lOMoARcPSD| 61622878
Nguồn gốc và bản chất của ền t
I, Nguồn gốc của ền tệ
Có rất nhiều các học thuyết bàn đến nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Nhưng có
thể chia ra hai trường phái chính. Trường phái thứ nhất cho rằng: tiền tệ nguồn
gốc từ hàng hóa. Trường phái thứ hai cho rằng tiền tệ không sinh ra từ hàng hóa
mà phát sinh do ý muốn chủ quan của con người.
Mỗi trường phái nghiên cứu nguồn gốc của tiền tệ sự khác nhau bản.
+Trường phái thnhất nghiên cứu tiền tệ tiền thực, tiền đầy đủ giá trị nội
tại – tiền vàng
+Trường phái thứ hai nghiên cứu các dấu hiệu giá trị mà hình thái điển hình của
các dấu hiệu giá trị là tiền giấy và tiền kim loại kém giá.
Karl Marx nghiên cứu hình thái tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình trao đổi hàng
hóa, chứ không nghiên cứu các hình thái tiền tệ thuộc về một giai đoạn cao hơn
của quá trình trao đổi.
Để nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ, Karl Marx đi từ việc nghiên cứu sự
phát triển các hình thái giá trị. Theo học thuyết giá trị của mình K. Marx nghiên
cứu bốn hình thái giá trị sau:
Hình thái giá trị giản đơn còn gọi là hình thái giá trị ngẫu nhiên.
Hình thái giá trị mở rộng còn gọi là hình thái giá trị đẩy đủ.
Hình thái giá trị chung còn gọi là hình thái giá trị phổ biến.– Hình thái tiền tệ.
1.1. Hình thái giá trị giản đơn (ngẫu nhiên)
Đây là hình thái giá trị đầu tiên, xuất hiện vào giai đoạn cuối của chế độ công xã
nguyên thủy, khi trình độ sản xuất trong các công xã đã bắt đầu phát triển, là tiền
đề nảy sinh quan hệ trao đổi. Quan hệ trao đổi trong công xã chỉ mang tính chất
ngẫu nhiên, cá biệt và giản đơn mà thôi.
Phương trình trao đổi:
x hàng hóa A = y hàng hóa B
Hình thái giá trị giản đơn có những đặc trưng sau đây:
Trao đổi hàng hóa chưa trở thành nhu cầu của con người.
Giá trị của một hàng hóa này chthể biểu hiện thông qua một hàng hóa khác
một cách ngẫu nhiên.
lOMoARcPSD| 61622878
Trao đổi rất giản đơn và mang tính trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác
(vật vật), quan hệ trao đổi chỉ thđược thực hiện khi nào được thỏa mãn
tất cả các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian không gian. Vật
ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính giản đơn.
1.2. Hình thái giá trị mở rộng (đầy đủ)
Hình thái này xuất xứ khi trình độ sản xuất trong các công ngày càng phát triển
hơn, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, tạo khả năng trao đổi ngày càng
lớn hơn.
Mặt khác, do sự tan của chế độ công nguyên thủy, sự hình thành chế độ
chiếm hữu nhân về liệu sản xuất xuất hiện cuộc phân công lao động
hội lớn lần thứ nhất. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề cho sự phát triển của trao
đổi hàng hóa, làm cho trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu đã được mở rộng
hơn.
Phương trình trao đổi:
Đặc trưng của hình thái này:
Trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu của con người và phức tạp hơn.
Giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau.
Trao đổi hàng hóa vẫn trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác, nghĩa là quá
trình mua đồng thời quá trình bán, nên vẫn phải lệ thuộc vào các điều kiện
về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian.
Vật ngang giá dùng đbiểu hiện giá trị hàng hóa mang tính đặc thù riêng
biệt.
1.3. Hình thái giá trị chung
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, nên trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu
cầu thường xuyên hơn, chuỗi hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá ngày càng
dài tận chồng chéo lên nhau, làm cho quan hệ trao đổi rất khó khăn phức
tạp.
lOMoARcPSD| 61622878
Mặt khác trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao làm cho sản xuất và
đời sống bị lệ thuộc vào trao đổi. Do đó trao đổi không chỉ nhu cầu thường
xuyên còn mang tính cấp bách. Trao đổi trực tiếp vật – vật không còn phù hợp
nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng hình thức trao đổi hoàn thiện hơn, đó là trao đổi
gián tiếp thông qua mt hàng hóa trung gian.
Phương trình trao đổi:
Đặc trưng:
Trao đổi đã trở thành cầu thường xuyên hơn và mang tính cấp bách.
Giá trị hàng hóa được biểu hiện một cách thống nhất. Không còn trao đổi trực
tiếp vật này lấy vật khác nữa, mà trao đổi thông qua một hàng hóa đóng vai trò
là vật ngang giá chung
1.4. Hình thái ền tệ
Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai xuất hiện, sản xuất lưu
thông hàng hóa phát triển không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, thậm
chí còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, đã dẫn tới quan hệ trao đổi trở thành nhu cầu
thường xuyên và mang tỉnh cấp bách hơn, mở rộng hơn làm phá vỡ phạm vi địa
phương chặt hẹp trước đây, do đó đòi hỏi:
Vật ngang giá chung phải thống nhất vào một hàng hóa duy nhất trong phạm vi
quốc gia, quốc tế.
Vật ngang giá chung phải đáp ứng điều kiện:
+ Có giá trị cao.
+ Thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, dễ gộp lại, ít bị hao mòn giá trị.
+ Không bị các phản ứng hóa học làm hư hỏng .
Hàng hóa được chọn làm vật ngang giá độc quyền để biểu hiện đo lường giá
trị của mọi hàng hóa trong phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế phải là vàng.
lOMoARcPSD| 61622878
Vì sao lại phải vàng? vì chỉ có vàng mới là thứ kim loại duy nhất thỏa mãn các
điều kiện trên đây nên vàng trở thành tiền tệ và có tên gọi là tiền tệ.
Phương trình trao đổi:
Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị của Karl Marx chúng
ta thấy rằng:
Lúc đầu vật ngang giá chung là những hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho từng bộ
lạc hoặc từng địa phương. Sau đó vật ngang gchung ý nghĩa tượng trưng
như: vỏ sò, xương thủ, vòng đá. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng và trở thành nhu
cầu thường xuyên hơn, cấp bách hơn của các bộ tộc, lúc đó vật ngang giá chung
được lựa chọn là các kim loại.
Kim loại được sử dụng đầu tiên làm vật ngang giá chung đồng, sau đồng bạc,
đến đầu thế kỷ XIX vàng đóng vai trò vật ngang giá chung. Khi vàng độc quyền
đóng vai trò vật ngang giả chung, nó được gọi là kim loại tiền tệ, hay tiền tệ.
Như vậy tiền tệ là một loại hàng hóa, nhưng nó lại có khả năng trao đổi trực tiếp
với nhiều loại hàng hóa khác và trước khi trao đổi với chúng, vàng phải do được
giá trị của những hàng hóa này. Chính vậy tiền tệ không chỉ hàng hóa
thông thường mà còn là hàng hóa đặc biệt.
2. Bản chất của ền t
2.1. Khái niệm
Tiền tệ một hàng hóa hàng hóa đặc biệt, độc quyền đóng vai trò vật ngang
giá chung để đo lường, biểu hiện giá trị của các hàng hóa là phương tiện lưu
thông hàng hóa.
Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ
là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ
cho ta thấy, tiền tệ sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó nghĩa
rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển
tổn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu còn sản xuất và trao đổi
hàng hóa ở đó còn tồn tại tiền tệ và khi nào không còn sản xuất và trao đổi hàng
hóa thì lúc đó sẽ không còn tiền tệ nữa.
lOMoARcPSD| 61622878
Tiền tệ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa, đã chứng minh là sản phẩm tự
phát của nền kinh tế thị trường. Quá trình này thể hiện chỗ “cùng với sự chuyển
hóa chung của sản phẩm lao động thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa
thành tiền tệ”.
Vàng trở thành tiền tệ. Vì sao vàng lại trở thành tiền tệ? bản thân kim loại này
vốn đã là hàng hóa. Do đó cũng như các hàng hóa khác tiền tệ có hai thuộc tỉnh:
Giá trị giá trị sử dụng. Nhưng tiền tệ hàng hóa đặc biệt giá trị sử
dụng đặc biệt. Đó giá trị sử dụng xã hội, tiền tệ thước do giá trị phương
tiện lưu thông cho cả thế giới hàng hóa. Vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa
nào thay thế được vàng.
Khi đề cập về vấn đề này Karl Marx đã viết: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt
đầu từ lúc rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách
phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”
Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rệt. Một cực
tất cả các hàng hóa thông thường có nhu cầu biểu hiện giá trị của mình ở tiền
tệ và các hàng hóa này thể thỏa mãn được một hoặc một vài nhu cầu nào đó
của con người. Còn bên kia cực đối lập, tiền tệ – vàng, trực tiếp biểu hiện giá
trị các hàng hóa. Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong
bất kỳ điều kiện nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của
con người.
2.2. Bản chất
Tiền tệ hàng hóa tiền tệ hai thuộc tính như các hàng hóa thông
thường khác, đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng.
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì ngoài giá trị sử dụng riêng ra tiền tệ còn có
giá trị đặc biệt, đó là có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều
kiện nào, trong bất kỳ không gian thời gian nào, cho nên tiền tệ thể thỏa
mãn được mọi nhu cầu của con người.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61622878
Nguồn gốc và bản chất của tiền tệ
I, Nguồn gốc của tiền tệ
Có rất nhiều các học thuyết bàn đến nguồn gốc và bản chất của tiền tệ. Nhưng có
thể chia ra hai trường phái chính. Trường phái thứ nhất cho rằng: tiền tệ có nguồn
gốc từ hàng hóa. Trường phái thứ hai cho rằng tiền tệ không sinh ra từ hàng hóa
mà phát sinh do ý muốn chủ quan của con người.
Mỗi trường phái nghiên cứu nguồn gốc của tiền tệ có sự khác nhau cơ bản.
+Trường phái thứ nhất nghiên cứu tiền tệ là tiền thực, tiền có đầy đủ giá trị nội tại – tiền vàng
+Trường phái thứ hai nghiên cứu các dấu hiệu giá trị mà hình thái điển hình của
các dấu hiệu giá trị là tiền giấy và tiền kim loại kém giá.
Karl Marx nghiên cứu hình thái tiền tệ trực tiếp sinh ra từ quá trình trao đổi hàng
hóa, chứ không nghiên cứu các hình thái tiền tệ thuộc về một giai đoạn cao hơn
của quá trình trao đổi.
Để nghiên cứu nguồn gốc ra đời của tiền tệ, Karl Marx đi từ việc nghiên cứu sự
phát triển các hình thái giá trị. Theo học thuyết giá trị của mình K. Marx nghiên
cứu bốn hình thái giá trị sau:
– Hình thái giá trị giản đơn còn gọi là hình thái giá trị ngẫu nhiên.
– Hình thái giá trị mở rộng còn gọi là hình thái giá trị đẩy đủ.
– Hình thái giá trị chung còn gọi là hình thái giá trị phổ biến.– Hình thái tiền tệ.
1.1. Hình thái giá trị giản đơn (ngẫu nhiên)
Đây là hình thái giá trị đầu tiên, xuất hiện vào giai đoạn cuối của chế độ công xã
nguyên thủy, khi trình độ sản xuất trong các công xã đã bắt đầu phát triển, là tiền
đề nảy sinh quan hệ trao đổi. Quan hệ trao đổi trong công xã chỉ mang tính chất
ngẫu nhiên, cá biệt và giản đơn mà thôi. Phương trình trao đổi:
x hàng hóa A = y hàng hóa B
Hình thái giá trị giản đơn có những đặc trưng sau đây:
– Trao đổi hàng hóa chưa trở thành nhu cầu của con người.
– Giá trị của một hàng hóa này chỉ có thể biểu hiện thông qua một hàng hóa khác một cách ngẫu nhiên. lOMoAR cPSD| 61622878
– Trao đổi rất giản đơn và mang tính trực tiếp hàng hóa này lấy hàng hóa khác
(vật – vật), quan hệ trao đổi chỉ có thể được thực hiện khi nào được thỏa mãn
tất cả các điều kiện về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian. – Vật
ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính giản đơn.
1.2. Hình thái giá trị mở rộng (đầy đủ)
Hình thái này xuất xứ khi trình độ sản xuất trong các công xã ngày càng phát triển
hơn, hàng hóa sản xuất ra ngày càng nhiều hơn, tạo khả năng trao đổi ngày càng lớn hơn.
Mặt khác, do sự tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, sự hình thành chế độ
chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và xuất hiện cuộc phân công lao động xã
hội lớn lần thứ nhất. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề cho sự phát triển của trao
đổi hàng hóa, làm cho trao đổi hàng hóa trở thành nhu cầu và đã được mở rộng hơn. Phương trình trao đổi:
Đặc trưng của hình thái này:
– Trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu cầu của con người và phức tạp hơn.
– Giá trị của một hàng hóa được biểu hiện ở nhiều hàng hóa khác nhau.
– Trao đổi hàng hóa vẫn là trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác, nghĩa là quá
trình mua đồng thời là quá trình bán, nên vẫn phải lệ thuộc vào các điều kiện
về: giá trị, giá trị sử dụng, thời gian và không gian.
– Vật ngang giá dùng để biểu hiện giá trị hàng hóa mang tính đặc thù và riêng biệt.
1.3. Hình thái giá trị chung
Sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển, nên trao đổi hàng hóa đã trở thành nhu
cầu thường xuyên hơn, chuỗi hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang giá ngày càng
dài vô tận và chồng chéo lên nhau, làm cho quan hệ trao đổi rất khó khăn và phức tạp. lOMoAR cPSD| 61622878
Mặt khác trình độ phân công lao động xã hội ngày càng cao làm cho sản xuất và
đời sống bị lệ thuộc vào trao đổi. Do đó trao đổi không chỉ là nhu cầu thường
xuyên mà còn mang tính cấp bách. Trao đổi trực tiếp vật – vật không còn phù hợp
nữa, đòi hỏi phải thay thế bằng hình thức trao đổi hoàn thiện hơn, đó là trao đổi
gián tiếp thông qua một hàng hóa trung gian. Phương trình trao đổi: Đặc trưng:
– Trao đổi đã trở thành cầu thường xuyên hơn và mang tính cấp bách.
– Giá trị hàng hóa được biểu hiện một cách thống nhất. Không còn trao đổi trực
tiếp vật này lấy vật khác nữa, mà trao đổi thông qua một hàng hóa đóng vai trò là vật ngang giá chung
1.4. Hình thái tiền tệ
Khi cuộc phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai xuất hiện, sản xuất và lưu
thông hàng hóa phát triển không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà thậm
chí còn mở rộng ra phạm vi quốc tế, đã dẫn tới quan hệ trao đổi trở thành nhu cầu
thường xuyên và mang tỉnh cấp bách hơn, mở rộng hơn làm phá vỡ phạm vi địa
phương chặt hẹp trước đây, do đó đòi hỏi:
– Vật ngang giá chung phải thống nhất vào một hàng hóa duy nhất trong phạm vi quốc gia, quốc tế.
– Vật ngang giá chung phải đáp ứng điều kiện: + Có giá trị cao.
+ Thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, dễ gộp lại, ít bị hao mòn giá trị.
+ Không bị các phản ứng hóa học làm hư hỏng .
Hàng hóa được chọn làm vật ngang giá độc quyền để biểu hiện và đo lường giá
trị của mọi hàng hóa trong phạm vi quốc gia và phạm vi quốc tế phải là vàng. lOMoAR cPSD| 61622878
Vì sao lại phải là vàng? vì chỉ có vàng mới là thứ kim loại duy nhất thỏa mãn các
điều kiện trên đây nên vàng trở thành tiền tệ và có tên gọi là tiền tệ. Phương trình trao đổi:
Thông qua việc nghiên cứu sự phát triển các hình thái giá trị của Karl Marx chúng ta thấy rằng:
Lúc đầu vật ngang giá chung là những hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho từng bộ
lạc hoặc từng địa phương. Sau đó vật ngang giá chung có ý nghĩa tượng trưng
như: vỏ sò, xương thủ, vòng đá. Khi trao đổi hàng hóa mở rộng và trở thành nhu
cầu thường xuyên hơn, cấp bách hơn của các bộ tộc, lúc đó vật ngang giá chung
được lựa chọn là các kim loại.
Kim loại được sử dụng đầu tiên làm vật ngang giá chung là đồng, sau đồng là bạc,
đến đầu thế kỷ XIX vàng đóng vai trò vật ngang giá chung. Khi vàng độc quyền
đóng vai trò vật ngang giả chung, nó được gọi là kim loại tiền tệ, hay tiền tệ.
Như vậy tiền tệ là một loại hàng hóa, nhưng nó lại có khả năng trao đổi trực tiếp
với nhiều loại hàng hóa khác và trước khi trao đổi với chúng, vàng phải do được
giá trị của những hàng hóa này. Chính vì vậy mà tiền tệ không chỉ là hàng hóa
thông thường mà còn là hàng hóa đặc biệt.
2. Bản chất của tiền tệ 2.1. Khái niệm
Tiền tệ là một hàng hóa – hàng hóa đặc biệt, độc quyền đóng vai trò vật ngang
giá chung để đo lường, biểu hiện giá trị của các hàng hóa và là phương tiện lưu thông hàng hóa.
Sự xuất hiện của tiền tệ trong nền kinh tế thị trường đã chứng minh rằng: Tiền tệ
là phạm trù kinh tế, đồng thời là phạm trù lịch sử. Quá trình xuất hiện của tiền tệ
cho ta thấy, tiền tệ là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Điều đó có nghĩa
rằng: tiền tệ phát sinh, phát triển và tồn tại cùng với sự phát sinh, phát triển và
tổn tại của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Bởi vậy ở đâu còn sản xuất và trao đổi
hàng hóa ở đó còn tồn tại tiền tệ và khi nào không còn sản xuất và trao đổi hàng
hóa thì lúc đó sẽ không còn tiền tệ nữa. lOMoAR cPSD| 61622878
Tiền tệ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa, đã chứng minh nó là sản phẩm tự
phát của nền kinh tế thị trường. Quá trình này thể hiện ở chỗ “cùng với sự chuyển
hóa chung của sản phẩm lao động thành hàng hóa, thì hàng hóa cũng chuyển hóa thành tiền tệ”.
Vàng trở thành tiền tệ. Vì sao vàng lại trở thành tiền tệ? Vì bản thân kim loại này
vốn đã là hàng hóa. Do đó cũng như các hàng hóa khác tiền tệ có hai thuộc tỉnh:
Giá trị và giá trị sử dụng. Nhưng tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì nó có giá trị sử
dụng đặc biệt. Đó là giá trị sử dụng xã hội, tiền tệ là thước do giá trị và phương
tiện lưu thông cho cả thế giới hàng hóa. Vị trí này cho đến nay chưa có hàng hóa
nào thay thế được vàng.
Khi đề cập về vấn đề này Karl Marx đã viết: “giá trị sử dụng của hàng hóa bắt
đầu từ lúc nó rút ra khỏi lưu thông, còn giá trị sử dụng của tiền tệ với tư cách là
phương tiện lưu thông lại chính là sự lưu thông của nó”
Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa được chia thành hai cực rõ rệt. Một cực
là tất cả các hàng hóa thông thường có nhu cầu biểu hiện giá trị của mình ở tiền
tệ và các hàng hóa này có thể thỏa mãn được một hoặc một vài nhu cầu nào đó
của con người. Còn bên kia – cực đối lập, là tiền tệ – vàng, trực tiếp biểu hiện giá
trị các hàng hóa. Vì tiền tệ có thể trao đổi trực tiếp được với mọi hàng hóa trong
bất kỳ điều kiện nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa mãn được tất cả các nhu cầu của con người. 2.2. Bản chất
Tiền tệ là hàng hóa vì tiền tệ có hai thuộc tính như các hàng hóa thông
thường khác, đó là thuộc tính giá trị và thuộc tính giá trị sử dụng. –
Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt vì ngoài giá trị sử dụng riêng ra tiền tệ còn có
giá trị đặc biệt, đó là có thể trao đổi trực tiếp với mọi hàng hóa trong bất kỳ điều
kiện nào, trong bất kỳ không gian và thời gian nào, cho nên tiền tệ có thể thỏa
mãn được mọi nhu cầu của con người.