Nguyên lý lí luận văn học
Nguyên lý lí luận văn học
Môn: Nguyên lý lí luận văn học
Trường: Đại học Sư Phạm Huế
Thông tin:
Tác giả:
Preview text:
TRÒ CHƠI KẾT CẤU TIỂU THUYẾT THIÊN THẦN SÁM HỐI - TẠ DUY ANH
- Kết cấu lắp ghép - phân mảnh
Cấu trúc phi trung tâm
Kết cấu là phương diện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, “là toàn bộ tổ chức tác phẩm trong tính độc đáo, sinh động, gợi cảm của nó”(2). Với loại hình tự sự, đặc biệt là tiểu thuyết, khi quan niệm và tư duy nghệ thuật thay đổi, kết cấu cũng là lĩnh vực ghi nhận rõ nhất sự thể nghiệm. Kết cấu thể hiện trên nhiều cấp độ khác nhau (kết cấu bề mặt và kết cấu bề sâu), vì thế cuộc chơi kết cấu cũng rất đa dạng.
Cốt truyện phân rã là một hệ thống các sự kiện có tính độc lập
tương đối được sắp đặt cạnh nhau. Trên tinh thần trò chơi, câu chuyện bị phá vỡ dòng chảy tuyến tính, bị ngắt thành những mảnh, song vẫn châu tuần về một ý nghĩa, vẫn có một mạch ngầm xuyên suốt. Nhà văn lúc này giống như một họa sĩ theo trường phái hội họa lập thể, chơi với các mảng màu đầy ngẫu hứng, tạo ra những bức tranh thoạt nhìn rời rã lộn xộn nhưng sâu thẳm lại là “một ý niệm nhất quán nào đó về thế giới”. Tiếp nhận tiểu thuyết, người đọc không khỏi bối rối, thậm chí hoang mang trong cái mê cung mà chuỗi lắp ghép miên man của tự sự đưa lại. Khó tìm thấy một mối dây liên hệ của những sự kiện được miêu tả, trần thuật; khó dựng lại một tọa độ thời gian chuẩn xác giữa rất nhiều biến cố, suy cảm, hồi ức, giấc mơ… Và những mở, thắt, cao trào… không còn hiện diện trong tư duy nghệ thuật mang tính trò chơi.
Tiểu thuyết Thiên thần sám hối, với những mảnh hồi ức mơ hồ, khi
nhớ lúc quên, những suy cảm đầy mộng mị của nhân vật được phân mảnh, lắp ghép và sắp xếp cạnh nhau, không chảy trôi theo mạch thẳng của thời gian tuyến tính. Quá khứ, hiện tại bị đảo lộn trật tự,
đan xen và đồng hiện, vừa tạo sự đứt gãy, phi logic, vừa có sự thống nhất, liên quan chặt chẽ theo một ý đồ nhất định của người tổ chức trò chơi. Hành trình cốt truyện tiểu thuyết đương đại chính là những khám phá mang đầy tính trò chơi. Nới lỏng độ căng của cốt truyện, do tính chất giản đơn hoặc rời rạc của hành động, do dòng suy cảm, hồi ức khi triền miên khi chắp nối, những thoáng ý nghĩ chợt đến chợt đi, cấu trúc tiểu thuyết lúc này là một cấu trúc tự sự lỏng lẻo, hành động và xung đột của sự kiện được giảm một cách đáng kể.
Người đọc hào hứng không phải trong khám phá sự phát triển đầy kịch tính của những tình tiết, sự kiện… mà là để tìm ra sự liên kết bề sâu của các phân mảnh đó. Tư duy trò chơi đã biến nhiều tác phẩm tiểu thuyết thành trò chơi tạo lập văn bản, những văn bản rời rạc cố tình, tựa như những mảnh ghép trong trò ghép hình.
Nhân vật chính - người kể chuyện là một vai ẩn: cái bào thai nằm
trong bụng mẹ. Một cách hợp lý, đây phải là một nhân vật song trùng ít ra về tính cách và nếu cho rằng cái bào thai đó có hoạt động nhận thức thì đây là một cặp nhận thức mẹ - con với các tương qua qua lại. Các chương trong tác phẩm không có tên gọi riêng nhưng khi đi vào mỗi chương là một gam màu riêng về bức tranh hiện thực đời sống qua con mắt của một đứa trẻ sắp chào đời. Số trang của mỗi chương cũng có sự chênh lệnh nhất định, tạo nên tính bất định trong văn bản, làm nhòe mờ đi biểu thức thời gian, không gian, tạo nên một thế giới vừa hư vừa thực, đó là những điều dễ nhận thấy trong sáng tác của Tạ Duy Anh. Chương 1 (5 trang) – đứa bé trong bào thai đến ngày sinh nhưng không chịu ra đời; chương 2 (6 trang) – chuyện một cô gái bị gã sở khanh lừa cho có bầu rồi vào viện trút con ra như trút bỏ nghiệp chướng; chương 3 (13 trang) – chuyện một người vợ phải gánh ác nghiệp bị tuyệt tự đường con cái do chồng mình gây ra, nỗi ám ảnh về hồn ma của cô cave do chồng cô giết;
chương 4: (26 trang) – chuyện một cô gái không thể có con vì ngày trước đã từng phá thai, chuyện một người cha không muốn con mình ra đời vì nghĩ đứa trẻ ra đời sẽ một vướng bận trong cuộc đời anh; chương 5 (13 trang) – chuyện một người phụ nữ mang thai nhưng không biết bố nó là ai; chương 9 (3 dòng) – quyết định ra đời của đứa bé trong bào thai… Mỗi bức tranh trong bệnh viện phụ sản chất chứa tội lỗi của con người, mỗi bức tranh là một câu chuyện về số phận của những em bé sắp chào đời, không em bé nào giống em bé nào. Tất cả như một lời cảnh tỉnh của tác giả trước sự tha hóa xuống cấp của con người trong xã hội hiện đại.
Biểu tượng thiên thần mang ý nghĩa như là phần tốt đẹp còn lại
của cõi nhân sinh, phần thiên lương trong sạch trong mỗi con người. Nó nằm ngoài sự tác động của hoàn cảnh, dù ngoại cảnh ấy có khắc nghiệt tàn bạo đến đâu chăng nữa. Bị chèn ép, bị lấn át, là đối tượng tiêu diệt của cái xấu cái ác nhưng ánh sáng của nó vĩnh viễn không thể bị che khuất. Biểu tượng thiên thần còn là cách nhà văn thể hiện niềm tin vào sự phục thiện, hồi sinh của thiên lương trong con người. Sự xuất hiện của thiên thần mang đến sự cảm hóa, khơi dậy khát vọng sám hối của những tâm hồn mang tội bằng nhiều cách thức khác nhau. Có khi sức mạnh cảm hóa ấy đến từ những lời nói như rao giảng, triết lí Thiên thần sám hối là cuộc trò chuyện giữa thiên thần trong giấc mơ với người mẹ và bào thai - nhân vật xưng “tôi” nhưng những yếu tố “ngoài lời” mang đến khả năng cảm hóa mạnh hơn cả. Có thể nói, dưới ánh sáng dẫn đường của thiên thần, con người đã thực hiện một quá trình giã biệt bóng tối, sám hối và đi tìm bản thể của chính mình. Quá trình ấy thường trải qua bước chuyển hóa với sự tham gia của một yếu tố đóng vai trò trung gian như là chất thanh tẩy đồng thời tái sinh.
Sáng tác của Tạ Duy Anh mang tính luận đề rất rõ và việc xây
dựng hàng loạt biểu tượng là một phương thức để nhà văn triển khai luận đề của mình. Ở một mức độ nào đó, những biểu tượng đã giúp tăng chiều kích cho tác phẩm trong việc gợi mở trí tưởng tượng, buộc người đọc phải suy ngẫm để đón nhận những thông điệp của tác phẩm thay vì đọc một cách hời hợt. Đứa bé trong Thiên thần sám hối đang còn nằm trong bụng mẹ đã nghe và cảm biết hết hiện thực giả dối, tàn nhẫn, nhan nhản cái xấu cái ác: “Có biết bao nhiêu chuyện không giống trò đùa một tí nào. Chẳng hạn việc ngâm cồn những đứa bé dị dạng, ngâm rượu những cái thai dưới ba tháng tuổi. Hay như việc mới xảy ra cách đây mấy hôm, người ta vừa cô vắc chiếc thai bảy tháng tuổi của một cô gái vừa đủ tuổi thành niên mà bố của nó là cậu ruột của cô gái. Người ta không cảm thấy có nghĩa vụ phải săn sóc nó. Nó là hiện thân của điều đáng tởm nhất mà con người phạm phải...” [2,74]. Hiện thực này tương phản và đối lập mạnh mẽ với những gì mà thiên thần được giáo huấn về vẻ đẹp trần thế: “Khi còn là thiên thần ở trên trời, tôi và những linh hồn khác đều thuộc những bài hát ca ngợi tình yêu và sự màu nhiệm. Tình yêu tạo ra sự màu nhiệm và được tạo bởi điều màu nhiệm. Trong niềm ngây ngất, một màu nhiệm lớn lao nhất được tạo ra, ấy là sự có mặt của chúng tôi, như một sự gia ân của đấng tối linh không hiện hình nhưng hiện hữu ở khắp nơi” [2,75]. Còn gì nghịch dị và đau xót hơn. Thông qua hình tượng nghịch dị bào thai biết nói, những đứa bé dị dạng, tác giả tố cáo sự tha hóa của con người, cái vô nhân tính trong những hành động bản năng tội lỗi, tội loạn luân hay đơn thuần chỉ muốn thỏa mãn dục vọng thấp hèn của một bộ phận trẻ tuổi sống vô trách nhiệm với xã hội.
Lựa chọn con đường phản ánh trực diện mặt trái của cuộc sống và
góc khuất trong tâm hồn con người, cùng với những nỗ lực đổi mới trong cách viết, sáng tác của Tạ Duy Anh có những cuốn nặng nề,
ngột ngạt, gây ám ảnh bởi những cái xấu xa, bỉ ổi, tha hóa. Nhưng giữa bề bộn, ngổn ngang những thù hận, những lời nguyền cay nghiệt, ta vẫn bắt gặp bóng dáng của thiên thần cùng với ánh sáng của niềm tin, của sự trong sạch, bao dung, vị tha và niềm hi vọng vào sự phục thiện của con người.
* Tài liệu tham khảo:
- Tạ Duy Anh (2005), Thiên thần sám hối, NXB Đà Nẵng.
- Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.169.