NGƯỜI ĐÀN HÀNG CHÀI TÒA ÁN HUYỆN
Thạch Lam trong tiểu luận “Theo giòng/ dòng” viết: “Đối với tôi, văn
chương không phải cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại
văn chương một thứ k giới thanh cao và đắc lực chúng ta có, để vừa tố cáo
thay đổi cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch
phong phú hơn”. Đây chính giá trị của văn chương nghệ thuật đối với con
người cuộc đời. vậy, thời gian thể thay đổi nhưng những nghệ
thuật đích thực thì vẫn còn mãi. vây, khi đến với truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người đọc sẽ được dịp chiêm ngưỡng một tác
phẩm văn chương chân chính hướng đến con người, đặc biệt thông qua hình tượng
người đàn hàng chài tòa án huyện trong đoạn trích: “Trong phút chốc,... chúng
được ăn no”, độc giả sẽ thấy được những vẻ đẹp sáng ngời của người phụ nữ
Việt Nam.
Nguyễn Minh Châu một trong những tác giả nổi tiếng của nền văn học
Việt Nam. Ông được coi người “mở đường tài năng tinh anh nhất”. Trước
năm 1975, ông được mệnh danh cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài
người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời
thế sự với vấn đề đạo đức, và triết línhân sinh. Ông khám phá con người trong
cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt
ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” in trong tập truyện cùng tên năm 1987. Truyện ngắn đã
tái hiện lại cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời thường, đặc biệt thông qua
hình ảnh người đàn hàng chài tòa án huyện, tác giả đã nhận ra đằng sau v
ngoài lam lũ, nghèo khổ vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, hiện thân của những điều
đẹp đẽ nhất
Người k chuyện trong tác phẩm Phùng một nhiếp ảnh gia cũng người
lính đã từng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Theo yêu cầu của trưởng phòng,
Phùng đến một vùng ven biển miền Trung nơi anh đã từng chinh chiến để chụp
một tấm ảnh thuyền biển, bổ sung cho cuốn lịch năm mới. Sau nhiều ngày “phục
kích”, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa trên
biến sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào gần bờ, anh kinh ngạc chứng
kiến cảnh đàn ông phu đánh v một cách man người vợ thì lại không
chống lại cũng không tìm ch chạy trốn. Đứa con muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại
cha mình những ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn. Lần này, Phùng đã ra tay
can thiệp. Anh nán lại mấy ngày theo lời mời của chánh án Đẩu đồng đội của
anh, tình cờ nghe được câu chuyện cuộc đời của người đàn hàng chài tòa án
huyện. Anh càng ngạc nhiên hơn khi người đàn ấy đã từ chối sự giúp đỡ của
anh Đẩu, một mực xin không phải li dị lão chồng phu.
Đoạn trích đề bài thuộc cảnh tòa án huyện, xoay quanh cuộc đối thoại giữa
người đàn hàng chài, nghệ Phùng chánh án Đẩu. Trước đó, người đàn
hiện lên trong cảnh ngoài bãi biển, là một người phụ nữ danh, chỉ được tác giả
gọi bằng một cách phiếm định “mụ”, “chị ta” hay “người đàn hàng chài”. Điều
đó giúp ta hiểu rằng chị cũng như hàng trăm người đàn bà khác vùng biển nhỏ
này một người đàn bình thường không ai biết tên tuổi, quê hương hàng
chục cây số trời nước không lấy nổi một bến cố kết nào. Chị hiện lên với một
ngoại hình xấu , “trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, thô kệch”, “gương mặt
với những nốt rỗ chằng chịt” t sự mệt mỏi, kham khổ của người lao động vùng
biển. Sống những tháng ngày lênh đênh trên mặt nước, người đàn bị chồng hành
hạ, phu ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. sống trong cảnh
bạo lực gia đình nhưng chị vẫn không chạy trốn cũng không tìm cách chống trả
tự nguyện.
Xuất hiện trong tâm thế người bảo vệ công lí, từng xả thân bênh vực, bảo vệ
người phụ nữ khỏi đòn roi của chồng. Phùng cũng như Đẩu tưởng mình lợi thế
giao tiếp, họ dùng điều y đ khuyên người đàn bỏ chồng, chấm dứt những
chuỗi ngày đau đớn, nhục nhã. Nhưng họ nhận lại sự phản ứng đầy bất ngờ của
người đàn hàng chài: “Con lạy quý tòa... Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Để bảo vệ gia đình, chị bỗng trở nên “to gan”
khi bước lên vị thế cao hơn đ giành lấy cái quyền được phân trần tại sao mình
không thể làm theo lời của 2 con người tốt bụng ấy. Một lần nữa Phùng thật s
hoang mang khi nhận ra vốn sống, vốn kinh nghiệm của mình trở nên ít ỏi so với
hiện thực anh đang chứng kiến, khiến anh bỗng chốc trở thành một cậu thiếu
niên non nớt. Chính người phụ nữ đáng thương ấy đã dạy cho Phùng bài học quý
giá về sự thận trọng trong cách nhìn nhận đánh giá một con người.
Trước hết, Phùng nhận ra chị người phụ nữ biết cảm thông, bao dung với
chồng một trong những do khiến chị thể chịu đựng những đòn roi “3 ngày 1
trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng” từ con người phu ấy. Chị luôn t nhủ rằng mình
người may mắn được chồng bởi trước mặt quý tòa, chị đã tâm sự: “Từ nhỏ
tuổi tôi đã 1 đứa con i xấu xí, lại rỗ mặt, sau 1 bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ
nhà tôi còn k giả, ... Cũng xấu, trong phố không ai lấy”. Giống như thị Nở
mang lòng yêu 1 người chịu ơn Chí Phèo (Chí Phèo Nam Cao), trong lời kể của
mình, người đàn hàng chài muốn nói đến cái ơn để bào chữa cho những hành
động ngược đãi của chồng. Hắn đã chấp nhận lấy chị t bổn phận của chị phi
phục tùng hắn. Khi nói về lão chồng phu, chị không một lời nào trách móc hay
than vãn, trái lại chị dành những lời lẽ trìu mến đầy cảm thông khiến Phùng
Đẩu ngỡ ngàng “: o chồng tôi 1 anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm,
không bao giờ đánh đập tôi”. Cách chị nhấn mạnh vào ưu điểm vốn của chồng
cho thấy chị đã từng những phút giây hạnh phúc, rất hài lòng về người chồng
của mình. Đương nhiên, đó vẫn 1 quá khứ đẹp đẽ, bình yên nguyên vẹn trong
tâm trí chị ngay cả khi bị ngược đãi tàn bạo, chị vẫn không hề phủ nhận điều đó.
Dường như những suy nghĩ ấy trở thành liều thuốc giảm đau cho những trận đòn
roi chị phải chịu, góp phần xóa hết những vết thương trên thịt da tinh thần
của chị khi bị chồng bạo hành. Qua đó, độc giả đã phần nào hiểu ra nhân cách tốt
đẹp, đáng trân quý của chị đằng sau cái vẻ bề ngoài nhếch nhác, khắc khổ kia là
một người phụ nữ rất bao dung nhân hậu!
Tôi đã từng nghe ai đó nói: “Bạn không thực s biết một gái xinh đẹp như
thế nào cho đến khi gặp ấy, đó vẻ đẹp trong nhân cách.” Thật vây, bên cạnh
tấm lòng nhân hậu, tâm hồn vị tha, bao dung thì chị còn người phụ nữ sâu sắc,
thấu hiểu sự đời. Cụ thể rằng suốt cuộc đối thoại đầy căng thẳng với những người
lắm chữ nhiều nghĩa, người phụ nữ ấy vẫn kiên trì bảo vệ người chồng bằng những
l chắt ra từ chính cuộc đời khổ cực của dân làng chài “Giá tôi đ ít đi, hoặc
chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn...”. Câu nói đã khiến bao độc giả
không khỏi xót xa. Chị muốn nói rằng sự thay đổi của người chồng do chị, do
cuộc sống túng quẫn quá. Như vậy, chồng chị cũng nạn nhân của cái đói, cái
nghèo, cái lạc hậu chị là một phần nguyên nhân, thế nên chị không thể trách
lão ta bởi cũng như chị những đứa con, chồng ch cũng phải “ăn xương rồng
luộc chấm muối” để qua cơn đói lòng. Mặc cho người đàn phân bua, Phùng vẫn
tiếp tục nỗ lực tìm lấy 1 lời giải thích thỏa đáng hơn cho tính phu của đàn
ông hàng chài bằng một câu hỏi như lạc đề: “Lão ta trước hồi bảy nhăm đi lính
ngụy không?”, thì người đàn ấy lại hội thể hiện sự cảm thông hơn với
chồng mình: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi trốn lính”. ràng
chị đang chứng minh cho Phùng Đẩu thấy bản chất tốt đẹp của chồng, anh ta
cũng biết phân biệt lẽ đúng sai, cũng trách nhiệm với quê hương, cũng căm
thù kẻ xâm lược như bất kì người dân yêu nước nào thời đó nhưng gánh nặng
mưu sinh, anh chồng chấp nhận “trốn lính”. Mỗi câu nói của chị đều bênh vực
người chồng kèm luôn lời nhận lỗi về mình “cái lỗi chính là đám đàn
thuyền đẻ nhiều quá, thuyền lại chật”. Đây lần thứ hai chị nói đến điều này,
nhưng với giọng thành khẩn hơn, t xa hơn. Dường như chưa bao gi người phụ
nữ hàng chài này mảy may suy nghĩ rằng sẽ gạt bỏ người đàn ông khổ sở ấy ra
khỏi cuộc đời mình đối với chị, đàn ông độc dữ ấy đáng thương hơn đáng
trách.
Nếu nỗi sợ hãi về một gia đình đổ vỡ làm cho chị bỗng nhiên sắc sảo, mạnh b ạo
hơn trước quan tòa thì trong tình huống buộc phải chia sẻ thì chính cũng đã giữ
chị ngồi lại bình tĩnh, kể tường tận về lão chồng mình cho quý tòa nghe. Chị tha
thiết mong nhận được sự cảm thông chia sẻ t phía Phùng chánh án Đẩu để
họ từ bỏ ý định khuyên chị bỏ chồng hay lên án gay gắt người đàn ông đáng
thương ấy “là bởi các chú không phải đàn bà, chưa bao giờ các chú biết
như thế nào nỗi vát vả của người đàn trên chiếc thuyền không đàn ông” ...
Hóa ra “đám đàn hàng chài thuyền cần phải có người đàn ông để chèo chống
khi phong ba, đ cùng làm ăn nuôi nấng đặng 1 sấp con n nào cũng trên dưới
chục đứa. Với người đàn hàng chài, ông trời sinh ra người đàn là đ đ con
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Những câu nói
của người đàn như xoáy vào tâm can người đọc. Trên mảnh đất đầy tinh thần
cách mạng, tưởng rằng lịch sử đã sang trang nhưng vẫn những con người không
sang trang cùng lịch sử. Họ những số phận mãi ngoài xa giống như người đàn
hàng chài nhận về mình bao cực khổ, chỉ thể “sống cho con chứ không thể sống
cho mình”. Suy cho cùng, người đàn ấy không bỏ chồng bởi chị rất thương
con. Cũng những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ “vui nhất lúc
ngồi nhìn đàn con tôi chúng được ăn no”. Ẩn sau vẻ b ngoài lam của người
đàn vùng biển là một người mẹ thương con, một người v thấu hiểu bao
dung vị tha với chồng, một người phụ n biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi,
đời thường để bám víu lấy cuộc sống cực. ng chỉ cuộc sống nghèo khổ
người đàn ông kia trở nên độc dữ “bất kể lúc nào thấy khổ quá lão xách tôi ra
đánh” nhưng vẫn nhìn chồng với thái độ cảm thông, chia sẻ. Không những vậy,
“sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão... đưa tôi lên bờ đánh”. Chi
tiết này cho ta thấy người đàn thất học không tăm tối, thái độ nhẫn nhục của
chị chứng tỏ chị tự nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để vun vén hạnh phúc
cho gia đình. Chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ nó, thậm
chí trước đó chị còn gửi thằng bé Phác lên bờ sống với ông ngoại. Lòng người mẹ
thương con, lo lắng cho tương lai của con, sợ những đứa con sẽ hiểu lầm về cha nó.
thế chị lựa chọn cách chung sống với bạo lực như một giải pháp duy nhất để
gìn giữ gia đình, bảo vệ các con tránh khỏi sự tha hóa trong nhân cách. Ta thấy
được đó đức hi sinh vẻ đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống. Giống như cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, đã giấu đi những nỗi
buồn lo, xót tủi để vun vén cho hạnh phúc của các con. Quả thật đời
người mẹ sống vì con, ngay cả ước cũng dành cho con. lẽ đó, người ta vẫn
hay ca ngợi: “Trong thế giới nhiều quan nhưng đẹp nhất vẫn trái tim người
mẹ.
Xuyên suốt cuộc đối thoại, người đàn đã chủ động giãi bày thân phận
cuộc sống của mình, chính điều này đã làm cho Phùng Đẩu vỡ lẽ. Người đàn
mang bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam: giàu đức hi sinh, lòng vị tha,
yêu thương con, vun vén chăm chút cho hạnh phúc gia đình. Đó cũng là vẻ đẹp
thường thấy các nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Giống như
nhân vật Liên trong “Bến quê”, cũng suốt một đời tần tảo, hi sinh, chịu đựng. Đó
những viên ngọc mà tác giả đã đi tìm đã tìm thấy trong lấm láp bùn đất của
cuộc đời.
Nếu coi một tác phẩm văn học một cây đại cổ thụ lâu đời thì nội dung phần
rễ, còn nghệ thuật những tán xanh tốt. Qua hình ảnh người đàn hàng chài
tòa án huyện tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chung đã thành công bởi
một phần không nh về giá trị nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành
công nguyễn tắc đối lập trong việc xây dựng hình tượng về ngoại hình nội tâm,
giữa số phận bất hạnh lòng nhân hậu, bao dung, yêu thương con n bất thứ
gì. Bên cạnh đó, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sinh động cùng với diễn biến
tâm nhân vật độc đáo t vị, hấp dẫn đã đem đến cho ta một cái nhìn sâu sắc
của cuộc sống về con người. Cuộc sống đầy khắc nghiệt, đi cùng với những
phận người vất vả trong cuộc mưu sinh trong hành trình m kiếm hạnh phúc.
Thật không sai khi nói Nguyễn Minh Châu viết văn để thể hiện một thiên chức
cao đẹp: “Nhà văn tồn tại trên đời để nâng giấc cho những kẻ cùng đường
tuyệt lộ, để bênh vực cho những ai không người ai bênh vực”
Truyện ngắn th coi một lát cắt của đời sống mang đến cho con người
những bài học nhân sinh sâu sắc. Ai đã đặt chân đến vùng biển chắc chắn sẽ không
quên vẻ đẹp thiên nhiên con người nơi đây. Với những trang văn của Nguyễn
Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, chúng ta như được chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của vùng biển thơ mộng, trữ tình. Trên nền bức tranh ấy mở ra bi kịch của
người đàn hàng chài, nhưng thế nào người đàn ấy vẫn ngời sáng tình yêu
thương con cái, giàu đức hi sinh cho gia đình. Chị điển hình cho vẻ đẹp phẩm
chất của người phụ nữ Việt Nam. Với giá trị tuyệt vời ấy, truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” sẽ mãi sống cùng thời gian dòng lịch sử văn học nước nhà, đ
khi nhắc tới ông, ta sẽ nghĩ ngay đến một người nghệ chân chính, viết con
người: “Qua giọng hát, anh nhận ra người hát - Qua nét khắc, anh nhận ra người
thợ bạc”.

Preview text:

NGƯỜI ĐÀN BÀ HÀNG CHÀI Ở TÒA ÁN HUYỆN
Thạch Lam trong tiểu luận “Theo giòng/ dòng” có viết: “Đối với tôi, văn
chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại
văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo
và thay đổi cái thế giới giả dối, tàn ác, vừa làm cho lòng người đọc thêm trong sạch
và phong phú hơn”. Đây chính là giá trị của văn chương nghệ thuật đối với con
người và cuộc đời. Vì vậy, dù thời gian có thể thay đổi nhưng những gì là nghệ
thuật đích thực thì vẫn còn mãi. Vì vây, khi đến với truyện ngắn “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, người đọc sẽ được dịp chiêm ngưỡng một tác
phẩm văn chương chân chính hướng đến con người, đặc biệt thông qua hình tượng
người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện trong đoạn trích: “Trong phút chốc,. . chúng
nó được ăn no”, độc giả sẽ thấy được những vẻ đẹp sáng ngời của người phụ nữ Việt Nam.
Nguyễn Minh Châu là một trong những tác giả nổi tiếng của nền văn học
Việt Nam. Ông được coi là người “mở đường tài năng và tinh anh nhất”. Trước
năm 1975, ông được mệnh danh là cây bút sử thi lãng mạn, viết nhiều về đề tài
người lính. Tuy nhiên, sau năm 1980, sáng tác của ông đi sâu vào cảm hứng đời tư
thế sự với vấn đề đạo đức, và triết línhân sinh. Ông khám phá con người trong
cuộc đời mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc, khám phá hạt
ngọc ẩn dấu, khuất lấp trong mỗi con người, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” – in trong tập truyện cùng tên năm 1987. Truyện ngắn đã
tái hiện lại cuộc sống thời bình với muôn mặt của đời thường, đặc biệt là thông qua
hình ảnh người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, tác giả đã nhận ra đằng sau vẻ
ngoài lam lũ, nghèo khổ là vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, là hiện thân của những điều đẹp đẽ nhất
Người kể chuyện trong tác phẩm là Phùng – một nhiếp ảnh gia cũng là người
lính đã từng tham gia chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Theo yêu cầu của trưởng phòng,
Phùng đến một vùng ven biển miền Trung – nơi anh đã từng chinh chiến để chụp
một tấm ảnh thuyền biển, bổ sung cho cuốn lịch năm mới. Sau nhiều ngày “phục
kích”, Phùng đã chụp được một bức ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa trên
biến sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào gần bờ, anh kinh ngạc chứng
kiến cảnh gã đàn ông vũ phu đánh vợ một cách dã man mà người vợ thì lại không
chống lại cũng không tìm cách chạy trốn. Đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh lại
cha mình và những ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn. Lần này, Phùng đã ra tay
can thiệp. Anh nán lại mấy ngày theo lời mời của chánh án Đẩu – đồng đội cũ của
anh, tình cờ nghe được câu chuyện cuộc đời của người đàn bà hàng chài ở tòa án
huyện. Anh càng ngạc nhiên hơn khi người đàn bà ấy đã từ chối sự giúp đỡ của
anh và Đẩu, một mực xin không phải li dị lão chồng vũ phu.
Đoạn trích ở đề bài thuộc cảnh ở tòa án huyện, xoay quanh cuộc đối thoại giữa
người đàn bà hàng chài, nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu. Trước đó, người đàn bà
hiện lên trong cảnh ở ngoài bãi biển, là một người phụ nữ vô danh, chỉ được tác giả
gọi bằng một cách phiếm định “mụ”, “chị ta” hay “người đàn bà hàng chài”. Điều
đó giúp ta hiểu rằng chị cũng như hàng trăm người đàn bà khác ở vùng biển nhỏ bé
này – một người đàn bà bình thường không ai biết tên tuổi, quê hương là hàng
chục cây số trời nước không có lấy nổi một bến cố kết nào. Chị hiện lên với một
ngoại hình xấu xí, “trạc ngoài 40 tuổi, thân hình cao lớn, thô kệch”, “gương mặt
với những nốt rỗ chằng chịt” tỏ rõ sự mệt mỏi, kham khổ của người lao động vùng
biển. Sống những tháng ngày lênh đênh trên mặt nước, người đàn bà bị chồng hành
hạ, vũ phu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Dù sống trong cảnh
bạo lực gia đình nhưng chị vẫn không chạy trốn cũng không tìm cách chống trả mà tự nguyện.
Xuất hiện trong tâm thế là người bảo vệ công lí, từng xả thân bênh vực, bảo vệ
người phụ nữ khỏi đòn roi của chồng. Phùng cũng như Đẩu tưởng mình có lợi thế
giao tiếp, họ dùng điều ấy để khuyên người đàn bà bỏ chồng, chấm dứt những
chuỗi ngày đau đớn, nhục nhã. Nhưng họ nhận lại sự phản ứng đầy bất ngờ của
người đàn bà hàng chài: “Con lạy quý tòa. . Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù
con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Để bảo vệ gia đình, chị bỗng trở nên “to gan”
khi bước lên vị thế cao hơn để giành lấy cái quyền được phân trần tại sao mình
không thể làm theo lời của 2 con người tốt bụng ấy. Một lần nữa Phùng thật sự
hoang mang khi nhận ra vốn sống, vốn kinh nghiệm của mình trở nên ít ỏi so với
hiện thực mà anh đang chứng kiến, khiến anh bỗng chốc trở thành một cậu thiếu
niên non nớt. Chính người phụ nữ đáng thương ấy đã dạy cho Phùng bài học quý
giá về sự thận trọng trong cách nhìn nhận và đánh giá một con người.
Trước hết, Phùng nhận ra chị là người phụ nữ biết cảm thông, bao dung với
chồng – một trong những lí do khiến chị có thể chịu đựng những đòn roi “3 ngày 1
trận nhẹ, 5 ngày một trận nặng” từ con người vũ phu ấy. Chị luôn tự nhủ rằng mình
là người may mắn vì có được chồng bởi trước mặt quý tòa, chị đã tâm sự: “Từ nhỏ
tuổi tôi đã là 1 đứa con gái xấu xí, lại rỗ mặt, sau 1 bận lên đậu mùa. Hồi bấy giờ
nhà tôi còn khá giả, . . Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Giống như thị Nở
mang lòng yêu 1 người chịu ơn Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), trong lời kể của
mình, người đàn bà hàng chài muốn nói đến cái ơn để bào chữa cho những hành
động ngược đãi của chồng. Hắn đã chấp nhận lấy chị thì bổn phận của chị phải
phục tùng hắn. Khi nói về lão chồng vũ phu, chị không một lời nào trách móc hay
than vãn, trái lại chị dành những lời lẽ trìu mến và đầy cảm thông khiến Phùng và
Đẩu ngỡ ngàng “: Lão chồng tôi là 1 anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm,
không bao giờ đánh đập tôi”. Cách chị nhấn mạnh vào ưu điểm vốn có của chồng
cho thấy chị đã từng có những phút giây hạnh phúc, rất hài lòng về người chồng
của mình. Đương nhiên, đó vẫn là 1 quá khứ đẹp đẽ, bình yên và nguyên vẹn trong
tâm trí chị ngay cả khi bị ngược đãi tàn bạo, chị vẫn không hề phủ nhận điều đó.
Dường như những suy nghĩ ấy trở thành liều thuốc giảm đau cho những trận đòn
roi chị phải chịu, nó góp phần xí xóa hết những vết thương trên thịt da và tinh thần
của chị khi bị chồng bạo hành. Qua đó, độc giả đã phần nào hiểu ra nhân cách tốt
đẹp, đáng trân quý của chị đằng sau cái vẻ bề ngoài nhếch nhác, khắc khổ kia là
một người phụ nữ rất bao dung và nhân hậu!
Tôi đã từng nghe ai đó nói: “Bạn không thực sự biết một cô gái xinh đẹp như
thế nào cho đến khi gặp cô ấy, đó là vẻ đẹp trong nhân cách.” Thật vây, bên cạnh
tấm lòng nhân hậu, tâm hồn vị tha, bao dung thì chị còn là người phụ nữ sâu sắc,
thấu hiểu sự đời. Cụ thể rằng suốt cuộc đối thoại đầy căng thẳng với những người
lắm chữ nhiều nghĩa, người phụ nữ ấy vẫn kiên trì bảo vệ người chồng bằng những
lí lẽ chắt ra từ chính cuộc đời khổ cực của dân làng chài “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc
chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn. .”. Câu nói đã khiến bao độc giả
không khỏi xót xa. Chị muốn nói rằng sự thay đổi của người chồng là do chị, do
cuộc sống túng quẫn quá. Như vậy, chồng chị cũng là nạn nhân của cái đói, cái
nghèo, cái lạc hậu mà chị là một phần nguyên nhân, vì thế nên chị không thể trách
lão ta bởi cũng như chị và những đứa con, chồng chị cũng phải “ăn xương rồng
luộc chấm muối” để qua cơn đói lòng. Mặc cho người đàn bà phân bua, Phùng vẫn
tiếp tục nỗ lực tìm lấy 1 lời giải thích thỏa đáng hơn cho tính vũ phu của gã đàn
ông hàng chài bằng một câu hỏi như lạc đề: “Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính
ngụy không?”, thì người đàn bà ấy lại có cơ hội thể hiện sự cảm thông rõ hơn với
chồng mình: “Không chú à, cũng nghèo khổ, túng quẫn đi vì trốn lính”. Rõ ràng
chị đang chứng minh cho Phùng và Đẩu thấy bản chất tốt đẹp của chồng, anh ta
cũng biết phân biệt lí lẽ đúng sai, cũng có trách nhiệm với quê hương, cũng căm
thù kẻ xâm lược như bất kì người dân yêu nước nào thời đó nhưng vì gánh nặng
mưu sinh, anh chồng chấp nhận “trốn lính”. Mỗi câu nói của chị đều bênh vực
người chồng và kèm luôn lời nhận lỗi về mình “cái lỗi chính là đám đàn bà ở
thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Đây là lần thứ hai chị nói đến điều này,
nhưng với giọng thành khẩn hơn, xót xa hơn. Dường như chưa bao giờ người phụ
nữ hàng chài này mảy may suy nghĩ rằng sẽ gạt bỏ người đàn ông khổ sở ấy ra
khỏi cuộc đời mình mà đối với chị, gã đàn ông độc dữ ấy đáng thương hơn là đáng trách.
Nếu nỗi sợ hãi về một gia đình đổ vỡ làm cho chị bỗng nhiên sắc sảo, mạnh b ạo
hơn trước quan tòa thì trong tình huống buộc phải chia sẻ thì chính nó cũng đã giữ
chị ngồi lại bình tĩnh, kể tường tận về lão chồng mình cho quý tòa nghe. Chị tha
thiết mong nhận được sự cảm thông và chia sẻ từ phía Phùng và chánh án Đẩu để
họ từ bỏ ý định khuyên chị bỏ chồng hay lên án gay gắt người đàn ông đáng
thương ấy vì “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết
như thế nào là nỗi vát vả của người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông” . .
Hóa ra “đám đàn bà hàng chài ở thuyền cần phải có người đàn ông để chèo chống
khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng 1 sấp con nhà nào cũng trên dưới
chục đứa. Với người đàn bà hàng chài, ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con
rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn, cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Những câu nói
của người đàn bà như xoáy vào tâm can người đọc. Trên mảnh đất đầy tinh thần
cách mạng, tưởng rằng lịch sử đã sang trang nhưng vẫn có những con người không
sang trang cùng lịch sử. Họ là những số phận mãi ngoài xa giống như người đàn bà
hàng chài nhận về mình bao cực khổ, chỉ có thể “sống cho con chứ không thể sống
cho mình”. Suy cho cùng, người đàn bà ấy không bỏ chồng là bởi chị rất thương
con. Cũng có những lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ “vui nhất là lúc
ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Ẩn sau vẻ bề ngoài lam lũ của người
đàn bà vùng biển là một người mẹ thương con, một người vợ thấu hiểu và bao
dung vị tha với chồng, một người phụ nữ biết chắt chiu những hạnh phúc nhỏ nhoi,
đời thường để bám víu lấy cuộc sống cơ cực. Cũng chỉ vì cuộc sống nghèo khổ mà
người đàn ông kia trở nên độc dữ “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra
đánh” nhưng bà vẫn nhìn chồng với thái độ cảm thông, chia sẻ. Không những vậy,
“sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão. . đưa tôi lên bờ mà đánh”. Chi
tiết này cho ta thấy người đàn bà thất học mà không tăm tối, thái độ nhẫn nhục của
chị chứng tỏ chị tự nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để vun vén hạnh phúc
cho gia đình. Chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ nó, thậm
chí trước đó chị còn gửi thằng bé Phác lên bờ sống với ông ngoại. Lòng người mẹ
thương con, lo lắng cho tương lai của con, sợ những đứa con sẽ hiểu lầm về cha nó.
Vì thế mà chị lựa chọn cách chung sống với bạo lực như một giải pháp duy nhất để
gìn giữ gia đình, bảo vệ các con tránh khỏi sự tha hóa trong nhân cách. Ta thấy
được ở đó là đức hi sinh – vẻ đẹp muôn đời của người phụ nữ Việt Nam truyền
thống. Giống như bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, bà đã giấu đi những nỗi
buồn lo, xót tủi để vun vén cho hạnh phúc của các con. Quả thật là đời
người mẹ sống vì con, ngay cả ước mơ cũng dành cho con. Vì lẽ đó, người ta vẫn
hay ca ngợi: “Trong thế giới có nhiều kì quan nhưng đẹp nhất vẫn là trái tim người mẹ”.
Xuyên suốt cuộc đối thoại, người đàn bà đã chủ động giãi bày thân phận và
cuộc sống của mình, chính điều này đã làm cho Phùng và Đẩu vỡ lẽ. Người đàn bà
mang bóng dáng của biết bao người phụ nữ Việt Nam: giàu đức hi sinh, lòng vị tha,
yêu thương con, vun vén và chăm chút cho hạnh phúc gia đình. Đó cũng là vẻ đẹp
thường thấy ở các nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Giống như
nhân vật Liên trong “Bến quê”, cũng suốt một đời tần tảo, hi sinh, chịu đựng. Đó là
những viên ngọc mà tác giả đã đi tìm và đã tìm thấy nó trong lấm láp bùn đất của cuộc đời.
Nếu coi một tác phẩm văn học là một cây đại cổ thụ lâu đời thì nội dung là phần
rễ, còn nghệ thuật là những tán lá xanh tốt. Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài ở
tòa án huyện và tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” nói chung đã thành công bởi
một phần không nhỏ về giá trị nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đã sử dụng thành
công nguyễn tắc đối lập trong việc xây dựng hình tượng về ngoại hình và nội tâm,
giữa số phận bất hạnh và lòng nhân hậu, bao dung, yêu thương con hơn bất kì thứ
gì. Bên cạnh đó, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, sinh động cùng với diễn biến
tâm lí nhân vật độc đáo mà thú vị, hấp dẫn đã đem đến cho ta một cái nhìn sâu sắc
của cuộc sống về con người. Cuộc sống đầy khắc nghiệt, đi cùng với nó là những
phận người vất vả trong cuộc mưu sinh và trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc.
Thật không sai khi nói Nguyễn Minh Châu viết văn là để thể hiện một thiên chức
cao đẹp: “Nhà văn tồn tại ở trên đời là để nâng giấc cho những kẻ cùng đường
tuyệt lộ, để bênh vực cho những ai không người ai bênh vực”
Truyện ngắn có thể coi là một lát cắt của đời sống mang đến cho con người
những bài học nhân sinh sâu sắc. Ai đã đặt chân đến vùng biển chắc chắn sẽ không
quên vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây. Với những trang văn của Nguyễn
Minh Châu trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, chúng ta như được chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của vùng biển thơ mộng, trữ tình. Trên nền bức tranh ấy mở ra bi kịch của
người đàn bà hàng chài, nhưng dù thế nào người đàn bà ấy vẫn ngời sáng tình yêu
thương con cái, giàu đức hi sinh cho gia đình. Chị là điển hình cho vẻ đẹp phẩm
chất của người phụ nữ Việt Nam. Với giá trị tuyệt vời ấy, truyện ngắn “Chiếc
thuyền ngoài xa” sẽ mãi sống cùng thời gian và dòng lịch sử văn học nước nhà, để
khi nhắc tới ông, ta sẽ nghĩ ngay đến một người nghệ sĩ chân chính, viết vì con
người: “Qua giọng hát, anh nhận ra người hát - Qua nét khắc, anh nhận ra người thợ bạc”.