




Preview text:
MUỐI CỦA RỪNG
Nguyễn Huy Thiệp: bước ngoặt văn xuôi sinh thái Việt Nam sau 1975
Nguyễn Huy Thiệp (1950-2021) là một tác giả đương đại. Ông chắc tay nhất ở mảng truyện ngắn, và
là cây viết nổi bật nhất trong hàng ngũ những nhà văn sáng tác sau 1986, có ảnh hưởng tới nhiều nhà văn trẻ hiện nay.
Ông là người tiếp bước di sản văn học sinh thái của Nguyễn Minh Châu và Trần Duy Phiên. Ông mở
rộng dòng văn học về môi trường không chỉ bằng việc cải tiến thi pháp sáng tác, mà còn tập trung
vào những suy tư mới và cách đặt vấn đề mới về mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên.
Truyện ngắn Muối của rừng (1986) là ví dụ thuyết phục cho những nét mới đó.
Cốt truyện rất đơn giản, kể về một ông già tên Diểu đi săn thú rừng trong tiết xuân. Ông bắn được
một con khỉ đực trong đàn khỉ, nhưng khỉ cái cứu khỉ đực, còn khỉ con cướp súng của ông. Cuối cùng,
ông băng bó cho khỉ đực và thả nó đi sau những chiêm nghiệm sâu sắc.
=> Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều truyện ngắn về đề tài đi săn như: “Sói trả thù”, “Trái tim hổ”, “Con
thú lớn nhất” hay “Muối của rừng”. Tuy nhiên tác giả không đơn thuần chỉ kể chuyện đi săn mà
thông qua đó còn gửi gắm những vấn đề nhân sinh rất phổ quát. Đó là một cuộc đấu tranh không
ngừng giữa cái thiện với cái ác, giữa con người và thế giới tự nhiên. Ở “Muối của rừng”, con người
xuất hiện trong một cuộc đi săn, dưới sự cứu rỗi của cái đẹp đã xóa dần những tấm màn ảo tưởng,
những định kiến mà họ tự dựng lên và tin vào trước đó. Cuối cùng con người đối mặt với chính mình
– dù trần trụi, lạnh lùng nhưng vô cùng đẹp đẽ với thứ duy nhất còn lại chính là thiên lương thuần khiết.
Muối của rừng: phá hủy, cứu rỗi, và trở về với thiên nhiên
Phá hủy thiên nhiên
Muối của rừng chỉ có một nhân vật người là ông Diểu, nhưng có hai nhân vật thú là cặp đôi khỉ.
Trong khi ông Diểu đại diện cho thế giới văn minh loài người, thì hai chú khỉ là hiện thân của thiên nhiên.
Như vậy, hành trình cầm súng săn thú rừng của ông Diểu chính là quá trình xâm lấn không gian thiên
nhiên của văn minh con người. Ở đầu truyện, ông Diểu cũng giống những tên buôn gỗ lậu, những tập
đoàn tiền tỉ chiếm đất xây resort, hay những tay buôn lậu ngà voi, mật gấu.
Giống là bởi ông cũng nhìn thiên nhiên như một thứ phông nền để trục lợi và thỏa mãn bản thân.
Ông bắn thú không để lấy thức ăn, mà để giải trí nhân dịp “thằng con học ở nước ngoài gửi về biếu
ông khẩu súng hai nòng.” Ông vào rừng, lấy thiên nhiên làm niềm khuây khỏa “tất cả những trò nhố
nhăng đê tiện hàng ngày”.
Cầm cây súng trong tay, ông Diểu như một vị thánh, có quyền quyết định sinh hay sát với muông
thú. Ông tha cho mấy con chim vì “chim xanh ông chén chán rồi.” Ông tha cho đôi gà rừng sau khi tự
nhủ “bắn sẽ trượt thôi”. Rồi với quyền lực của cây súng, của khoa học và văn minh, ông bắn thành công một chú khỉ.
Ông Diểu gọi nạn nhân của mình là “thằng bố ô trọc”, “đồ phong tinh phóng đãng”, “vị gia trưởng
cộc cằn”, “nhà lập pháp bẩn thỉu”, “tên bạo chúa khốn nạn”. Ông không coi thiên nhiên là thiên
nhiên, mà soi chiếu thiên nhiên từ lăng kính con người. Ông trút lên chú khỉ tội nghiệp những hằn
học mà ông mang từ xã hội vào trong rừng.
Thế nhưng, chính chú khỉ mà ông mới gọi bằng những danh từ thậm tệ kia đã giúp ông thức tỉnh trước thiên nhiên.
Cứu rỗi thiên nhiên
Ông Diểu nhận ra sự sai trái trong hành động của mình ngay khi hoàn thành phát súng. Khi ấy, “chân
tay ông rủn ra, giống cảm giác như người vừa mới làm xong việc nặng.”
Sau khi khỉ con lấy súng và đôi khỉ chạy thoát, ông Diểu một lần nữa bắt gặp con mồi đang vắt vẻo
chờ chết trên một mỏm đá. Ông vui mừng chộp lấy vận may, thậm chí lột hết quần áo để di chuyển
dễ dàng hơn. Nhưng cuối cùng, trước bả vai nát nhừ của con khỉ, trước đôi mắt ươn ướt ngước nhìn,
ông Diểu đã mềm lòng và băng bó cho nó.
Vào thời điểm này, ông bắt đầu nhận ra rằng hình như thiên nhiên cũng như con người, và rằng
muông thú cũng có thứ tinh của nó. Cái tinh ấy dần lấn át cái lý phiến diện của con người và kéo ông về với thiên nhiên.
Ông định mang con khỉ về, coi nó như chiến lợi phẩm. Nhưng trước cái tinh của loài khỉ, ông đành
thả nó đi sau khi đã nhận ra rằng “trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật nặng nề.”
Bắn được khỉ nhưng không dứt điểm con mồi, mà lại cứu và thả nó bởi tới cùng, ông không nhìn con
khỉ như một con thú nữa. Nói cách khác, ông rời bỏ vị thế thượng đẳng của loài người. Hành động
của ông không phải là một phút yếu lòng của gã thợ săn, mà đánh dấu sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật.
Việc ông Diểu có thể tự tin cầm súng vào rừng bắn khỉ thể hiện tâm thế đối đầu trực diện với thiên
nhiên. Nhưng với hành động tha mạng khỉ, nhân vật Diểu cho người đọc thấy rằng chúng ta còn một
sự lựa chọn khác trong cách đối xử với thiên nhiên. Sự cứu rỗi bắt đầu từ sự thay đổi trong thái độ
và góc nhìn với miền hoang dã.
Trở về với thiên nhiên
Tới cuối cuộc săn, ông Diểu nhận ra sự tương đồng giữa người và thú, liên kết giữa tự nhiên và văn
hóa, và sự nhận thức về gánh nặng và trách nhiệm chung của muôn loài khi cùng chung sống trong
một ngôi nhà sinh thái. Từ nhận thức ấy, ông Diểu quay về bản dạng nguyên thủy và tim về với thiên
nhiên trong đoạn kết truyện:
“Lối này đầy những bụi gai ngáng đường nhưng hoa tử huyền nhiều không kể xiết. [. .] Hoa này màu
trắng, vị mặn, bé bằng đầu tăm, người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng kết muối, đấy là
điềm báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc.
Ra khỏi thung lũng, ông Diểu đi xuống cánh đồng. Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ
trần truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông nhòa vào màn mưa.”
Có thể nói, nhân vật Diểu tới cuối tác phẩm đã hoàn thành một hành trình. Ông ra đi với súng, với
nai nịt, quần áo ấm, mũ lông, giày cao cổ. Ông bước vào rừng, đi tim bạo lực với tâm thế của kẻ
thống trị nắm trong tay hành trang văn hóa, và trần truồng rời đi như một người rừng chưa từng
biết tới thế giới sự văn minh tạo dựng của con người.
Lúc bóng ông nhòa vào màn mưa chính là lúc ông trở thành một với thiên nhiên. Ông Diểu ở cuối
truyện đã khước từ toàn bộ điểm nhìn trịch thượng của con người để hòa nhập với tự nhiên. Tất cả
những dấu vết của nền văn minh như áo, quần, súng, ông đã vứt bỏ. Ông đã tim thấy vị trí của mình
trong ngôi nhà chung mang tên Trái đất.
Hình ảnh ông Diểu trần truồng, trên răng dưới dái đi trong mưa xuân ẩm ướt giữa sắc hoa tử huyền
chính là câu trả lời của Nguyễn Huy Thiệp về các thảm họa môi trường: từ bỏ vị thế bá quyền là cách
duy nhất để hòa hợp với tự nhiên.
Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác
Trong cảm quan hậu văn học hậu hiện đại, con người không còn là một lát cắt nguyên phiến với
những mặt tốt đẹp đáng ngợi ca. Thế giới tâm hồn người luôn tiềm ẩn những điều kỳ lạ, những góc
tối khuất lấp cần khám phá. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khai thác các khía cạnh nội tâm để
khắc họa tính chất đa nguyên của con người. Nhưng dù khai thác con người ở mức độ nào, nhà văn
vẫn phải hướng đến bản chất của con người là “tổng hòa các quan hệ xã hội” và phải luôn có sự hài
hòa giữa thực thể sinh học – xã hội. Ở “Muối của rừng”, Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn con người như
một phần khăng khít của đời sống tự nhiên, và cũng chính ông ngầm chỉ ra rằng tự nhiên như một
phẩm chất của con người, như bản chất Người.
Bằng trí tưởng tượng huy hoàng Nguyễn Huy Thiệp đã đưa người đọc bước vào một cuộc hành trình
đầy chất thơ. Đó là một sớm xuân: “Cây cối đều nhú lộc non. Rừng xanh ngắt và ẩm ướt. Thiên nhiên
vừa trang trọng vừa tinh cảm”. Khung cảnh thanh bình ấy lại chính là dịp để nhân vật ông Diểu “bắt
đầu cuộc đi săn”. Nhân vật đi vào rừng mang theo bao hệ lụy trần thế ám ảnh. Ông nhìn thiên nhiên
cũng như cách ông đánh giá về cuộc đời. Ông tự gán những suy nghĩ cay đắng về con người cho loài
vật: “Cái thằng bố ô trọc ấy! Đồ phong tinh phóng đãng! Vị gia trưởng cộc cằn” hay “bởi giống cái
bao giờ cũng dễ phân tâm”. Ở đây tác giả đã cố tinh tạo ra tinh huống nhân vật bị nhầm lẫn giữa
những bản thể, giữa con người và loài vật để hợp lí hóa cho sự thay đổi tâm trạng và các hành động kế tiếp.
Từng cung bậc của tâm trạng của ông Diểu có sự thay đổi. Bắt đầu từ lúc tiếp cận đàn khỉ “không
buồn, không vui, không lo lắng cũng không tính toán” đến “mỉm cười và chăm chú nhìn”. Rồi và cuối
cùng là “niềm vui nhen lên từ khi ở nhà ra đi trong ông vơi đi một nữa”. Ông quyết định bắn hạ con
khỉ đực với “một tiếng súng dữ dội”. Ông Diểu làm điều ác và tại thời điểm đó ông vẫn hài lòng với
kết quả dù có chút “run lên” như “người vừa mới làm xong việc nặng”.
Nhưng khi nhìn đôi mắt con khỉ đực, người đàn ông ấy bổng dấy lên một niềm “thương hại” và “mủi
lòng”. Hành động “tránh nhìn vào đôi mắt” con vật như là một điềm báo hiệu về xung đột bắt đầu
nảy sinh trong quá trình chinh phục và chiếm đoạt của con người. Để từ cái điềm báo ấy, ông Diểu
chuyển từ tâm trạng hài lòng khi làm điều ác sang trạng thái hoảng loạn, bối rối. Ông tim cách “hái lá
đắp cho con khỉ” hay loay hoay “cởi chiếc quần lót” – mảnh giáp cuối cùng trên cơ thể để băng bó
cho nó. Trải qua một hành trình vất vả, chứng kiến và suy nghiệm nhiều thứ, đặc biệt là hình ảnh con
khỉ con rơi xuống vực sâu thăm thẳm và con khỉ cái cứ kiên trì lẽo đẽo theo ông đi xuyên rừng, người
đàn ông ấy chợt cảm thấy “cay cay sống mũi” và thức nhận “một nỗi buồn tê tái đến tận đáy lòng”.
Những tâm trạng và hành động không nhất quán ấy biểu hiện cho một sự giằng xé nội tâm giữa
tham vọng và tinh thương, giữa khả năng của một ông già và sức mạnh của thiên nhiên, giữa phần
“con” và phần “người” cũng chính là cái ác và tính thiện trong nhân vật.
Cái thiện “ca khúc khải hoàn”
Tâm trạng ông Diểu, từ khi đi qua một chặng đường dài vào rừng săn thú cho tới khi cay đắng hiểu
ra rằng “hóa ra ở đời trách nhiệm đè lên từng sinh vật quả thật nặng nề” thể hiện một sự thức tỉnh
của lương tâm con người. Như Bielinsky đã nói: “Người cao thượng không phải là người không bao
giờ đê tiện. Người cao thượng là người biết mình có những lúc đê tiện”. Nhân vật sau một hành
trình dài chợt nhận ra mình đang làm điều ác và quyết định buông bỏ tất cả . Nhận thức được cái ác
có nghĩa là đã chiến thắng được cái ác. Để rồi sau đó trí tưởng tượng của tác giả lại tiếp tục tung
hoành đẩy nhân vật “cất cánh” trong một kết thúc đầy nhân văn. Ông Diểu quyết định “phóng sinh”
cho con khỉ. Dù cho con người tham vọng ban đầu tưởng như đã chiếm ưu thế, nhưng người đàn
ông ấy vẫn biết “mủi lòng” trước những sinh linh, thức nhận những giá trị của yêu thương khi chứng
kiến tinh cảm của giống loài – ở đây là loài khỉ cũng không hề xa lạ với con người. Ông trở về cùng hai
bàn tay trắng và con người trần truồng với phần người trỗi dậy và thắng thế. Khi đó ông bắt gặp loài
hoa tử huyền, biểu tượng của hạnh phúc, của cái thiện và những trận mưa bụi mùa xuân đã che chở
cho thân thể ông suốt quảng đường về. Hình ảnh hoa tử huyền đã trở thành một biểu tượng thiêng
liêng, tô đậm thêm ý nghĩa về giá trị khởi nguyên, giá trị cội nguồn và ý niệm về con người hướng thiện.
Con người ra đi với ý định huỷ hoại thiên nhiên, hủy hoại cuộc sống, khi trở về lại trong tâm thế hòa
vào lòng thiên nhiên, vào lòng cuộc sống: “Mưa xuân dịu dàng nhưng rất mau hạt. Ông cứ trần
truồng như thế, cô đơn như thế mà đi. Chỉ một lát sau, bóng ông đã nhòa vào màn mưa.” Ông Diểu
trở lại hình hài ban đầu của con người tưởng như chưa từng phạm tội và trong sạch trước cuộc đời.
Đúng như những hình ảnh rất đẹp của nhà phê bình PGS- TS Nguyễn Thị Minh Thái khi viết về “Muối
của rừng”: “Ra khỏi rừng, được chính cuộc đi săn tẩy rửa, chỉ mang theo“tấm thân rày đã nhẹ
nhàng”, với độc trọi cảm giác “phóng sinh” trong trẻo, lâng lâng đốn ngộ”[1]. Nhân vật “Muối của
rừng” cuối cùng đã thực hiện “khúc ca khải hoàn” của cái thiện trong một cuộc đấu tranh khốc liệt, dằng xé.
Một vấn đề nhân sinh phổ quát
“Muối của rừng” đã đưa ra một vấn đề nhân sinh phổ quát đó là mâu thuẫn giữa cái ác và cái thiện
trong mỗi một con người. Con người trong thời đại nào cũng thế, luôn luôn tồn tại cuộc đấu tranh
giữa phần bản năng sinh vật đê tiện thấp hèn và phẩm chất người cao quý. Đó không chỉ là câu
chuyện của trí tưởng tượng mà còn là câu chuyện muôn đời. Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ
làm người trong cuộc đấu tranh bền bĩ và dai dẳng cho việc hoàn thiện nhân cách con người.
Nguồn gốc của mọi tội lỗi, của những điều ác suy cho cùng cũng do con người đang bị mất niềm tin
vào các giá trị. Họ trở nên tách rời nhau, tách rời với tinh yêu và cội nguồn của sự sống. Từ đó con
người luôn có cảm giác sợ hãi và thiếu an toàn. Cũng từ nỗi sợ hãi, con người trở nên tham lam với
khát vọng muốn sở hữu, muốn chiếm đoạt (những thứ như vật chất, sự ca tụng, sự quan tâm của
người khác…) để làm mình có giá trị hơn. Con người trong hành trình mải miết tim cách khỏa lấp nỗi
sợ đó đã quên đi tính thiện luôn ẩn chứa bên trong của mình. Chúng ta để nỗi sợ lấn át tiếng gọi của
trái tim, của thiên lương thuần khiết và cứ thế chạy theo trò chơi cuộc đời. Ranh giới giữa cái thiện
và cái ác trở nên rất mong manh và nhiều thách thức hơn bao giờ hết. Nếu con người chỉ sơ sẩy
bước chệch chân đã lao ngay vào hố sâu thăm thẳm của cái ác mà khó lòng thoát ra được. Lúc ấy chỉ
có cái đẹp xuất hiện mới đủ sức cứu rỗi và nâng đỡ con người thoát khỏi vòng bủa vây của cái ác.
Nhân vật “Muối của rừng” đã may mắn có được điều đó.
Nghệ thuật kể chuyện độc đáo
Muối của rừng xây dựng nhiều những hình ảnh ước lệ mang triết lý sâu sắc trong một giọng văn lạnh
lùng, kiêu bạc thấm đẫm con chữ. Vẫn lối viết cực ngắn trong một cốt truyện đơn giản. Đi săn, trang
bị đầy đủ, cuối cùng cởi truồng trở về. Nhưng nét hấp dẫn của văn Nguyễn Huy Thiệp là ở đó. Ngay
trong cái hữu hạn của từng từ, từng chữ lại chứa đựng cái vô hạn về ý nghĩa mà độc giả hậu thế vẫn
cứ mải mê kiếm tim cái hay cái đẹp trong mỗi câu văn, trong tầng tầng lớp nghĩa của những hình ảnh đầy ẩn ý.
Cách xây dựng nhân vật và tinh huống truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp đã được “lạ hóa”, chẳng giống
bất kỳ ai. Một ông lão, cô độc, vào rừng đi săn trong một sớm xuân. Tên nhân vật cũng mang dụng ý
của tác giả, thậm chí khó phát âm để tạo ấn tượng cho người đọc. “Diểu” theo từ điển Hán – Việt
(Thiều Chửu) có nghĩa là sâu thẳm, mờ mịt khó xác định. Phải chăng đây là một yếu tố mà tác giả tạo
ra để phù hợp tính chất huyền ảo của truyện ngắn.
Đọc “Muối của rừng” để thấy truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ có cái ác, cái xấu xa, cái
ti tiện. Bức tranh về số phận con người trong những tác phẩm của ông không chỉ toàn màu đen. Ở
đó vẫn ngời sáng những nhân cách đẹp, những tâm hồn thuần khiết, sáng trong tựa suối nguồn.
Vì vậy mà người đọc vẫn cảm thấy tin yêu cuộc đời, tin vào thiên lương, vào con người bản nguyên
thuần phác. Lẽ dĩ nhiên, với nhiều hình ảnh biểu tượng, những tầng tầng lớp nghĩa ẩn dấu đằng sau
mỗi câu chữ sẽ là một mạch nguồn vô tận cho nhiều độc giả có cách tiếp nhận “Muối của rừng” theo
nhiều hướng khác nhau. Tất cả tùy thuộc vào sự kiếm tim, lý giải của người đọc trước một “đề án
mở” về con người mà nhà văn đã cố tinh “để ngỏ”. Gấp sách lại, người viết cũng mong sao một lần
được gặp loài hoa trắng muốt, bé li ti như hạt muối của rừng – để biết rằng mình đã tim thấy cái
thiện – thứ mà suốt đời này con người vẫn luôn theo đuổi và tim kiếm.
Document Outline
- MUỐI CỦA RỪNG
- Muối của rừng: phá hủy, cứu rỗi, và trở về với thi
- Phá hủy thiên nhiên
- Cứu rỗi thiên nhiên
- Trở về với thiên nhiên
- Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác
- Cái thiện “ca khúc khải hoàn”
- Một vấn đề nhân sinh phổ quát
- Nghệ thuật kể chuyện độc đáo