I.
Tìm hiểu chung:
NỖI THƯƠNG NH
( Trích Truyện Kiều )
Tác giả: Nguyễn Du Đại thi hào n tộc, nhà thơ, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn,
người tầm ảnh hưởng lớn đến văn học trong ngoài ớc, đặc biệt tinh hoa
văn hoá người Việt. Với Truyện Kiều, đây tác phẩm đánh dấu sự phát triển lên
đến đỉnh cao trói lọi cả về hình thức nghệ thuật giá trị nội dung của tác phẩm,
tạo nên một mái đình cong” không th thiếu trong kiến trúc của tinh hoa n học
Việt.
II.
Đoạn trích:
1. Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích từ câu 1229 đến câu 1248, tả cảnh tình trớ trêu Kiều đã gặp phải nỗi
niềm thương xót thân phận của Thúy Kiều.
- Đoạn trích một đoạn trong phần 2: Gia biến u lạc của tác phẩm kinh điển-
Truyện Kiều.
Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc lại chẳng qua tiền”
Từ c gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em Thúy
Vân
,
Kiều đã trải qua 15 năm u lạc, trong 15 m ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa
nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất lẽ lần nàng bị Giám Sinh lừa bán đến
lầu xanh. là bước ngoặt b ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi
vào tay Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. lầu Ngưng Bích, Kiều lại
mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn bao
quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó những tháng ngày ê chề
nhục nhã của nàng trong vai trò nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà
của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền o sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của
Kiều trong thời gian ấy.
một điểm cần chú ý ngay từ đầu trong nguyên tác của Thanh m tài nhân thì trọng
tâm của đoạn y: một mặt bài ca kể về thân phận Thúy Kiều t khi gia biến đến khi bị
Sở Khanh lừa phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của v
nghề nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ
của cách xử nghệ thuật độc đáo ấy cách nhìn mới mẻ chủ nghĩa nhân đạo mới m
của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên “Những nỗi lòng tái”. Trong
sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” ch vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi
tái của Kiều nhưng quan trọng hơn đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu
sắc tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều ý thức thương thân, xót
thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.
2. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (4 câu đầu): Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều
- Phần 2 (8 câu tiếp): Niềm thương xót cho thân phận của Kiều.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh đẹp, thú vui, lòng người buồn bã.
3. Ý nghĩa nhan đề
nhan đề bài văn, thương” đã gợi cho ta sự thương t, đồng cảm đồng thời miêu tả
tâm trạng nỗi lòng của người con gái i sắc đang sống trong tình cảnh trớ trêu, khốn
cùng, bộc lộ nỗi niềm thương thân xót phận của Kiều đó cũng tấm lòng của nhà thơ
đối với nàng.
4. Nét đặc sắc về nội dung ngh thuật
a. Nội dung
- Khi Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa của Bà, Kiều đã quyết liệt chống lại âm
mưu biến thành nữ, nhưng cuối cùng nàng đã i vào bẫy của Tú buộc phải ra
tiếp khách. Qua đó, tấm lòng nhân đạo của ông dành cho kẻ tài hao bạc phận trong
hội thối nát, rối ren, sự lên ngôi của đồng tiền càng được thể hiện ràng sâu sắc.
b. Nghệ thuật
- Các hình thức đối xứng
- Sử dụng hình ảnh ước lệ, điệp t
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ nh
- Ngòi bút miêu tả tâm độc đáo, t
5. Phân tích đoạn trích
* Hoàn cảnh éo le, trớ trêu của Thúy Kiều thanh lâu ( 4 câu đầu )
rằng, bậc thánh kia cảm thương cho phận ng thơ của ông, thì đối với hiện thực
cuộc đời, những đen tối, thối nát, ông vẫn nâng ngòi bút tả thực lên để đối diện với mọi
biến động của đời người. Nhưng, len lỏi trong từng con chữ, tình thương ông dành cho
những số phận chịu nhiều oan trái, bất công vẫn còn mãi đọng lại trong tâm khảm của
người đọc sau này. Và, Nguyễn Du thổi vào nhân vật Kiều với những nỗi ng nặng trĩu
của người con gái kiên trinh, tài sắc ấy.
Chỉ với bốn câu thơ đầu đoạn, Nguyễn Du đã thâu m hết thấy cuộc sống hoang đàng,
thác loạn của xứ thanh lâu:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
- Bốn u đầu của đoạn trích cho ta thấy hình ảnh lối sống bồ, nhơ nhớp thân
phận bẽ bàng của người n chốn lầu xanh.
+ Ngh thuật miêu tả sống động bức tranh sinh hoạt chốn lầu xanh bằng t
pháp ước lệ tượng trưng.
+ “biết bao” người Kiều phải tiếp khách mua vui,chính nàng không thể nào
nhớ đươc hay đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi
triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn
nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Bà ăn n làm ra.
+ Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm” c điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh
chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy
Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó
chỉ nguỵ tạo cho những “buôn thịt bán người” thanh lâu kiếm chác. ờng như câu
thơ bắt gặp ý ởng với câu thơ của Tiết Đào:
Chi nghênh nam bắc điểu
Diệp tống lãng lai phong
(cành đón chim nam bắc
đưa gió lại qua)
Nỗi uất hận, căm phẫn của nàng Tiết Đào vẫn còn đọng trên trang giấy hồng. Cả nàng
nàng Kiều đều đã cảm nhận hết thảy bồ, dồn dập trong k viện. gió cành chim
còn ẩn hiện cho biết bao tài tử phong lưu nhưng đa tình-khách làng chơi trong chốn
làm ăn của m chủ chứa.
=> Điều này cho ta thấy hơn về nỗi bất hạnh tình cảnh trớ trêu của Kiều. Bút pháp
ước lệ đã không tránh số phận thực tế của Kiều vẫn giữ được chân dung cao đẹp
của ng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Tác giả đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một
bên nước mắt Thúy Kiều một bên những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy
bốn câu thơ đầu, mặc chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang b
cuốn đi trong một cơn lốc hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện
thực nghiệt ngã nhân vật phải trải qua, mở thân phận bẽ bàng của người nữ.
Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống y bằng một th ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước
lệ theo thành ngữ n gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau
của Kiều trở n tao nhã,dường như đây Nguyễn Du đã gợi m con chữ để giảm nhẹ đi
sự ô uê, bẩn thỉu đống bùn lầy Kiều bị đùn đẩy, phải nhúng mình vào để sống tiếp
trong cõi lầm than.
Hồi tưởng( khi tỉnh rượu) diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, thể hiện
đúng nỗi đau, nổi bật được phẩm giá sự chịu đựng giày đáng thương của nhân vật.
Đằng sau những câu thơ ấy tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả nh cho Thúy
Kiều.
* Niềm thương xót cho thân phận của Kiều ( 8 câu tiếp )
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
i lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới
một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình cũng hoàn cảnh Kiều
tỉnh táo nhất đối diện với bản thân. Thời gian không gian thật vắng lặng như gợi lên
nỗi niềm xót xa. Nhịp t sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang
nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột
ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng trơ trọi
chỉ một mình ng tự t xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của
mình. Giật mình không chỉ nh động bên ngoài của nhân vật khi một sự tác động
đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài ý thức nhân quyền sống của con người
trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc. Đối với hai câu
trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì . Đó cái giật mình từ cảm xúc bên trong
nếu không thì Kiều cũng giống như tất cả các nữ khác trong thanh lâu của
bà. Kiều giật mình nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác phẩm cách của mình
chốn lầu xanh, sự đơn lẻ loi của mình sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu
sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình không thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại
ba lần trong một u thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều, ý thức được
về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng những câu tiếp theo sau
những hồi ức dội về, hồi c tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao ớm chán ong chương bấy thân
Một gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một gái nho gia
bây giờ trở thành một nh hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều
cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: Khi sao / giờ sao” tạo nên
cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt.
Chính điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm o
nỗi xót xa, tái của Kiều. Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều
hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng màn che” thì lập tức thực tại phũ
phàng lại hiện lên nét hơn gấp bội, t “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm
trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói v hiện tại như cái thực
trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh như hoa giữa đường”
càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá kh thực tại, giữa nhân hoàn cảnh.
Cụm từ bướm chán ong chường” “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về ch dùng từ
của Nguyễn Du, nhấn mạnh ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy s vùi dập,
chà đạp Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu t đây đc Nguyễn Du sử dụng nhằm
làm hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn. Hai câu thơ
day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một gái vốn i sắc hơn người, khát khao
hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả: “Mặc người mưa Sở mây Tần Những mình
nào biết xuân là gì? Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác
hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai ng sẽ thấy chán chường muốn bỏ
tất cả Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người khách làng chơi với chính mình Kiều
như thể hiện tột cùng nỗi đơn của nàng. Từ ''xuân'' đây ý chỉ niềm vui được hưởng
hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm còn mùa
xuân, chỉ thấy trong đó sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và đơn của cuộc đời người nữ
mua vui. Từ ''mặc'' đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi th muốn tới đâu thì tới, dằn vặt
nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.
* Cảnh đẹp, thú vui, lòng người buồn ( 8 câu cuối )
Tám câu thơ tả cảnh ngụ tình tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du đã bộc lộ được tâm trạng
buồn khổ, đau đớn, xót xa, tủi nhục của Thúy Kiều trong cảnh sống ô nhục lầu Ngưng
Bích, trong những ngày buồn tủi, nhục nhã khi phải trở thành “món đồ chơi”, thứ mua
vui cho thiên hạ:
“Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ, câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui vui gượng kẻo
Ai tri âm đó mặn với ai?
- “Nửa rèm tuyết ngậm” : tuyết đọng ngang rèm
“Bốn bề trăng thâu”: trăng soi lồng lộng bốn bề
-> Cuộc sống chốn thanh lâu: phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa)
- Để diễn tả tâm trạng buồn khổ, tủi nhục, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng
bút pháp tả cảnh ng tình đặc sắc ”tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này” thực cảnh
cũng hóa thành tâm cảnh.
- Cảnh hiện lên dưới ngòi bút tài tình của người nghệ sĩ, gợi ra một nỗi buồn đau tái
lòng người. Nỗi buồn của con người mạnh mẽ, dạt dào, tràn đầy đến mức “tràn” ra c
không gian khiến cảnh vật xung quanh ng nhuốm màu u buồn, như tâm hồn của người
lúc này:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh vui đâu bao giờ”
- Cung cầm”: cung đàn ý nói đánh đàn. Với những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, ng Kiều
trong những ngày tháng khổ đau, đơn, độc đã cất lên những tiếng đàn bi ai, sầu
thảm “trong nguyệt” dưới bóng trăng ->Một hình ảnh đẹp, lãng mạn nhưng mang trong
mình tâm trạng đau buồn, tủi nhục của người con gái tài hoa mà bất hạnh.
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần.
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!”
Kết thúc đoạn thơ này một tình cảm đay nghiến số phận, oán trách vận mệnh, bề
ngoài có vẻ cam chịu, nhưng bên trong lên án mạnh mẽ sự bất công của tạo hoá. Tạo
sao ông trời lại y số phận của người con gái như thế, phải chăng “tài mệnh
tương đố” ? Đoạn thơ sự độc đáo trong ch sử dụng ngôn từ trong miêu tả.
= > Những cảnh vật trong thanh lâu đẹp đến mấy thì đối với Thúy Kiều đều sự giả
tạo, nàng không tìm được tri âm, tri kỉ vậy thờ ơ với tất c mọi thứ xung quanh,
không màng tất cả, một lòng mang một trái tim hiếu thảo, thủy chung, hướng v cha mẹ
người mình yêu.
- Qua ngh thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều chốn lầu
xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều t thương, tự đau, tự t xa cho thân phận
của mình.
- Điệp từ “vui, ai… câu hỏi tu từ: “Ai tri âm đó mặn với ai?” tiếng kêu đau
đớn đến tái, ng của con người tài hoa mà bạc mệnh.
- Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình tài tình, đại Thi hào Nguyễn Du đã khắc họa nét m
trạng xót xa, buồn đau, xót thương cho thân phận mình của Thúy Kiều thông qua việc
miêu tả bức tranh phong cảnh đẹp đầy đủ phong, hoa, tuyết nguyệt.
-> Bút pháp “tả cảnh ng tình” của Nguyễn Du đã đạt đến trình độ mẫu mực, lên đến
đỉnh cao, tinh tế, tài tình, thể hiện được hết những tài hoa trong nghệ thuật của ông.
=>Trong chốn lầu xanh nơi tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, chỉ những
cuộc vui thú, hưởng lạc, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện
khát vọng sống trong sạch của Kiều ta thật s đáng trân trọng.
6. Đánh g chung về nội dung nghệ thuật
* Nội dung
- Đoạn trích đã diễn tả tâm trạng đau đớn, xót xa, tủi nhục, đơn của Thúy Kiều khi
chốn lầu xanh. Quá khứ càng đẹp đẽ, cao quý bao nhiêu thì thực tại Kiều lại càng ê chề,
nhục nhã bấy nhiêu.
- Qua đó, ta thấy được Thúy Kiều một người phụ nữ tâm hồn trong sáng, cao
thượng, bất chấp việc phải sống trong hoàn cảnh ô nhục, bùn lầy.
* Ngh thuật
- Hình thức độc thoại nội tâm tinh tế, sâu sắc
- Khả năng miêu tả nội tâm nhân vật chân thực
- ng tạo các thành ngữ, điển tích, điển cố
- Bút pháp tương phản đối lập giữa quá khứ hiện tại
7. Giá trị nhân đạo
- Tái hiện cuộc sống, cảnh ng éo le, bi kịch bất hạnh của Kiều
- Khắc họa tâm trạng dằn vặt, đau khổ về thể xác lẫn thể xác của Thúy Kiều
- Thái độ đồng cảm, thương xót sẻ chia của Nguyễn Du với Kiều nói riêng người
phụ n hội Phong kiến nói chung.
III.
Đánh giá, mở rộng:
Giọng điệu và nghệ thuật cảm thương trong Truyện kiều:
- Giọng điệu nghệ thuật không chỉ yếu tố ng đầu của phong cách nhà văn,
phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, đó còn yếu tố vai có
vai t thống nhất mọi yếu t khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể.
Giọng điệu biểu hiện thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống.
- Nguyễn Du đã thăng hoa trong ngòi bút, tinh tuý trong tâm hồn để kết hợp cái
tình cái tài vào đoạn thơ nỗi thương mình”. Yếu tố xót thương ấy n
được thể hiện qua nhiều đoạn trích khác trong tác phẩm, như “trao duyên”,
người con i ấy lỡ lời hẹn ước mối tình đầu chỉ hoàn cảnh ngang trái,
chữ “hiếu” đè nặng ch “tình”, nàng đứt ruột buông bỏ mối tình đầu để trả trọn
chữ hiếu. Nguyễn Du đã dành tặng ng Kiều một tình thương, t xa trước sự
đắng cay của số mệnh “tài hoa bạc mệnh”.
.

Preview text:

NỖI THƯƠNG MÌNH
( Trích Truyện Kiều ) I.Tìm hiểu chung:
 Tác giả: Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, là nhà thơ, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn,
người có tầm ảnh hưởng lớn đến văn học trong và ngoài nước, đặc biệt là tinh hoa
văn hoá người Việt. Với Truyện Kiều, đây là tác phẩm đánh dấu sự phát triển lên
đến đỉnh cao trói lọi cả về hình thức nghệ thuật và giá trị nội dung của tác phẩm,
tạo nên một “ mái đình cong” không thể thiếu trong kiến trúc của tinh hoa văn học Việt. II. Đoạn trích:
1. Vị trí đoạn trích
- Đoạn trích từ câu 1229 đến câu 1248, tả cảnh tình trớ trêu mà Kiều đã gặp phải và nỗi
niềm thương xót thân phận của Thúy Kiều.
- Đoạn trích là một đoạn trong phần 2: Gia biến và lưu lạc của tác phẩm kinh điển- Truyện Kiều.
“ Rường cao rút ngược dây oan
Làm cho khốc lại chẳng qua vì tiền”
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy
Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa
nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến
lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi
vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại
mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời, đến mức phải rên lên: “Thân lươn bao
quản lấm đầu, tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề
nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà
của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Nguyễn Du đã ghi lại tâm trạng của Kiều trong thời gian ấy.
Có một điểm cần chú ý ngay từ đầu là trong nguyên tác của Thanh Tâm tài nhân thì trọng
tâm của đoạn này: một mặt là bài ca kể về thân phận Thúy Kiều từ khi gia biến đến khi bị
Sở Khanh lừa và phải đồng ý tiếp khách, mặt khác tập trung vào lời dạy của Tú Bà về
nghề kĩ nữ. Đến Nguyễn Du, cách xử lí nghệ thuật đã có sự thay đổi hoàn toàn. Gốc rễ
của cách xử lí nghệ thuật độc đáo ấy là cách nhìn mới mẻ và chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ của nhà thơ.
Từ câu thứ 5 của đoạn trích, trước đây được đặt tên là “Những nỗi lòng tê tái”. Trong
sách giáo khoa mới, “Nỗi thương mình” chỉ vẻn vẹn 20 câu nhưng đã nói lên tất cả nỗi tê
tái của Kiều nhưng quan trọng hơn là đoạn trích đã thể hiện một tiếng nói nhân văn sâu
sắc và tiến bộ: ý thức về thân phận, phẩm giá của nàng Kiều – ý thức thương thân, xót
thân lần đầu tiên xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam.
2. Bố cục (3 phần)
- Phần 1 (4 câu đầu): Tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều
- Phần 2 (8 câu tiếp): Niềm thương xót cho thân phận của Kiều.
- Phần 3 (còn lại): Cảnh đẹp, thú vui, lòng người buồn bã.
3. Ý nghĩa nhan đề
Ở nhan đề bài văn, “ thương” đã gợi cho ta sự thương xót, đồng cảm đồng thời miêu tả
tâm trạng và nỗi lòng của người con gái tài sắc đang sống trong tình cảnh trớ trêu, khốn
cùng, bộc lộ nỗi niềm thương thân xót phận của Kiều và đó cũng là tấm lòng của nhà thơ đối với nàng.
4. Nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật a. Nội dung
- Khi Mã Giám Sinh đưa Kiều đến nhà chứa của Tú Bà, Kiều đã quyết liệt chống lại âm
mưu biến thành kĩ nữ, nhưng cuối cùng nàng đã rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải ra
tiếp khách. Qua đó, tấm lòng nhân đạo của ông dành cho kẻ tài hao mà bạc phận trong xã
hội thối nát, rối ren, sự lên ngôi của đồng tiền càng được thể hiện rõ ràng và sâu sắc. b. Nghệ thuật
- Các hình thức đối xứng
- Sử dụng hình ảnh ước lệ, điệp từ
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình
- Ngòi bút miêu tả tâm lí độc đáo, rõ nét
5. Phân tích đoạn trích
* Hoàn cảnh éo le, trớ trêu của Thúy Kiều ở thanh lâu ( 4 câu đầu )
Dù rằng, bậc thánh kia có cảm thương cho phận nàng thơ của ông, thì đối với hiện thực
cuộc đời, những đen tối, thối nát, ông vẫn nâng ngòi bút tả thực lên để đối diện với mọi
biến động của đời người. Nhưng, len lỏi trong từng con chữ, tình thương ông dành cho
những số phận chịu nhiều oan trái, bất công vẫn còn mãi đọng lại trong tâm khảm của
người đọc sau này. Và, Nguyễn Du thổi vào nhân vật Kiều với những nỗi lòng nặng trĩu
của người con gái kiên trinh, tài sắc ấy.
Chỉ với bốn câu thơ đầu đoạn, Nguyễn Du đã thâu tóm hết thấy cuộc sống hoang đàng,
thác loạn của xứ thanh lâu:
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
- Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân
phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh.
+ Nghệ thuật miêu tả sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút
pháp ước lệ tượng trưng.
+ “biết bao” người mà Kiều phải tiếp khách mua vui,chính nàng không thể nào
nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi
triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn
nhịp của chốn lầu xanh , nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.
+ Bằng những hình ảnh ẩn dụ : bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười
suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” –
chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy
Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó
chỉ nguỵ tạo cho những lũ “buôn thịt bán người” ở thanh lâu kiếm chác. Dường như câu
thơ bắt gặp ý tưởng với câu thơ của Tiết Đào:
Chi nghênh nam bắc điểu
Diệp tống lãng lai phong
(cành đón chim nam bắc
Lá đưa gió lại qua)
Nỗi uất hận, căm phẫn của nàng Tiết Đào vẫn còn đọng là trên trang giấy hồng. Cả nàng
và nàng Kiều đều đã cảm nhận hết thảy xô bồ, dồn dập trong kỹ viện. “ lá gió cành chim”
còn là ẩn hiện cho biết bao tài tử phong lưu nhưng đa tình-khách làng chơi trong chốn
làm ăn của mụ chủ chứa.
=> Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Kiều. Bút pháp
ước lệ đã không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp
của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Tác giả đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một
bên là nước mắt Thúy Kiều – một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở
bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị
cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện
thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ.
Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước
lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau
của Kiều trở nên tao nhã,dường như ở đây Nguyễn Du đã gợi mở con chữ để giảm nhẹ đi
sự ô uê, bẩn thỉu đống bùn lầy mà Kiều bị đùn đẩy, phải nhúng mình vào để sống tiếp trong cõi lầm than.
Hồi tưởng( khi tỉnh rượu) diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, thể hiện
đúng nỗi đau, nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật.
Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
* Niềm thương xót cho thân phận của Kiều ( 8 câu tiếp )
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới
có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều
tỉnh táo nhất đối diện với bản thân. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên
nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang
nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột
ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi
chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của
mình. Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động
đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài ý thức cá nhân và quyền sống của con người
trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc. Đối với hai câu
trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì . Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong
mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú
bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở
chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu
sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà không thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại
ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều, ý thức được
về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là những câu tiếp theo sau là
những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia
bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều
cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao / giờ sao” tạo nên
cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt.
Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào
nỗi xót xa, tê tái của Kiều. Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều
hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ
phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm
trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực
trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường”
càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh.
Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ
của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập,
chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây đc Nguyễn Du sử dụng nhằm
làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phủ phàng, tàn nhẫn. Hai câu thơ
day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao
hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả: “Mặc người mưa Sở mây Tần Những mình
nào biết có xuân là gì?” Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác
hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê
tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi với chính mình – Kiều
như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ' xuân' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng
hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa
xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ
mua vui. Từ ' mặc' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt
nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.
* Cảnh đẹp, thú vui, lòng người buồn bã ( 8 câu cuối )
Tám câu thơ tả cảnh ngụ tình tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du đã bộc lộ được tâm trạng
buồn khổ, đau đớn, xót xa, tủi nhục của Thúy Kiều trong cảnh sống ô nhục ở lầu Ngưng
Bích, trong những ngày buồn tủi, nhục nhã khi phải trở thành “món đồ chơi”, là thứ mua vui cho thiên hạ:
“Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ, câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
- “Nửa rèm tuyết ngậm” : tuyết đọng ngang rèm
“Bốn bề trăng thâu”: trăng soi lồng lộng bốn bề
-> Cuộc sống chốn thanh lâu: Có phong, hoa, tuyết, nguyệt (cảnh đẹp bốn mùa)
- Để diễn tả tâm trạng buồn khổ, tủi nhục, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng
bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc ”tình trong cảnh ấy cảnh trong tình này” thực cảnh cũng hóa thành tâm cảnh.
- Cảnh hiện lên dưới ngòi bút tài tình của người nghệ sĩ, gợi ra một nỗi buồn đau tê tái
lòng người. Nỗi buồn của con người mạnh mẽ, dạt dào, tràn đầy đến mức “tràn” ra cả
không gian khiến cảnh vật xung quanh cũng nhuốm màu u buồn, như tâm hồn của người lúc này:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
- “Cung cầm”: cung đàn ý nói đánh đàn. Với những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, nàng Kiều
trong những ngày tháng khổ đau, cô đơn, cô độc đã cất lên những tiếng đàn bi ai, sầu
thảm “trong nguyệt” dưới bóng trăng ->Một hình ảnh đẹp, lãng mạn nhưng mang trong
mình tâm trạng đau buồn, tủi nhục của người con gái tài hoa mà bất hạnh.
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần.
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!”
Kết thúc đoạn thơ này là là một tình cảm đay nghiến số phận, oán trách vận mệnh, bề
ngoài có vẻ cam chịu, nhưng bên trong là lên án mạnh mẽ sự bất công của tạo hoá. Tạo
sao ông trời lại dày vò số phận của người con gái như thế, phải chăng là vì “tài mệnh
tương đố” ? Đoạn thơ có sự độc đáo trong cách sử dụng ngôn từ trong miêu tả.
= > Những cảnh vật trong thanh lâu dù đẹp đến mấy thì đối với Thúy Kiều đều là sự giả
tạo, nàng không tìm được tri âm, tri kỉ vì vậy mà thờ ơ với tất cả mọi thứ xung quanh,
không màng tất cả, một lòng mang một trái tim hiếu thảo, thủy chung, hướng về cha mẹ và người mình yêu.
- Qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều ở chốn lầu
xanh: sống nơi lầu xanh dập dìu, Thúy Kiều tự thương, tự đau, tự xót xa cho thân phận của mình.
- Điệp từ “vui, ai… “ và câu hỏi tu từ: “Ai tri âm đó mặn mà với ai?” là tiếng kêu đau
đớn đến tê tái, xé lòng của con người tài hoa mà bạc mệnh.
- Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình tài tình, đại Thi hào Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm
trạng xót xa, buồn đau, xót thương cho thân phận mình của Thúy Kiều thông qua việc
miêu tả bức tranh phong cảnh đẹp đầy đủ phong, hoa, tuyết và nguyệt.
-> Bút pháp “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du đã đạt đến trình độ mẫu mực, lên đến
đỉnh cao, tinh tế, tài tình, thể hiện được hết những tài hoa trong nghệ thuật của ông.
=>Trong chốn lầu xanh nơi mà tất cả đều phù phiếm, đồng tiền lên ngôi, chỉ có những
cuộc vui thú, hưởng lạc, Kiều vẫn cố gắng tách mình ra, tìm một tâm hồn tri âm, thể hiện
khát vọng sống trong sạch của Kiều mà ta thật sự đáng trân trọng.
6. Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật * Nội dung
- Đoạn trích đã diễn tả tâm trạng đau đớn, xót xa, tủi nhục, cô đơn của Thúy Kiều khi ở
chốn lầu xanh. Quá khứ càng đẹp đẽ, cao quý bao nhiêu thì thực tại Kiều lại càng ê chề, nhục nhã bấy nhiêu.
- Qua đó, ta thấy được Thúy Kiều là một người phụ nữ có tâm hồn trong sáng, cao
thượng, bất chấp việc phải sống trong hoàn cảnh ô nhục, bùn lầy. * Nghệ thuật
- Hình thức độc thoại nội tâm tinh tế, sâu sắc
- Khả năng miêu tả nội tâm nhân vật chân thực
- Sáng tạo các thành ngữ, điển tích, điển cố
- Bút pháp tương phản đối lập giữa quá khứ và hiện tại
7. Giá trị nhân đạo
- Tái hiện cuộc sống, cảnh ngộ éo le, bi kịch và bất hạnh của Kiều
- Khắc họa tâm trạng dằn vặt, đau khổ về thể xác lẫn thể xác của Thúy Kiều
- Thái độ đồng cảm, thương xót và sẻ chia của Nguyễn Du với Kiều nói riêng và người
phụ nữ ở Xã hội Phong kiến nói chung.
III. Đánh giá, mở rộng:
Giọng điệu và nghệ thuật cảm thương trong Truyện kiều:
- Giọng điệu nghệ thuật không chỉ là yếu tố hàng đầu của phong cách nhà văn, là
phương tiện biểu hiện quan trọng của tác phẩm văn học, đó còn là yếu tố vai có
vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình thức tác phẩm vào một chỉnh thể.
Giọng điệu biểu hiện thái độ, cảm xúc của chủ thể đối với đời sống.
- Nguyễn Du đã thăng hoa trong ngòi bút, tinh tuý trong tâm hồn để kết hợp cái
tình và cái tài vào đoạn thơ “ nỗi thương mình”. Yếu tố xót thương ấy còn
được thể hiện qua nhiều đoạn trích khác trong tác phẩm, ví như “trao duyên”,
người con gái ấy lỡ lời hẹn ước mối tình đầu chỉ vì hoàn cảnh ngang trái, vì
chữ “hiếu” đè nặng chữ “tình”, nàng đứt ruột buông bỏ mối tình đầu để trả trọn
chữ hiếu. Nguyễn Du đã dành tặng nàng Kiều một tình thương, xót xa trước sự
đắng cay của số mệnh “tài hoa bạc mệnh”. .
Document Outline

  • I.Tìm hiểu chung:
  • II.Đoạn trích:
    • 1.Vị trí đoạn trích
    • 2.Bố cục (3 phần)
    • 3.Ý nghĩa nhan đề
    • 4.Nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật
    • * Hoàn cảnh éo le, trớ trêu của Thúy Kiều ở thanh
    • * Niềm thương xót cho thân phận của Kiều ( 8 câu t
    • * Cảnh đẹp, thú vui, lòng người buồn bã ( 8 câu cu
    • *Nội dung
    • *Nghệ thuật
      • 7.Giá trị nhân đạo
  • III.Đánh giá, mở rộng: