



Preview text:
Người làm chứng là gì? Người làm chứng trong
tố tụng dân sự, hình sự
1. Người làm chứng theo luật tố tụng dân sự
1.1 Khái niệm người làm chứng trong tố tụng dân sự
Trong tố tụng dân sự, những người biết được các tình tiết, sự kiện của vụ
việc dân sự theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết toà án
triệu tập đến tham gia tố tụng để làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ việc
dân sự. Người tham gia tố tụng này được gọi là người làm chứng.
Người làm chứng là người tham gia tố tụng để làm rõ các tình tiết, sự kiện của
vụ việc dân sự do biết được các tình tiết, sự kiện đó.
Người làm chứng tham gia tố tụng thường khách quan hơn đương sự do họ
không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ việc dân sự. Việc tham gia tố tụng
của người làm chứng có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết vụ việc dân sự
nên pháp luật không quy định hạn chế những người được tham gia tố tụng
với tư cách là người làm chứng. Bất cử người nào biết được các tình tiết của
vụ việc dân sự đều có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng để
làm rõ vụ việc dân sự. Tuy nhiên, đối với những người không có khả năng
nhận thức được hành vi của mình như người chưa thành niên còn quá nhỏ
tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người có nhược điểm về thể chất
không thể nhận thức được sự việc thì không thể làm chứng được. Người làm
chứng được toà án triệu tập tham gia tố tụng theo yêu cầu của đương sự
hoặc khi toà án xét thấy cần thiết.
1.2 Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng trong tố tụng dân sự
Quyền, nghĩa vụ của người làm chứng được thể hiện ở hai lĩnh vực là cung
cấp thông tin về vụ việc dân sự và vật chất. Việc bảo đàm thực hiện đúng
được mỗi quyền, nghĩa vụ của người làm chứng có ý nghĩa rất quan ttọng đối
với kết quả giải quyết vụ việc dân sự, trong nhiều trường hợp còn mang tính quyết định.
Để làm ttòn được nhiệm vụ của mình, trong tố tụng dân sự người làm chứng
có các quyền, nghĩa vụ cung cấp toàn bộ những thông tin, tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án; khai báo trung thực những gì biết được về vụ án; chịu trách
nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại cho người bị hại do việc khai
báo sai sự thật gây ra; phải có mặt theo giấy triệu tập của toà án, trường hợp
cổ tình vắng mặt gây trở ngại cho việc xét xử có thể bị dẫn giải đến phiên toà;
được từ chối khai báo nếu việc khai báo có thể làm lộ bí mật nhà nước, bí
mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của đương sự hoặc ảnh
hưởng xấu, bất lợi cho đương sự có quan hệ thân thích với mình; được nghỉ
việc ttong thời gian toà án triệu tập tham gia tố tụng; được hưởng các khoản
phí đi lại và các chế độ khác theo quy định của pháp luật; được yêu cầu toà
án, cơ quan nhà nước khác có thẩm quyền bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của
mình; được khiếu nại hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng; phải
cam đoan trước toà án về việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình,
trừ người làm chứng là người chưa thành niên.
Trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quyền, nghĩa vụ của người làm
chửng và những vấn đề khác liên quan đến họ đã được quy định tại các điều
78, 229 và 239, Các điều luật này đã quy định khá đầy đủ, cụ thể và chặt chẽ
các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng. Tuy vậy, đối với người không
có khả năng nhận thức được đày đù sự việc như người chưa thành niên còn
quá ít tuổi, người có nhược điểm về thể chất v.v. có được làm chứng hay
không thì chưa được quy định cụ thể.
2. Quy định về người làm chứng theo luật tố tụng hình sự
2.1 Khái niệm về người làm chứng trong tố tụng hình sự
Người làm chứng là người biết được những tình tiết liên quan đến nguồn tin
về tội phạm, về vụ án và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng triệu tập đến làm chứng.
2.2 Quy định chung về quyền và nghĩa vụ của người làm chứng trong tố tụng hình sự
Trong quan hệ pháp luật nói chung, người làm chứng là người có đủ điều
kiện do pháp luật quy định, có mặt và trực tiếp làm chứng cho việc xảy ra của
một sự kiện pháp lí nhất định.
Trong quan hệ tố tụng, người làm chứng là người biết được những tình tiết
có liên quan đến vụ án và được cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để
khai báo về những sự việc (tình tiết) cần được xác minh trong vụ án.
Trong tố tụng hình sự, người làm chứng có thể là người trực tiếp hoặc qua
người khác biết được những tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội. Điều 55
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: người nào biết được những tình
tiết có liên quan đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng. Vai trò
của người làm chứng rất quan trọng vì lời khai của họ khi được thẩm vấn có
thể là chứng cứ trong Vụ án.
Để lời khai của người làm chứng được khách quan, luật quy định những
người sau đây không được làm chứng: người bào chữa của bị can, bị cáo;
người do nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần mà không có khả năng nhận
thức được những tình tiết của vụ án hoặc không có khả năng khai báo đúng đắn.
Người làm chứng có nghĩa vụ: có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án. Nếu cố ý không đến mà không có lí do chính đáng
thì có thể bị dẫn giải; khai báo trung thực và đầy đủ về những tình tiêt liên
quan đến vụ án mà mình biết. Nếu từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà
không có lí do chính đáng thì phải chịu trách nhiêm hình sự theo Điều 308 Bộ
luật hình sự, khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 Bộ luật hình sự.
3. Thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự
(i) Tính khách quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Chứng cứ được dùng là những tài liệu, sự kiện có thật, phản ánh trung thực
những tình tiết của vụ án đã xảy ra, không bị xuyên tạc, bóp méo theo ý chí
chủ quan của con người.Tính khách quan đòi hỏi bản thân các nguồn thông
tin này phải có thật, không phụ thuộc vào khả năng con người có nhận biết
chúng hay không.Tính khách quan còn thể hiện ở chỗ những gì là suy đoán,
tưởng tượng, không có thật thì không phải là chứng cứ. Tính khách quan bắt
đầu từ thời điểm chứng cứ được sinh ra.
(ii) Tính liên quan của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Tính liên quan của chứng cứ thể hiện ở mối liên hệ khách quan cơ bản của
chứng cứ với sự kiện cần chứng minh.Những gì có thật phải có mối liên hệ
khách quan với những sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình
sự.Chứng cứ phải là cơ sở để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của
những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự, có mối quan hệ nội tại với
những tình tiết, nội dung của vụ án. Nếu những gì tồn tại khách quan nhưng
không liên quan đến vụ án thì không phải là chứng cứ.
(iii) Tính hợp pháp của chứng cứ trong tố tụng hình sự:
Tính hợp pháp của chứng cứ thể hiện ở chỗ chứng cứ phải được rút ra từ
những phương tiện chứng minh và được thu thập, kiểm tra, đánh giá theo
đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Tính hợp pháp được xác định
nhằm đảm bảo giá trị chứng minh của chứng cứ.
Những gì được coi là chứng cứ trong vụ án hình sự phải thỏa mãn đầy đủ ba
thuộc tính trên. Nếu xét mối quan hệ nội tại giữa các thuộc tính của chứng cứ
thì tính khách quan và tính liên quan là nội dung của chứng cứ còn tính hợp
pháp là hình thức của chứng cứ.
4. Phân loại chứng cứ trong tố tụng hình sự
Dựa vào mối quan hệ giữa chứng cứ và đối tượng chứng minh có thể phân
chứng cứ thành hai loại: Chứng cứ trực tiếp và chứng cứ gián tiếp.
Căn cứ vào xuất xứ của chứng cứ có thể phân loại chứng cứ thành: Chứng
cứ gốc và chứng cứ sao chép lại, thuật lại.
Căn cứ vào quyền lợi của bị can, bị cáo, chứng cứ được phân loại thành:
Chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội.
Căn cứ vào hình thức tồn tại của chứng cứ có thể phân chia thành: Chứng cứ
vật thể và chứng cứ phi vật thể.
Hoạt động thu thập chứng cứ quy định tại Điều 65. Thu thập chứng cứ
"1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có
quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về
những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám
xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật
này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức hoặc bất cứ cá nhân nào
đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn đề có liên quan đến
vụ án.- Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ
vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao,
nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này." Lưu ý:
Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do lời khai của người làm
chứng; lời khai của bị hại; lời khai của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; lời
khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày nếu
họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp
với những chứng cứ khác của vụ án. Đồng thời, không được dùng lời nhận
tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Document Outline
- Người làm chứng là gì? Người làm chứng trong tố tụ
- 1. Người làm chứng theo luật tố tụng dân sự
- 1.1 Khái niệm người làm chứng trong tố tụng dân sự
- 1.2 Quyền và nghĩa vụ của người làm chứng trong tố
- 2. Quy định về người làm chứng theo luật tố tụng h
- 2.1 Khái niệm về người làm chứng trong tố tụng hìn
- 2.2 Quy định chung về quyền và nghĩa vụ của người
- 3. Thuộc tính của chứng cứ trong tố tụng hình sự
- 4. Phân loại chứng cứ trong tố tụng hình sự
- 1. Người làm chứng theo luật tố tụng dân sự