tế hạ dự báo tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, xuất - nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng tích cực. Tổng kim ngạch
xuất - nhập khẩu đạt 371,1 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước và cán
cân thương mại thặng dư 710 triệu USD. Trong đó, xuất khẩu đạt 185,9 tỷ
USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt 185,2 tỷ
USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước; và nhóm hàng tư liệu sản xuất chiếm
94% kim ngạch. Tuy vậy, cần lưu ý là trong mức tăng 16,3% kim ngạch XNK ở
đây có đến 59% là do tăng giá (chỉ số giá XNK tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước).
Thứ tư, giải ngân vốn FDI tăng trưởng tích cực. Lũy kế đến hết ngày
20/06/2022, giải ngân vốn FDI đạt 10,06 tỷ USD, tăng 8,9% - là mức cao nhất của
6 tháng trong 5 năm qua, cho thấy tình hình giải ngân vốn FDI tại Việt Nam tiếp
tục khả quan; đồng thời điều này góp phần hỗ trợ ổn định tỷ giá và các cân đối vĩ
mô khác. Tuy nhiên, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 14,03 tỷ USD,
giảm 8,1 % so với cùng kỳ chủ yếu do vốn đăng ký cấp mới chỉ đạt 4,94 tỷ USD
(giảm 48,2%). Điểm tích cực là vốn đăng ký bổ sung và vốn góp, mua cổ phần tiếp
tục tăng trưởng mạnh mẽ (lần lượt đạt 6,82 tỷ USD, tăng 65,6% và 2,27 tỷ USD,
tăng 41,4%); cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài hiện tại đối với thị trường Việt Nam.
Thứ năm, thu ngân sách tăng mạnh song cần lưu ý một số yếu tố chưa
thực sự bền vững. Thu NSNN 6 tháng đầu năm đạt 932,9 nghìn tỷ đồng, bằng
66% dự toán năm, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2021, thể hiện đà phục hồi của
khu vực doanh nghiệp và dân doanh, nhưng cũng có một số yếu tố chưa thực sự
bền vững, trong đó, tỷ trọng thu nội địa so với tổng thu NSNN có xu hướng giảm
(ở mức 79,7% so với mức 83% của năm 2021); thu từ dầu thô (chiếm 3,7% tổng
thu ngân sách) tăng 80,8%, thu từ XNK (chiếm 16,6% tổng thu ngân sách) tăng
25,5%, thu từ đất đai tăng từ mức 7% tổng thu ngân sách giai đoạn 2016-2020 lên
13,4% trong 6 tháng đầu năm 2022. Bên cạnh đó, chi NSNN đạt 713 nghìn tỷ
đồng, tăng nhẹ 4,5% so với cùng kỳ năm 2021, trong đó chi đầu tư phát triển tăng
12,3%, cho thấy tiến độ giải ngân đầu tư công vẫn chậm so với kỳ vọng.
Thứ sáu, lãi suất huy động và tỷ giá tăng lên song vẫn trong tiên lượng và
tầm kiểm soát. Trong 6 tháng đầu năm, lãi suất huy động của các NHTM có xu
hướng tăng, với mức tăng 0,5-1% chủ yếu ở các kỳ hạn từ 6-12 tháng do: (i) thanh
khoản của hệ thống các TCTD không còn dồi dào như năm 2021; (ii) nhu cầu tín
dụng tăng cao (tăng trưởng tín dụng hết tháng 6 đạt khoảng 8,5%, cao hơn nhiều so
với mức 6,44% cùng kỳ năm 2021, trong khi huy động vốn chỉ tăng gần 4% so với
cùng kỳ), kéo theo nhu cầu vốn tăng. Tuy nhiên, lãi suất cho vay vẫn được duy trì 6
ổn định nhằm hỗ trợ phục hồi, nhất là gói tín dụng hỗ trợ lãi suất 2% quy mô 40
nghìn tỷ đồng đang được tích cực triển khai.
Bên cạnh đó, tỷ giá có thời điểm biến động mạnh, chủ yếu do đồng USD lên giá,
đặc biệt là kể từ tháng 5/2022 khi Fed liên tiếp nâng lãi suất cơ bản, hiện đang ở
mức 1,5-1,75% nhằm kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, dự báo tỷ giá trong nửa cuối
năm 2022 vẫn trong tầm kiểm soát (cả năm tăng khoảng 2,5%) nhờ: (i) mức tăng
của đồng USD thời gian tới dự báo không còn quá mạnh như 6 tháng qua; (ii) cung
- cầu ngoại tệ trong nước vẫn tiếp tục được hỗ trợ tích cực (cán cân thương mại dự
báo thặng dư 4-8 tỷ USD trong năm 2022 và dự trữ ngoại hối khá dồi dào, trên 100
tỷ USD); (iii) NHNN tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá chủ động, linh hoạt nhằm
hỗ trợ ổn định thị trường.
Thứ bảy, hoạt động doanh nghiệp có nhiều tín hiệu khởi sắc nhờ các hoạt
động kinh tế - xã hội được khôi phục, mở cửa du lịch và Chính phủ kiên định với
chiến lược "Sống chung an toàn với Covid-19". Số doanh nghiệp đăng ký thành lập
mới lũy kế 6 tháng là 76,2 nghìn, tăng 13,6%, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt
động là 40,7 nghìn, tăng 55,6% so với cùng kỳ. Tuy nhiên, số doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn lũy kế 6 tháng tăng 43%, chứng tỏ còn nhiều doanh
nghiệp khó khăn ở một số lĩnh vực, ngành nghề chịu tác động tiêu cực lâu dài bởi dịch bệnh.
Thứ tám, du lịch phục hồi mạnh, song vẫn đối mặt với rủi ro dịch bệnh,
địa chính trị và nguồn nhân lực. Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm
đạt 602 nghìn lượt khách, tăng 6,8 lần so với cùng kỳ năm trước; cho thấy du lịch
đang bùng nổ mạnh mẽ. Du lịch hồi phục tích cực giúp doanh thu du lịch lữ hành 6
tháng đầu năm tăng 94,4% so với cùng kỳ năm trước (doanh thu du lịch đạt
265.000 tỷ đồng, tương đương 78% mức trước đại dịch). Dự báo du lịch sẽ là một
trong lĩnh vực phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch (theo báo cáo của WEF, tháng
5/2022). Chỉ số năng lực phát triển du lịch Việt Nam năm 2021 xếp thứ 52, tăng 8
bậc so với năm 2019, nằm trong số 3 quốc gia có mức tăng cao nhất). Tuy nhiên,
căng thẳng Nga - Ukraina vẫn dai dẳng, lạm phát còn ở mức cao đe dọa sự hồi
phục của du lịch quốc tế cùng việc Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách
"Zero-Covid" khiến khách du lịch từ Trung Quốc (thị trường du lịch hàng đầu của
Việt Nam trước đại dịch, chiếm khoảng 28% khách du lịch quốc tế của Việt Nam)
vẫn chưa thể sang Việt Nam, khiến ngành du lịch vẫn cần thời gian để hồi phục
hoàn toàn (tính chung 6 tháng đầu năm, lượng khách quốc tế vẫn giảm 92,9% so
với cùng kỳ năm 2019). Nhiều doanh nghiệp du lịch, khách sạn thiếu lao động do
nhân viên du lịch thay đổi công việc trong dịch bệnh và chưa thể phục hồi ngay.
Thứ chín, các tổ chức quốc tế đánh giá cao nỗ lực phục hồi, ổn định vĩ
mô và tiến bộ kinh tế - xã hội của Việt Nam. Theo đó, i) Chỉ số Phục hồi COVID- 7
19 do Nikkei công bố tháng 4/2022 đánh giá Việt Nam xếp thứ 62/121 quốc gia,
tăng 28 bậc so với tháng 1/2022; (ii) Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2022
(3/2022) của UN nâng xếp hạng của Việt Nam lên thứ 77/150 quốc gia, tăng 2 bậc
so với năm 2021; (iii) Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P (5/2022), nâng hạng tín
nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng
"Ổn định"; (iv) Theo bảng xếp hạng do Tạp chí CEOWORLD (Mỹ) vừa công bố,
chỉ số "Chất lượng sống" của Việt Nam đạt 78,49 điểm, xếp vị trí 62/165 các quốc
gia, tăng 39 bậc trên bảng xếp hạng này năm 2021…v.v.
Document Outline
- III. Chính sách, biện pháp
- 2. Chính sách tài khóa.
- 2.2. Chính sách đầu tư phát triển.
- 3. Chính sách khác.
- IV. Kết quả