lOMoARcPSD| 61716317
CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN & ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM 1.
KHÁI NIỆM NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM:
1.1 Khái niệm:
“Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm” là tổng hợp những hiện tượng quá trình xã hội xác định
tình hình tội phạm là hậu quả của chúng, đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội có khả năng
làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm.
Nói cách khác, tình hình tội phạm kết quả của sự tương tác giữa những hiện tượng quá trình
hội.
Nguyên nhân & điều kiện của tình hình tội phạm → Tình hình tội phạm = Hậu qu
Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những nhân tố trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm trong
hội. Thể hiện những mâu thuẫn nhiều mặt trong đời sống hội (là nhân tố khách quan). Nguyên
nhân làm phát sinh tình hình tội phạm trong xã hội đó là sự tương tác của các nhân tố đối lập, xung đột
với nhau trên nhiều bình diện khác nhau trong đời sống xã hội. Vd: sự khủng hoảng, suy thoái kinh tế,
lạm phát, sự thừa nguồn lao động hội, phân phối thu nhập bất hợp lý, xung đột tưởng, học
thuyết... -> có khả năng làm phát sinh nhiều loại tội phạm.
Điều kiện của tình hình tội phạm là những nhân tố không có khả năng trực tiếp làm phát sinh tình hình
tội phạm, chỉ đóng vai trò tạo ra môi trường thuận lợi để tình hình tội phạm có thể phát sinh, để nguyên
nhân làm phát sinh tình hình tội phạm. Điều kiện được coi là thứ “xúc tác”, cái “ngẫu nhiên” cần thiết
làm phát sinh tình hình tội phạm vào đúng thời điểm mà những mâu thuẫn xung đột của các mặt đối lập
trong hội đang phát triển đến một giới hạn nào đó. Vd: sự mất cảnh giác, thể tạo cơ hội thuận
lợi cho nhiều loại tội phạm phát triển trong mỗi giai đoạn nhất định.
1.3 Ý nghĩa nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm:
Thứ nhất, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tạo cơ sở để xây dựng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm trong xã hội.
Vì hoạt động phòng ngừa tội phạm trong thực tiễn chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hiểu biết đầy đủ về
nguồn gốc phát sinh, tồn tại thay đổi của tình hình tội phạm nên hoạt động phòng ngừa tội phạm
không thể tách rời khỏi việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện tình hình tội phạm. Phòng ngừa tội
phạm chỉ đạt hiệu quả khi nó sử dụng những thành tựu nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện tình hình
tội phạm.
Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân điều kiện tình hình tội phạm tạo sở để hoạch định các chính
sách phát triển kinh tế - hội một cách phù hợp, giảm thiểu các mâu thuẫn trong hội nguyên
nhân sâu xa làm phát sinh tình hình tội phạm.
Việc soạn thảo, ban hành và thực hiện các chính sách nhằm phát triển kinh tế – xã hội trước mắt cũng
như về lâu dài cần thiết phải nắm bắt được kịp thời các nhân tố hội khả năng làm phát sinh tình
hình tội phạm, để thông qua đó, thể can thiệp, tác động kịp thời vào những vướng mắc, mâu thuẫn
phát sinh trong hội; từ đó, làm giảm thiểu, hạn chế mức độ căng thẳng, gay gắt của chúng, kiểm soát
chúng trong một giới hạn cho phép.
Điều này nghĩa là việc kiểm soát được tình hình tội phạm trong xã hội duy trì sự phát triển kinh tế
xã hội một cách bền vững.
Mặt khác, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm giúp dự liệu trước những tác
động tiêu cực từ một số chính sách đối với đời sống xã hội, qua đó chủ động hạn chế những ảnh hưởng
không mong muốn của chúng để không làm phát sinh tội phạm trong xã hội.
Thứ ba, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tạo sở cho việc hoạch định chính
sách về pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng.
2. PHÂN LOẠI NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI PHẠM:
Phân loại nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm để thấy được mức độ ảnh hưởng của chúng
trong việc làm phát sinh tình hình tội phạm đồng thời định hướng cho cuộc đấu tranh chống
phòng ngừa tội phạm.
2.3. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành của nguyên nhân và điều kiện:
Việc phân loại nguyên nhân điều kiện tình hình tội phạm theo tiêu chí này xuất phát từ việc chúng
ta xem xét, đánh giá nguồn gốc hình thành của chúng từ vị trí của chủ thể phòng ngừa tội phạm là quốc
gia nơi có tội phạm phát sinh.
lOMoARcPSD| 61716317
Có 02 nhóm nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm như sau:
Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
Đây là nhóm nguyên nhân điều kiện không đến từ phía các chủ thể của hoạt động phòng chống tội
phạm, mà là những tác động đến từ các xu thế và những quá trình mang tính quốc tế. Ví dụ: xu thế hội
nhập quốc tế, suy thoái kinh tế khu vực thế giới, sự chống phá của thế lực thù địch đối với nhà
nước…
Nguyên nhân và điều kiện chủ quan:
Đây nhóm nguyên nhân phát sinh từ những sai lầm, khiếm khuyết của các chủ thể trong hoạt động
quản nhà nước, hội, con người, trong các hoạt động ban hành thực thi pháp luật của các
quan nhà nước, trong hoạt động phòng, chống tội phạm của cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam.
CHƯƠNG 4:NGUYÊN NHÂN & ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM CỤ THỂ 1.
KHÁI NIỆM CHUNG:
1.1.Khái niệm tội phạm cụ thể và cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội:
“Cơ chế tâm hội của hành vi phạm tội” mối liên hệ sự tác động lẫn nhau giữa những đặc
điểm nhân của người phạm tội những nh huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài hình thành
động cơ phạm tội và thực hiện tội phạm.
Phân tích khái niệm: Những đặc điểm nhân của người phạm tội “và” những tình huống, hoàn cảnh
khách quan bên ngoài phải thích ứng, phù hợp, có mối liên hệ “và” sự tác động lẫn nhau để hình thành
nên một chu trình 03 bước: Động cơ hóa→ Kế hoạch hóa→Hiện thực hóa.
Trong đó:
+ “và”: phải có đặc điểm cá nhân của người phạm tội và tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài
thì mới có hành vi phạm tội trên thực tế.
+ “và”: đặc điểm cá nhân của người phạm tội và tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài phải có
cả mối liên hệ và sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu thiếu một yếu tố “và” thì sẽ không thể hình thành nên chu trình→không hình thành tội phạm.
Nội dung:
-Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội luôn bao gồm 2 bộ phận cơ bản tác động lẫn nhau đó là:
Bộ phận thứ nhất: Các nhân tố bên ngoài thuộc về môi trường khách quan – những tình huống, hoàn
cảnh tạo ra sự thuận lợi cần thiết cho việc thực hiện một tội phạm cụ thể trong thực tế. Bộ phận thứ
hai: Các đặc điểm cá nhân của người phạm tội – những đặc điểm thuộc về người phạm tội, bao gồm
các khía cạnh về sinh học, tâm lý, xã hội của người phạm tội.
-Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện qua 03 khâu cơ bản:
Khâu thứ nhất: Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm.
“Quá trình hình thành động của tội phạm” là sự tương tác về mặt nhận thức (tâm lý cá nhân tiêu cực)
của người phạm tội với các yếu tố xã hội bên ngoài.
Trong đó, không sử dụng thời gian để đo lường quá trình hình thành tính động cơ mà đo lường bằng sự
tương tác về mặt nhận thức tiêu cực của cá nhân về hiện tượng đó với yếu tố xã hội bên ngoài. Tức là,
ngoài câu chuyện quyết định thực hiện hành vi tội phạm ra, người phạm tội vẫn có thể lựa chọn khác
mặc họ vẫn tiêu cực như thế. Quá trình đấu tranh này chính quá trình hình thành động cơ. Khâu
thứ nhất bao gồm hệ thống các nhu cầu, định hướng giá trị, các lợi ích và mục đích, kế hoạch trong đời
sống cá nhân.
Động của tội phạm chỉ được hình thành khi có sự tương tác của các đặc điểm cá nhân thuộc về người
phạm tội với những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đến từ môi trường khách quan bên ngoài.
Động cơ có 04 chức năng quan trọng:
+ Chức năng phản ánh: cho biết nguồn gốc của việc hình thành động cơ, những điều kiện sinh sống bất
lợi ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện nhân cách cá nhân;
+ Chức năng thúc đẩy: thể hiện sự cần thiết phải thực hiện tội phạm bằng mọi cách;
+ Chức năng điều chỉnh đối với hành vi: thể hiện qua việc điều chỉnh hành vi phạm tội, mức độ thực
hiện tội phạm và định hướng cho việc thực hiện tội phạm;
+ Chức năng kiểm tra: thể hiện ở sự đánh giá lại từng hành vi của cá nhân dự định sẽ thực hiện, trong
đó có hành vi phạm tội.
lOMoARcPSD| 61716317
Chính vì khâu thứ nhất còn diễn ra trong ý thức chủ quan của người phạm tội, chưa bất kỳ sự biểu
hiện nào ra bên ngoài thế giới khách quan nên nó chưa phải chịu bất kỳ sự điều chỉnh nào của nhà nước
và xã hội.
Khâu thứ hai: Kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm.
Ở khâu thứ hai, chủ thể sẽ xác định mục đích của hành vi, xác định cách thức, phương tiện, thủ đoạn,
địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm và ra các quyết định cụ thể. Dù đã có sự bộc lộ ra bên ngoài thế
giới khách quan thông qua một số hành vi nhất định của người phạm tội, nhưng những hành vi đó còn
hạn chế và đặc biệt là chưa được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể. Người phạm tội có thể đã thực
hiện một số hành vi để chuẩn bị về điều kiện cho việc thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi.
Khâu thứ hai tương ứng với giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 BLHS 2015
người phạm tội phải chịu TNHS trong trường hợp hành vi phạm tội là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng.
Khâu thứ ba: Trực tiếp thực hiện tội phạm:
khâu thứ ba, mức độ biểu hiện ra bên ngoài là đầy đủ trọn vẹn nhất đã được bộc lộ hẳn ra
thế giới khách quan bằng hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm và tất yếu làm biến đổi thế giới
khách quan.
→Ba khâu trong chế tâm hội của hành vi phạm tội luôn diễn ra theo một trình tự chặt chẽ;
trong đó, khâu trước là cơ sở, là tiền đề của khâu sau và không thể có sự đảo lộn, thay đổi.
Lưu ý:
Không phải bất cứ tội phạm nào khi thực hiện cũng bộc lộ đầy đủ chế gồm 03 khâu như trên
tùy thuộc vào sự khác nhau ở mỗi hành vi phạm tội, loại lỗi, sự phát triển của hoạt động phạm tội trong
thực tế chế tâm hội của hành vi phạm tội có được biểu hiện đầy đủ hay không. Thông
thường, chỉ loại tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý mới chế tâm hội được biểu hiện
đầy đủ gồm 03 khâu.
Việc phân loại cơ chế tâm lý hội của hành vi phạm tội được tiến hành theo 02 tiêu chí cơ bản
sau đây:
-Căn cứ vào mức độ hoàn thành của cơ chế:
chế tâm hội của hành vi phạm tội được bộc lộ đầy đủ (gồm cả 3 khâu). Loại chế này chỉ
được biểu hiện khi tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi cố ý. Ví dụ: Tội giết người, Tội cố ý gây
thương tích…
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được bộc lộ không đầy đủ. Có 2 dạng khiếm khuyết: Dạng
khiếm khuyết thứ nhất là chỉ có khâu thực hiện tội phạm trong thực tế - các tội phạm được thực hiện
với lỗi vô ý.
Dạng khiếm khuyết thứ hai chỉ khâu hình thành động cơ, kế hoạch hóa không khâu thực
hiện tội phạm. Trường hợp này có thể dẫn đến từ 02 nhóm nhân tố chủ quan hoặc khách quan trong s
tương tác lẫn nhau. Trong đó, nhân tố chủ quan là các trường hợp người phạm tội tự ý nửa chừng chấm
dứt việc thực hiện tội phạm (Điều 16 BLHS 2015), còn nhân tố khách quan là các trường hợp chuẩn b
phạm tội (Điều 14 BLHS 2015) phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS 2015), tội phạm không được thực
hiện đến cùng vì có sự trở ngại của hoàn cảnh khách quan không thuận lợi.
-Căn cứ vào nguồn gốc hình thành của cơ chế:
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ sự biến dạng của hệ thống nhu cầu và lợi
ích của cá nhân. Chính từ những nhu cầu biến dạng này đã thúc đẩy chủ thể tìm kiếm phương thức thỏa
mãn sẽ hình thành động cơ phạm tội khi gặp những hoàn cảnh điều kiện thuận lợi. Ví dụ: Sử dụng
trái phép chất ma túy, Quan hệ tình dục đồng giới, Mua dâm người chưa thành niên, Sự ngược đãi
hành hạ người khác…
Cơ chế tâm hội của hành vi phạm tội được hình thành từ những mâu thuẫn giữa nhu cầu, lợi ích
với khả năng của bản thân nhân. Ví dụ: Nhu cầu vượt trội về vật chất, nhưng khả năng để đáp ứng
lại hạn chế dẫn đến hình thành động cơ phạm tội để thỏa mãn tối đa nhu cầu cá nhân.
Cơ chế tâm lý hội của hành vi phạm tội được hình thành từ sự biến dạng của 1 số quan điểm, quan
niệm về đạo đức, pháp luật và định hướng giá trị của cá nhân. Ví dụ: Quan điểm sai lầm về sự tự do, về
nhân quyền dẫn đến việc coi tự do là muốn làm gì thì làm, tự do vô chính phủ hoặc coi biện pháp bạo
lực là phương thức hữu hiệu để giải quyết các mâu thuẫn dân sự…
lOMoARcPSD| 61716317
chế tâm lý hội của hành vi phạm tội được hình thành từ những khiếm khuyết về sai sót trong việc
đề ra thực hiện một số quyết định của bản thân nhân. Loại chế này biểu hiện sự thiếu đồng
nhất giữa động cơ ban đầu của cá nhân với kết quả cuối cùng của hành vi trên thực tế. Ví dụ: Sự thiếu
kiềm chế, hạn chế kiểm soát hành vi xử sự của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội; Sự thiếu
tập trung, nóng vội khi ra một số quyết định hành động của cá nhân… Ý
nghĩa của nhận thức CCTLXHCHVPT:
-Ý nghĩa to lớn trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề,
các quy luật tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội đã góp phần nâng cao hiệu quả của các mặt hoạt
động này.
-Giúp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra được những chủ trương, những biện pháp đúng đắn và có
hiệu quả trong việc phòng ngừa tội phạm, loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân phát sinh tội phạm
trong lối sống của cá nhân và cộng đồng. 2.2. Các tình huống, hoàn cảnh phạm tội cụ thể:
Nếu người phạm tội đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp thì các tình huống, hoàn cảnh đóng vai trò bổ
trợ.
“Tình huống” là các yếu tố thuộc về thời gian, không gian hoặc nạn nhân của tội phạm đã có vai trò
tạo điều kiện hỗ trợ cho tội phạm xảy ra. Căn cứ vào thời gian tồn tại của tình huống:
Tình huống tồn tại nhất thời, một lần: chỉ xuất hiện tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, được
người phạm tội nhanh chóng đánh giá và quyết định thực hiện tội phạm trong thực tế. Xuất phát từ tính
đặc trưng về thời gian nên nó cũng không thể cho phép người phạm tội có điều kiện để cân nhắc, tính
toán kỹ lưỡng.
dụ: Tài sản không người trông coi, Sự xúc phạm khiêu khích trong các va chạm hằng ngày…
Tình huống tồn tại trong một thời gian tương đối dài:
Ví dụ: Nạn nhân đi trên đường vắng vẻ; Việc áp giải phạm nhân trong tình trạng kém an toàn… Tình
huống tồn tại kéo dài mang tính lặp lại: là tình huống đặc trưng bởi sự ổn định của những tình huống
cùng loại về tính chất, thời gian tác động kéo dàithông thường được xác định bởi những nhân
có mối liên hệ nhất định cùng tham gia vào đó.
Ví dụ: Mâu thuẫn xung đột trong gia đình, trong các quan hệ xã hội, quan hệ công tác… Căn
cứ vào mức độ tác động của tình huống:
Tình huống khiêu khích tội phạm: được tạo ra bởi những mâu thuẫn, xung đột giữa các bên cùng tham
gia vào tình huống; thường được đặc trưng bởi những hành vi, cử chỉ không chính đáng, không hợp
pháp của một trong các bên tham gia. Ví dụ: Sự kích động, sự xúc phạm lẫn nhau…
Tình huống hỗ trợ tội phạm: được biểu hiện sự không xung đột về hình thức bề ngoài giữa các bên
tham gia nhưng lại tạo được sự thuận lợi cần thiết đối với việc thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Sự mất cảnh giác trong việc quản lý và bảo vệ tài sản; Sự chen lấn xô đẩy của đám đông làm
ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát hoàn cảnh xung quanh… Phân loai căn cứ vào nguồn gốc hình
thành của tình huống:
Tình huống do người phạm tội tạo ra:
+ Tình huống do người phạm tội tạo ra để liền sau đó thực hiện một hành vi phạm tội. dụ: Dùng giấy
tờ giả để lừa đảo; Dụ dỗ nạn nhân đến đoạn đường vắng để cướp tài sản…
+ Tình huống do người phạm tội tạo ra nhưng trước đó chưa có ý định phạm tội. Ví dụ: Tự để mình rơi
vào trạng thái say rượu; Tham gia vào một số hoạt động bất hợp pháp như đánh bạc, cho vay nặng lãi,
buôn lậu…
Tình huống do nạn nhân tạo ra: được tạo ra bởi một số đặc điểm thuộc về nạn nhân như yếu tố sinh học,
xã hội, tâm lý, hành vi của nạn nhân.
Tình huống phát sinh do các lực lượng tự nhiên, tự phát, do hoàn cảnh ngẫu nhiên:
Ví dụ như lũ lụt, hạn hán, hỏa hoạn…
Ý nghĩa: Nghiên cứu về các tình huống phạm tội mang lại nhiều giá trị rất lớn về mặt nhận thức cũng
như thực tiễn.
Về mặt nhận thức, giúp đánh giá một cách đầy đủ vai trò của từng nhóm tình huống trong việc làm phát
sinh tội phạm.
Về mặt thực tiễn, tạo sở cho việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể từ việc xóa
bỏ, hạn chế những tình huống thuận lợi đối với việc phát sinh một hành vi phạm tội trong thực tế. Khía
cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể:
lOMoARcPSD| 61716317
▪ Khái niệm:
“Khía cạnh nạn nhân” là một dạng tình huống cụ thể, tình huống do nạn nhân tạo ra và là những yếu
tố thuộc về nạn nhân của tội phạm, vai trò trong chế tâm xã hội của hành vi phạm tội, góp
phần làm phát sinh một tội phạm cụ thể gây thiệt hại cho chính nạn nhân. ▪ Nội dung:
1) Hành vi của nạn nhân: bao gồm các dạng hành vi sau:
Hành vi tích cực: những hành vi chính đáng, hợp pháp của nạn nhân gây thiệt hại cho chính nạn nhân.
Ví dụ: Thi hành công vụ hợp pháp; Tố giác tội phạm; Ngăn cản, truy đuổi tội phạm...
Hành vi tiêu cực: những hành vi không chính đáng, bất hợp pháp, vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật
tác động đến cá nhân người phạm tội hoặc với những người thân thích của họ. Ví dụ: Khiêu khích, tấn
công trước; Xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội…
Hành vi cẩu thả: hành vi vô ý, chủ quan, quá tự tin, dễ dãi đối với sự an toàn về sức khỏe, tính mạng,
tài sản, danh dự, nhân phẩm của bản thân nạn nhân. Loại hành vi này thường không hàm chứa những
mâu thuẫn trực tiếp giữa nạn nhân người phạm tội nhưng chính tính chất dễ dàng, không xung đột
bề mặt của tình huống mà đã làm hạn chế sự chú ý, tập trung của nạn nhân, làm yếu đi sự kiểm soát từ
bên trong dẫn đến việc họ dễ dàng bị xâm hại bởi hành vi phạm tội cụ thể. dụ: Đi bộ dưới lòng
đường; Mất cảnh giác trong việc bảo vệ tài sản; Thiếu tập trung trong việc điều khiển phương tiện giao
thông…
2) Các đặc điểm nhân thân của nạn nhân: bao gồm các đặc điểm về sinh học, hội, tâm lý.Đặc điểm
sinh học: trong số các đặc điểm sinh học thì nạn nhân thường rơi vào nhóm người chưa thành niên,
người già, phụ nữ, người có nhược điểm về thể chất và tinh thần.
Do đây là những người không khả năng tự vệ cao, yếu thế nên họ thường trở thành nạn nhân của các
tội phạm cụ thể. dụ: người già thường trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu như cướp
giật tài sản, trộm cắp tài sản vì họ có thể lực yếu, khả năng phản xạ thấp, không có khả năng tự bảo vệ
mình nên người phạm tội thuận lợi trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Đặc điểm xã hội: dấu hiệu nghề nghiệp, vị trí xã hội, hoàn cảnh kinh tế của nạn nhân đóng vai trò quan
trọng đối với việc thực hiện một số tội phạm cụ thể. Chẳng hạn như người phạm tội giết người vì lý do
công vụ của nạn nhân, khủng bố, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với nạn nhân những người
giàu, có hoàn cảnh kinh tế khá giả.
Đặc điểm tâm lý: sự cả tin, dễ dãi trong các mối quan hệ xã hội, sự hám lợi tạo điều kiện thuận lợi cho
một số hành vi phạm tội cụ thể như lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hiếp dâm.
3) Mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội:
Khi thực hiện một tội phạm cụ thể, người phạm tội luôn có sự cân nhắc, tính toán sao cho sự mạo hiểm
được giảm xuống ở mức độ thấp nhất và hành vi phạm tội phải đạt được tối đa mục tiêu mong đợi. Vì
vậy, sự hiểu biết về nạn nhân, nắm bắt được những thông tin chính xác về họ giữ vai trò quan trọng
trong việc lựa chọn phương thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện, địa điểm… để thực hiện tội phạm.
Chính mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội mà vấn đề này sẽ được giải quyết phù hợp, tạo sự
tự tin củng cố vững chắc động phạm tội. Quan hệ giữa nạn nhân người phạm tội thường thể
hiện đặc trưng dưới 02 dạng là quen biết và phụ thuộc.
+ Quan hệ quen biết: giữa nạn nhân và người phạm tội mối quan hệ quen biết nhau từ trước, điều
này khiến nạn nhân mất cảnh giác và tạo thuận lợi cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của
mình;
+ Quan hệ phụ thuộc: có vai trò quan trọng trong việc làm phát sinh tội phạm bởi tính lâu dài, liên tục
và ổn định của nó khi tác động đến người phạm tội. o Ví dụ: phụ thuộc về công tác, về tín ngưỡng tôn
giáo, về quan hệ gia đình, tình cảm, nuôi dưỡng… Trong số 03 yếu tố thuộc về nội dung của khía cạnh
nạn nhân trong nguyên nhân điều kiện của tội phạm cụ thể thì không yếu tố nào ảnh hưởng
lớn nhất, mà mỗi yếu tố có một vai trò nhất định.
Nghiên cứu khía cạnh nạn nhân của tội phạm có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, xác định một cách đầy đủ và toàn diện về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể.
Thứ hai, xác định tình hình tội phạm ẩn trong xã hội.
Thứ ba, xác địnhc biện pháp phòng ngừa những yếu tthuộc về những người nguy cơ là nạn nhân
của tội phạm.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61716317
CHƯƠNG 3: NGUYÊN NHÂN & ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM 1.
KHÁI NIỆM NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM: 1.1 Khái niệm:
“Nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm” là tổng hợp những hiện tượng quá trình xã hội xác định
tình hình tội phạm là hậu quả của chúng, đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội có khả năng
làm phát sinh, tồn tại tình hình tội phạm.
Nói cách khác, tình hình tội phạm là kết quả của sự tương tác giữa những hiện tượng và quá trình xã hội.
Nguyên nhân & điều kiện của tình hình tội phạm → Tình hình tội phạm = Hậu quả
Nguyên nhân của tình hình tội phạm là những nhân tố trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm trong
xã hội. Thể hiện những mâu thuẫn nhiều mặt trong đời sống xã hội (là nhân tố khách quan). Nguyên
nhân làm phát sinh tình hình tội phạm trong xã hội đó là sự tương tác của các nhân tố đối lập, xung đột
với nhau trên nhiều bình diện khác nhau trong đời sống xã hội. Vd: sự khủng hoảng, suy thoái kinh tế,
lạm phát, sự dư thừa nguồn lao động xã hội, phân phối thu nhập bất hợp lý, xung đột tư tưởng, học
thuyết... -> có khả năng làm phát sinh nhiều loại tội phạm.
Điều kiện của tình hình tội phạm là những nhân tố không có khả năng trực tiếp làm phát sinh tình hình
tội phạm, chỉ đóng vai trò tạo ra môi trường thuận lợi để tình hình tội phạm có thể phát sinh, để nguyên
nhân làm phát sinh tình hình tội phạm. Điều kiện được coi là thứ “xúc tác”, cái “ngẫu nhiên” cần thiết
làm phát sinh tình hình tội phạm vào đúng thời điểm mà những mâu thuẫn xung đột của các mặt đối lập
trong xã hội đang phát triển đến một giới hạn nào đó. Vd: sự mất cảnh giác, lơ là có thể tạo cơ hội thuận
lợi cho nhiều loại tội phạm phát triển trong mỗi giai đoạn nhất định.
1.3 Ý nghĩa nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm:
Thứ nhất, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tạo cơ sở để xây dựng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm trong xã hội.
Vì hoạt động phòng ngừa tội phạm trong thực tiễn chỉ đạt được hiệu quả khi có sự hiểu biết đầy đủ về
nguồn gốc phát sinh, tồn tại và thay đổi của tình hình tội phạm nên hoạt động phòng ngừa tội phạm
không thể tách rời khỏi việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện tình hình tội phạm. Phòng ngừa tội
phạm chỉ đạt hiệu quả khi nó sử dụng những thành tựu nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện tình hình tội phạm.
Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tạo cơ sở để hoạch định các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội một cách phù hợp, giảm thiểu các mâu thuẫn trong xã hội là nguyên
nhân sâu xa làm phát sinh tình hình tội phạm.
Việc soạn thảo, ban hành và thực hiện các chính sách nhằm phát triển kinh tế – xã hội trước mắt cũng
như về lâu dài cần thiết phải nắm bắt được kịp thời các nhân tố xã hội có khả năng làm phát sinh tình
hình tội phạm, để thông qua đó, có thể can thiệp, tác động kịp thời vào những vướng mắc, mâu thuẫn
phát sinh trong xã hội; từ đó, làm giảm thiểu, hạn chế mức độ căng thẳng, gay gắt của chúng, kiểm soát
chúng trong một giới hạn cho phép.
Điều này có nghĩa là việc kiểm soát được tình hình tội phạm trong xã hội duy trì sự phát triển kinh tế
xã hội một cách bền vững.
Mặt khác, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm giúp dự liệu trước những tác
động tiêu cực từ một số chính sách đối với đời sống xã hội, qua đó chủ động hạn chế những ảnh hưởng
không mong muốn của chúng để không làm phát sinh tội phạm trong xã hội.
Thứ ba, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tạo cơ sở cho việc hoạch định chính
sách về pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng.
2. PHÂN LOẠI NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN TÌNH HÌNH TỘI PHẠM:
Phân loại nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm để thấy được mức độ ảnh hưởng của chúng
trong việc làm phát sinh tình hình tội phạm đồng thời định hướng cho cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.
2.3. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành của nguyên nhân và điều kiện:
Việc phân loại nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm theo tiêu chí này xuất phát từ việc chúng
ta xem xét, đánh giá nguồn gốc hình thành của chúng từ vị trí của chủ thể phòng ngừa tội phạm là quốc
gia nơi có tội phạm phát sinh. lOMoAR cPSD| 61716317
Có 02 nhóm nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm như sau:
Nguyên nhân và điều kiện khách quan:
Đây là nhóm nguyên nhân và điều kiện không đến từ phía các chủ thể của hoạt động phòng chống tội
phạm, mà là những tác động đến từ các xu thế và những quá trình mang tính quốc tế. Ví dụ: xu thế hội
nhập quốc tế, suy thoái kinh tế khu vực và thế giới, sự chống phá của thế lực thù địch đối với nhà nước…
Nguyên nhân và điều kiện chủ quan:
Đây là nhóm nguyên nhân phát sinh từ những sai lầm, khiếm khuyết của các chủ thể trong hoạt động
quản lý nhà nước, xã hội, con người, trong các hoạt động ban hành và thực thi pháp luật của các cơ
quan nhà nước, trong hoạt động phòng, chống tội phạm của cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam.
CHƯƠNG 4:NGUYÊN NHÂN & ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI PHẠM CỤ THỂ 1. KHÁI NIỆM CHUNG:
1.1.Khái niệm tội phạm cụ thể và cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội:
“Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội” là mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giữa những đặc
điểm cá nhân của người phạm tội và những tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài hình thành
động cơ phạm tội và thực hiện tội phạm.
Phân tích khái niệm: Những đặc điểm cá nhân của người phạm tội “và” những tình huống, hoàn cảnh
khách quan bên ngoài phải thích ứng, phù hợp, có mối liên hệ “và” sự tác động lẫn nhau để hình thành
nên một chu trình 03 bước: Động cơ hóa→ Kế hoạch hóa→Hiện thực hóa. Trong đó:
+ “và”: phải có đặc điểm cá nhân của người phạm tội và tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài
thì mới có hành vi phạm tội trên thực tế.
+ “và”: đặc điểm cá nhân của người phạm tội và tình huống, hoàn cảnh khách quan bên ngoài phải có
cả mối liên hệ và sự tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu thiếu một yếu tố “và” thì sẽ không thể hình thành nên chu trình→không hình thành tội phạm. Nội dung:
-Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội luôn bao gồm 2 bộ phận cơ bản tác động lẫn nhau đó là:
Bộ phận thứ nhất: Các nhân tố bên ngoài thuộc về môi trường khách quan – những tình huống, hoàn
cảnh tạo ra sự thuận lợi cần thiết cho việc thực hiện một tội phạm cụ thể trong thực tế. Bộ phận thứ
hai: Các đặc điểm cá nhân của người phạm tội – những đặc điểm thuộc về người phạm tội, bao gồm
các khía cạnh về sinh học, tâm lý, xã hội của người phạm tội.
-Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được thể hiện qua 03 khâu cơ bản:
Khâu thứ nhất: Quá trình hình thành tính động cơ của tội phạm.
“Quá trình hình thành động cơ của tội phạm” là sự tương tác về mặt nhận thức (tâm lý cá nhân tiêu cực)
của người phạm tội với các yếu tố xã hội bên ngoài.
Trong đó, không sử dụng thời gian để đo lường quá trình hình thành tính động cơ mà đo lường bằng sự
tương tác về mặt nhận thức tiêu cực của cá nhân về hiện tượng đó với yếu tố xã hội bên ngoài. Tức là,
ngoài câu chuyện quyết định thực hiện hành vi tội phạm ra, người phạm tội vẫn có thể lựa chọn khác
mặc dù họ vẫn tiêu cực như thế. Quá trình đấu tranh này chính là quá trình hình thành động cơ. Khâu
thứ nhất bao gồm hệ thống các nhu cầu, định hướng giá trị, các lợi ích và mục đích, kế hoạch trong đời sống cá nhân.
Động cơ của tội phạm chỉ được hình thành khi có sự tương tác của các đặc điểm cá nhân thuộc về người
phạm tội với những tình huống, hoàn cảnh thuận lợi đến từ môi trường khách quan bên ngoài.
Động cơ có 04 chức năng quan trọng:
+ Chức năng phản ánh: cho biết nguồn gốc của việc hình thành động cơ, những điều kiện sinh sống bất
lợi ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện nhân cách cá nhân;
+ Chức năng thúc đẩy: thể hiện sự cần thiết phải thực hiện tội phạm bằng mọi cách;
+ Chức năng điều chỉnh đối với hành vi: thể hiện qua việc điều chỉnh hành vi phạm tội, mức độ thực
hiện tội phạm và định hướng cho việc thực hiện tội phạm;
+ Chức năng kiểm tra: thể hiện ở sự đánh giá lại từng hành vi của cá nhân dự định sẽ thực hiện, trong
đó có hành vi phạm tội. lOMoAR cPSD| 61716317
Chính vì khâu thứ nhất còn diễn ra trong ý thức chủ quan của người phạm tội, chưa có bất kỳ sự biểu
hiện nào ra bên ngoài thế giới khách quan nên nó chưa phải chịu bất kỳ sự điều chỉnh nào của nhà nước và xã hội.
Khâu thứ hai: Kế hoạch hóa việc thực hiện tội phạm.
Ở khâu thứ hai, chủ thể sẽ xác định mục đích của hành vi, xác định cách thức, phương tiện, thủ đoạn,
địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm và ra các quyết định cụ thể. Dù đã có sự bộc lộ ra bên ngoài thế
giới khách quan thông qua một số hành vi nhất định của người phạm tội, nhưng những hành vi đó còn
hạn chế và đặc biệt là chưa được mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể. Người phạm tội có thể đã thực
hiện một số hành vi để chuẩn bị về điều kiện cho việc thực hiện tội phạm được dễ dàng, thuận lợi.
Khâu thứ hai tương ứng với giai đoạn chuẩn bị phạm tội được quy định tại Điều 14 BLHS 2015 và
người phạm tội phải chịu TNHS trong trường hợp hành vi phạm tội là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Khâu thứ ba: Trực tiếp thực hiện tội phạm:
Ở khâu thứ ba, mức độ biểu hiện ra bên ngoài là đầy đủ và trọn vẹn nhất vì nó đã được bộc lộ hẳn ra
thế giới khách quan bằng hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm và tất yếu làm biến đổi thế giới khách quan.
→Ba khâu trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội luôn diễn ra theo một trình tự chặt chẽ;
trong đó, khâu trước là cơ sở, là tiền đề của khâu sau và không thể có sự đảo lộn, thay đổi. Lưu ý:
Không phải bất cứ tội phạm nào khi thực hiện cũng bộc lộ đầy đủ cơ chế gồm có 03 khâu như trên vì
tùy thuộc vào sự khác nhau ở mỗi hành vi phạm tội, loại lỗi, sự phát triển của hoạt động phạm tội trong
thực tế mà cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội có được biểu hiện đầy đủ hay không. Thông
thường, chỉ có loại tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý mới có cơ chế tâm lý xã hội được biểu hiện đầy đủ gồm 03 khâu.
Việc phân loại cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được tiến hành theo 02 tiêu chí cơ bản sau đây:
-Căn cứ vào mức độ hoàn thành của cơ chế:
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được bộc lộ đầy đủ (gồm cả 3 khâu). Loại cơ chế này chỉ
được biểu hiện khi tội phạm được thực hiện với hình thức lỗi cố ý. Ví dụ: Tội giết người, Tội cố ý gây thương tích…
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được bộc lộ không đầy đủ. Có 2 dạng khiếm khuyết: Dạng
khiếm khuyết thứ nhất là chỉ có khâu thực hiện tội phạm trong thực tế - các tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý.
Dạng khiếm khuyết thứ hai là chỉ có khâu hình thành động cơ, kế hoạch hóa mà không có khâu thực
hiện tội phạm. Trường hợp này có thể dẫn đến từ 02 nhóm nhân tố chủ quan hoặc khách quan trong sự
tương tác lẫn nhau. Trong đó, nhân tố chủ quan là các trường hợp người phạm tội tự ý nửa chừng chấm
dứt việc thực hiện tội phạm (Điều 16 BLHS 2015), còn nhân tố khách quan là các trường hợp chuẩn bị
phạm tội (Điều 14 BLHS 2015) và phạm tội chưa đạt (Điều 15 BLHS 2015), tội phạm không được thực
hiện đến cùng vì có sự trở ngại của hoàn cảnh khách quan không thuận lợi.
-Căn cứ vào nguồn gốc hình thành của cơ chế:
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ sự biến dạng của hệ thống nhu cầu và lợi
ích của cá nhân. Chính từ những nhu cầu biến dạng này đã thúc đẩy chủ thể tìm kiếm phương thức thỏa
mãn và sẽ hình thành động cơ phạm tội khi gặp những hoàn cảnh điều kiện thuận lợi. Ví dụ: Sử dụng
trái phép chất ma túy, Quan hệ tình dục đồng giới, Mua dâm người chưa thành niên, Sự ngược đãi và hành hạ người khác…
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ những mâu thuẫn giữa nhu cầu, lợi ích
với khả năng của bản thân cá nhân. Ví dụ: Nhu cầu vượt trội về vật chất, nhưng khả năng để đáp ứng
lại hạn chế dẫn đến hình thành động cơ phạm tội để thỏa mãn tối đa nhu cầu cá nhân.
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ sự biến dạng của 1 số quan điểm, quan
niệm về đạo đức, pháp luật và định hướng giá trị của cá nhân. Ví dụ: Quan điểm sai lầm về sự tự do, về
nhân quyền dẫn đến việc coi tự do là muốn làm gì thì làm, tự do vô chính phủ hoặc coi biện pháp bạo
lực là phương thức hữu hiệu để giải quyết các mâu thuẫn dân sự… lOMoAR cPSD| 61716317
Cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội được hình thành từ những khiếm khuyết về sai sót trong việc
đề ra và thực hiện một số quyết định của bản thân cá nhân. Loại cơ chế này biểu hiện sự thiếu đồng
nhất giữa động cơ ban đầu của cá nhân với kết quả cuối cùng của hành vi trên thực tế. Ví dụ: Sự thiếu
kiềm chế, hạn chế kiểm soát hành vi xử sự của cá nhân trong các mối quan hệ xã hội; Sự thiếu
tập trung, nóng vội khi ra một số quyết định hành động của cá nhân… Ý
nghĩa của nhận thức CCTLXHCHVPT:
-Ý nghĩa to lớn trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Những kết quả nghiên cứu các vấn đề,
các quy luật tâm lý nảy sinh trong hoạt động phạm tội đã góp phần nâng cao hiệu quả của các mặt hoạt động này.
-Giúp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra được những chủ trương, những biện pháp đúng đắn và có
hiệu quả trong việc phòng ngừa tội phạm, loại bỏ những yếu tố là nguyên nhân phát sinh tội phạm
trong lối sống của cá nhân và cộng đồng. 2.2. Các tình huống, hoàn cảnh phạm tội cụ thể:
Nếu người phạm tội đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp thì các tình huống, hoàn cảnh đóng vai trò bổ trợ.
“Tình huống” là các yếu tố thuộc về thời gian, không gian hoặc nạn nhân của tội phạm đã có vai trò
tạo điều kiện hỗ trợ cho tội phạm xảy ra. Căn cứ vào thời gian tồn tại của tình huống:
Tình huống tồn tại nhất thời, một lần: chỉ xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, được
người phạm tội nhanh chóng đánh giá và quyết định thực hiện tội phạm trong thực tế. Xuất phát từ tính
đặc trưng về thời gian nên nó cũng không thể cho phép người phạm tội có điều kiện để cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng.
Ví dụ: Tài sản không có người trông coi, Sự xúc phạm khiêu khích trong các va chạm hằng ngày…
Tình huống tồn tại trong một thời gian tương đối dài:
Ví dụ: Nạn nhân đi trên đường vắng vẻ; Việc áp giải phạm nhân trong tình trạng kém an toàn… Tình
huống tồn tại kéo dài mang tính lặp lại: là tình huống đặc trưng bởi sự ổn định của những tình huống
cùng loại về tính chất, thời gian tác động kéo dài và thông thường được xác định bởi những cá nhân
có mối liên hệ nhất định cùng tham gia vào đó.
Ví dụ: Mâu thuẫn xung đột trong gia đình, trong các quan hệ xã hội, quan hệ công tác… Căn
cứ vào mức độ tác động của tình huống:
Tình huống khiêu khích tội phạm: được tạo ra bởi những mâu thuẫn, xung đột giữa các bên cùng tham
gia vào tình huống; thường được đặc trưng bởi những hành vi, cử chỉ không chính đáng, không hợp
pháp của một trong các bên tham gia. Ví dụ: Sự kích động, sự xúc phạm lẫn nhau…
Tình huống hỗ trợ tội phạm: được biểu hiện ở sự không xung đột về hình thức bề ngoài giữa các bên
tham gia nhưng lại tạo được sự thuận lợi cần thiết đối với việc thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Sự mất cảnh giác trong việc quản lý và bảo vệ tài sản; Sự chen lấn xô đẩy của đám đông làm
ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát hoàn cảnh xung quanh… Phân loai căn cứ vào nguồn gốc hình
thành của tình huống:

Tình huống do người phạm tội tạo ra:
+ Tình huống do người phạm tội tạo ra để liền sau đó thực hiện một hành vi phạm tội. Ví dụ: Dùng giấy
tờ giả để lừa đảo; Dụ dỗ nạn nhân đến đoạn đường vắng để cướp tài sản…
+ Tình huống do người phạm tội tạo ra nhưng trước đó chưa có ý định phạm tội. Ví dụ: Tự để mình rơi
vào trạng thái say rượu; Tham gia vào một số hoạt động bất hợp pháp như đánh bạc, cho vay nặng lãi, buôn lậu…
Tình huống do nạn nhân tạo ra: được tạo ra bởi một số đặc điểm thuộc về nạn nhân như yếu tố sinh học,
xã hội, tâm lý, hành vi của nạn nhân.
Tình huống phát sinh do các lực lượng tự nhiên, tự phát, do hoàn cảnh ngẫu nhiên:
Ví dụ như lũ lụt, hạn hán, hỏa hoạn…
Ý nghĩa: Nghiên cứu về các tình huống phạm tội mang lại nhiều giá trị rất lớn về mặt nhận thức cũng như thực tiễn.
Về mặt nhận thức, giúp đánh giá một cách đầy đủ vai trò của từng nhóm tình huống trong việc làm phát sinh tội phạm.
Về mặt thực tiễn, tạo cơ sở cho việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm cụ thể từ việc xóa
bỏ, hạn chế những tình huống thuận lợi đối với việc phát sinh một hành vi phạm tội trong thực tế. Khía
cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể:
lOMoAR cPSD| 61716317 ▪ Khái niệm:
“Khía cạnh nạn nhân” là một dạng tình huống cụ thể, tình huống do nạn nhân tạo ra và là những yếu
tố thuộc về nạn nhân của tội phạm, có vai trò trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội, góp
phần làm phát sinh một tội phạm cụ thể gây thiệt hại cho chính nạn nhân. ▪ Nội dung:
1) Hành vi của nạn nhân: bao gồm các dạng hành vi sau:
Hành vi tích cực: những hành vi chính đáng, hợp pháp của nạn nhân gây thiệt hại cho chính nạn nhân.
Ví dụ: Thi hành công vụ hợp pháp; Tố giác tội phạm; Ngăn cản, truy đuổi tội phạm...
Hành vi tiêu cực: những hành vi không chính đáng, bất hợp pháp, vi phạm đạo đức, vi phạm pháp luật
tác động đến cá nhân người phạm tội hoặc với những người thân thích của họ. Ví dụ: Khiêu khích, tấn
công trước; Xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội…
Hành vi cẩu thả: hành vi vô ý, chủ quan, quá tự tin, dễ dãi đối với sự an toàn về sức khỏe, tính mạng,
tài sản, danh dự, nhân phẩm của bản thân nạn nhân. Loại hành vi này thường không hàm chứa những
mâu thuẫn trực tiếp giữa nạn nhân và người phạm tội nhưng chính tính chất dễ dàng, không xung đột
bề mặt của tình huống mà đã làm hạn chế sự chú ý, tập trung của nạn nhân, làm yếu đi sự kiểm soát từ
bên trong dẫn đến việc họ dễ dàng bị xâm hại bởi hành vi phạm tội cụ thể. Ví dụ: Đi bộ dưới lòng
đường; Mất cảnh giác trong việc bảo vệ tài sản; Thiếu tập trung trong việc điều khiển phương tiện giao thông…
2) Các đặc điểm nhân thân của nạn nhân: bao gồm các đặc điểm về sinh học, xã hội, tâm lý.Đặc điểm
sinh học: trong số các đặc điểm sinh học thì nạn nhân thường rơi vào nhóm người chưa thành niên,
người già, phụ nữ, người có nhược điểm về thể chất và tinh thần.
Do đây là những người không có khả năng tự vệ cao, yếu thế nên họ thường trở thành nạn nhân của các
tội phạm cụ thể. Ví dụ: người già thường trở thành nạn nhân của các tội xâm phạm sở hữu như cướp
giật tài sản, trộm cắp tài sản vì họ có thể lực yếu, khả năng phản xạ thấp, không có khả năng tự bảo vệ
mình nên người phạm tội thuận lợi trong việc thực hiện hành vi phạm tội.
Đặc điểm xã hội: dấu hiệu nghề nghiệp, vị trí xã hội, hoàn cảnh kinh tế của nạn nhân đóng vai trò quan
trọng đối với việc thực hiện một số tội phạm cụ thể. Chẳng hạn như người phạm tội giết người vì lý do
công vụ của nạn nhân, khủng bố, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản đối với nạn nhân là những người
giàu, có hoàn cảnh kinh tế khá giả.
Đặc điểm tâm lý: sự cả tin, dễ dãi trong các mối quan hệ xã hội, sự hám lợi tạo điều kiện thuận lợi cho
một số hành vi phạm tội cụ thể như lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hiếp dâm.
3) Mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội:
Khi thực hiện một tội phạm cụ thể, người phạm tội luôn có sự cân nhắc, tính toán sao cho sự mạo hiểm
được giảm xuống ở mức độ thấp nhất và hành vi phạm tội phải đạt được tối đa mục tiêu mong đợi. Vì
vậy, sự hiểu biết về nạn nhân, nắm bắt được những thông tin chính xác về họ giữ vai trò quan trọng
trong việc lựa chọn phương thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện, địa điểm… để thực hiện tội phạm.
Chính mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội mà vấn đề này sẽ được giải quyết phù hợp, tạo sự
tự tin và củng cố vững chắc động cơ phạm tội. Quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội thường thể
hiện đặc trưng dưới 02 dạng là quen biết và phụ thuộc.
+ Quan hệ quen biết: giữa nạn nhân và người phạm tội có mối quan hệ quen biết nhau từ trước, điều
này khiến nạn nhân mất cảnh giác và tạo thuận lợi cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình;
+ Quan hệ phụ thuộc: có vai trò quan trọng trong việc làm phát sinh tội phạm bởi tính lâu dài, liên tục
và ổn định của nó khi tác động đến người phạm tội. o Ví dụ: phụ thuộc về công tác, về tín ngưỡng tôn
giáo, về quan hệ gia đình, tình cảm, nuôi dưỡng… Trong số 03 yếu tố thuộc về nội dung của khía cạnh
nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể thì không có yếu tố nào có ảnh hưởng
lớn nhất, mà mỗi yếu tố có một vai trò nhất định.
Nghiên cứu khía cạnh nạn nhân của tội phạm có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, xác định một cách đầy đủ và toàn diện về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể.
Thứ hai, xác định tình hình tội phạm ẩn trong xã hội.
Thứ ba, xác định các biện pháp phòng ngừa những yếu tố thuộc về những người có nguy cơ là nạn nhân của tội phạm.