Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì? Lịch sử lớp 8

Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt dược những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

Môn:

Lịch Sử 8 356 tài liệu

Thông tin:
4 trang 1 tuần trước

Bình luận

Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để gửi bình luận.

Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì? Lịch sử lớp 8

Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt dược những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng. Tài liệu giúp bạn tham khảo ôn tập và đạt kết quả cao. Mời bạn đọc đón xem!

20 10 lượt tải Tải xuống
Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì? Lịch sử lớp 8
Nhân dân Việt Nam ta đã phải trải qua một thời kì chống Pháp đẫm máu và nước mắt. Vy
đâu là nguyên nhân khiến cho Pháp xâm lược Việt Nam? Hãy cùng Luật Minh Khuê m hiểu
qua bài viết sau nhé!
Mục lục bài viết
1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược
Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập,
có chủ quyền, đạt dược những ến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn
này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm
trọng.
Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất
đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ
biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.
Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn
chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách "bế quan cảng" của nhà Nguyễn
khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.
Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc "cấm đạo", đuổi giáo sĩ
phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho
sự nghiệp kháng chiến sau này.
Trong xã hội mâu thuẫn ngày càng dâng cao giữa nhân dân và địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán
tr nên phổ biến. Do đó nông dân đứng lên khởi nghĩa, chống triều đình ở khắp nơi. Nhiều
cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái
Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông
Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833 1835)...
Có thể thấy nh hình Việt Nam thời bấy giờ chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng nghiêm
trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, kinh tế chậm phát triển.
2. Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì?
2.1. Nguyên nhân chủ quan
Có thể khẳng định, sự khủng hoảng của chính quyền phong kiến Vit Nam nửa đầu thế kỷ
XIX là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến quân Pháp xâm lược Việt Nam.
- Vmặt chính trị:
+ Chính quyền thực hiện chính sách đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Sống dưới xã
hội phong kiến, có khá nhiều cuộc nổi dậy chống lại chế độ, nhưng đều bị dập tắt sau những
cuộc đàn áp đẫm máu và khốc liệt.
+ Chính quyền thực hiện chính sách đối ngoại một cách mù quáng, thần phục nhà Thanh, ban
hành Luật Gia Long, đóng cửa đất nước, không giao thương với bạn bè các nước.
+ Đây là một khó khăn đối với nhân dân ta; Do chính sách đóng cửa nên thương nhân không
thể giao dịch với thương nhân nước ngoài.
+ Tđó, dẫn đến nh trạng như hiện nay, người nông dân cũng phải chịu cảnh ế ẩm. Đời sống
nhân dân đã khổ, nay lại càng khốn khó.
- Vkinh tế:
+ Bãi bỏ những cải cách ến bộ của triều Tây Sơn làm cho sự phát triển kinh tế đất nước bị
đình trệ. Các ngành kinh tế: nông nghiệp, ểu thủ công nghiệp, thương mại không có cơ hội
phát triển.
+ Làm cho đời sống nhân dân cực khổ, kèm theo sưu cao, ngoài ra còn phải gánh chịu thiên
tai, dịch bệnh.
+ Giữa triều đình nhà Nguyễn và nhân dân ngày càng nảy sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn dẫn
đến nhiều cuộc nổi dậy chống lại nhà nước phong kiến.
+ Tthời Gia Long đến đầu giặc Pháp đã có gần 500 cuộc khởi nghĩa do nông dân lãnh đạo.
Điều này khiến cho triều Nguyễn lâm vào nh trạng khủng hoảng.
2.2. Nguyên nhân khách quan
- Do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hợp pháp, nhu cầu thị trường và thuộc địa tăng lên
nên các nước phương Tây đẩy mạnh việc xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị
trường và vơ vét tài nguyên. Chúng thấy Việt Nam là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu
tài nguyên, khoảng sản. Việt Nam được coi là miếng mồi ngon mà người Pháp đã nhắm tới
trước đó. Cùng với đó là nguyên nhân chủ quan được nêu trên, đó là lúc mà chế độ phong
kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng và dễ bề thôn nh hơn.
- Ngoài ra, Việt Nam là ngã ba của Đông Dương, vận chuyển hàng hóa ven biển rất thuận lợi
nên dễ bị xâm lược. Xâm lược Việt Nam trước, âm mưu sau đó là các nước láng giềng thân
cận
- Việt Nam có dân số đông nhưng trình độ dân trí thấp, là nguồn cung cấp số ợng lớn ngưi
rẻ. Trong thời kỳ phong kiến, nhân dân ta phải chịu cảnh áp bức, lầm than. Ăn không đủ no,
mặc không đủ ấm thì không học được. Đây là một thiệt thòi rất lớn. Thực dân Pháp thấy điều
này có lợi, nếu chúng thống trị được Việt Nam thì đây sẽ là lực lượng sản xuất chủ lực.
- Việt Nam là thị trường êu thụ hàng hóa lớn của Pháp. Điều này sẽ làm cho nền kinh tế
Pháp phát triển mạnh mẽ hơn.
3. Quá trình Pháp chuẩn bị xâm lược Việt Nam
Người phương Tây, đầu ên là các lái buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, đã biết đến Việt Nam
từ thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn Lôn của Việt Nam, nhưng
không thành. Trong cuộc chạy đua thôn nh phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc
truyền đạo Thiên Chúa để chuẩn bị ến hành cuộc xâm lược.
Thế kỉ XVII, các giáo sĩ Pháp đã tới Việt Nam truyền đạo; một số giáo sĩ kết hợp truyền giáo
với việc dò xét nh hình, vẽ bản đồ, chuẩn bị cho cuộc xâm nhập của tư bản Pháp.
Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực
ớc ngoài để khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc (Pi-nhỏ đờ -hen) đã nằm cơ
hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam.
Nhờ sự môi giới của Bá Đa Lộc, Hiệp ước Vecxai (1787) được kí kết. Pháp hứa sẽ đem quân
sang giúp Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn ; còn Nguyễn Ảnh nhượng cho Pháp cảng Hội An, đảo
Côn Lớn và được độc quyền buôn bán ở Việt Nam. Nhưng vì nhiều lí do, bản Hiệp ước này đã
không thực hiện được.
Đến giữa thế kỉ XIX, nước Pháp phát triển nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo
riết m cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực châu Á. Năm
1857, Na---ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta ; ếp đó cho
sứ thần tới Huế đòi được "tự do buôn bán và truyền đạo". Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải quân
và Thuộc địa Pháp tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh - Mĩ xâm lược
Trung Quốc lệnh cho Phó Đô đốc Ri-gôn đơ Giơ-nui-y chỉ huy hạm đội Pháp đánh Việt Nam
ngay sau khi chiếm được Quảng Châu (Trung Quốc).
4. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858
Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31/8/1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha với
khoảng 3 000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển
Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng
buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.
Sáng 1/9/1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ.
Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn
Trà.
Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó
lại ch cực thực hiện "vườn không nhà trống" gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân
Pháp - Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng (từ cuối tháng 8/1858 đến đầu tháng 2/1859)
trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lưc. Khí thế kháng chiến
sục sôi trong nhân dân cả c. Tại Đà Nẵng, nhân dân tổ chức thành đội ngũ, chủ động m
địch mà đánh. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận "dân quân gồm tất cả những ai không đau
ốm và không tàn tật". Từ Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị tự chiêu mộ 200 người, chủ yếu
là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. Cuc
kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu "đánh nhanh thắng
nhanh" của Pháp.
Trên đây là nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam và quá trình chuẩn bị cho kế hoạch xâm
ợc Việt Nam của Pháp. Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã theo dõi!
| 1/4

Preview text:

Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì? Lịch sử lớp 8
Nhân dân Việt Nam ta đã phải trải qua một thời kì chống Pháp đẫm máu và nước mắt. Vậy
đâu là nguyên nhân khiến cho Pháp xâm lược Việt Nam? Hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu qua bài viết sau nhé!

Mục lục bài viết
1. Tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược
Vào giữa thế kỉ XIX, trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập,
có chủ quyền, đạt dược những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn
này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.

Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất
đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ
biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.

Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn
chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách "bế quan cảng" của nhà Nguyễn
khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.

Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc "cấm đạo", đuổi giáo sĩ
phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho
sự nghiệp kháng chiến sau này.

Trong xã hội mâu thuẫn ngày càng dâng cao giữa nhân dân và địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán
trở nên phổ biến. Do đó nông dân đứng lên khởi nghĩa, chống triều đình ở khắp nơi. Nhiều
cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái
Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông
Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833 1835)...

Có thể thấy tình hình Việt Nam thời bấy giờ chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng nghiêm
trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, kinh tế chậm phát triển.

2. Nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam là gì?
2.1. Nguyên nhân chủ quan
Có thể khẳng định, sự khủng hoảng của chính quyền phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XIX là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến quân Pháp xâm lược Việt Nam.

- Về mặt chính trị:
+ Chính quyền thực hiện chính sách đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân. Sống dưới xã
hội phong kiến, có khá nhiều cuộc nổi dậy chống lại chế độ, nhưng đều bị dập tắt sau những
cuộc đàn áp đẫm máu và khốc liệt.

+ Chính quyền thực hiện chính sách đối ngoại một cách mù quáng, thần phục nhà Thanh, ban
hành Luật Gia Long, đóng cửa đất nước, không giao thương với bạn bè các nước.

+ Đây là một khó khăn đối với nhân dân ta; Do chính sách đóng cửa nên thương nhân không
thể giao dịch với thương nhân nước ngoài.

+ Từ đó, dẫn đến tình trạng như hiện nay, người nông dân cũng phải chịu cảnh ế ẩm. Đời sống
nhân dân đã khổ, nay lại càng khốn khó.
- Về kinh tế:
+ Bãi bỏ những cải cách tiến bộ của triều Tây Sơn làm cho sự phát triển kinh tế đất nước bị
đình trệ. Các ngành kinh tế: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại không có cơ hội phát triển.

+ Làm cho đời sống nhân dân cực khổ, kèm theo sưu cao, ngoài ra còn phải gánh chịu thiên tai, dịch bệnh.
+ Giữa triều đình nhà Nguyễn và nhân dân ngày càng nảy sinh nhiều bất đồng, mâu thuẫn dẫn
đến nhiều cuộc nổi dậy chống lại nhà nước phong kiến.

+ Từ thời Gia Long đến đầu giặc Pháp đã có gần 500 cuộc khởi nghĩa do nông dân lãnh đạo.
Điều này khiến cho triều Nguyễn lâm vào tình trạng khủng hoảng.

2.2. Nguyên nhân khách quan
- Do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hợp pháp, nhu cầu thị trường và thuộc địa tăng lên
nên các nước phương Tây đẩy mạnh việc xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị
trường và vơ vét tài nguyên. Chúng thấy Việt Nam là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu
tài nguyên, khoảng sản. Việt Nam được coi là miếng mồi ngon mà người Pháp đã nhắm tới
trước đó. Cùng với đó là nguyên nhân chủ quan được nêu trên, đó là lúc mà chế độ phong
kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng và dễ bề thôn tính hơn.

- Ngoài ra, Việt Nam là ngã ba của Đông Dương, vận chuyển hàng hóa ven biển rất thuận lợi
nên dễ bị xâm lược. Xâm lược Việt Nam trước, âm mưu sau đó là các nước láng giềng thân cận

- Việt Nam có dân số đông nhưng trình độ dân trí thấp, là nguồn cung cấp số lượng lớn người
rẻ. Trong thời kỳ phong kiến, nhân dân ta phải chịu cảnh áp bức, lầm than. Ăn không đủ no,
mặc không đủ ấm thì không học được. Đây là một thiệt thòi rất lớn. Thực dân Pháp thấy điều
này có lợi, nếu chúng thống trị được Việt Nam thì đây sẽ là lực lượng sản xuất chủ lực.

- Việt Nam là thị trường tiêu thụ hàng hóa lớn của Pháp. Điều này sẽ làm cho nền kinh tế
Pháp phát triển mạnh mẽ hơn.

3. Quá trình Pháp chuẩn bị xâm lược Việt Nam
Người phương Tây, đầu tiên là các lái buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, đã biết đến Việt Nam
từ thế kỉ XVI. Đến thế kỉ XVII, người Anh đã định chiếm đảo Côn Lôn của Việt Nam, nhưng
không thành. Trong cuộc chạy đua thôn tính phương Đông, tư bản Pháp đã lợi dụng việc
truyền đạo Thiên Chúa để chuẩn bị tiến hành cuộc xâm lược.

Thế kỉ XVII, các giáo sĩ Pháp đã tới Việt Nam truyền đạo; một số giáo sĩ kết hợp truyền giáo
với việc dò xét tình hình, vẽ bản đồ, chuẩn bị cho cuộc xâm nhập của tư bản Pháp.

Cuối thế kỉ XVIII, khi phong trào nông dân Tây Sơn nổ ra, Nguyễn Ánh cầu cứu các thế lực
nước ngoài để khôi phục lại quyền lực. Giám mục Bá Đa Lộc (Pi-nhỏ đờ Bê-hen) đã nằm cơ
hội đó, tạo điều kiện cho tư bản Pháp can thiệp vào Việt Nam.

Nhờ sự môi giới của Bá Đa Lộc, Hiệp ước Vecxai (1787) được kí kết. Pháp hứa sẽ đem quân
sang giúp Nguyễn Ánh đánh bại Tây Sơn ; còn Nguyễn Ảnh nhượng cho Pháp cảng Hội An, đảo
Côn Lớn và được độc quyền buôn bán ở Việt Nam. Nhưng vì nhiều lí do, bản Hiệp ước này đã
không thực hiện được.

Đến giữa thế kỉ XIX, nước Pháp phát triển nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa, càng ráo
riết tìm cách đánh chiếm Việt Nam để tranh giành ảnh hưởng với Anh ở khu vực châu Á. Năm
1857, Na-pô-lê-ông III lập ra Hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta ; tiếp đó cho
sứ thần tới Huế đòi được "tự do buôn bán và truyền đạo". Cùng lúc, Bộ trưởng Bộ Hải quân
và Thuộc địa Pháp tăng viện cho hạm đội Pháp ở Thái Bình Dương để cùng Anh - Mĩ xâm lược
Trung Quốc và lệnh cho Phó Đô đốc Ri-gôn đơ Giơ-nui-y chỉ huy hạm đội Pháp đánh Việt Nam
ngay sau khi chiếm được Quảng Châu (Trung Quốc).

4. Chiến sự ở Đà Nẵng năm 1858
Sau nhiều lần đưa quân tới khiêu khích, chiều 31/8/1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha với
khoảng 3 000 binh lính và sĩ quan, bố trí trên 14 chiến thuyền, kéo tới dàn trận trước cửa biển
Đà Nẵng. Âm mưu của Pháp là chiếm Đà Nẵng làm căn cứ, rồi tấn công ra Huế, nhanh chóng
buộc triều đình nhà Nguyễn đầu hàng.

Sáng 1/9/1858, địch gửi tối hậu thư, đòi Trấn thủ thành Đà Nẵng trả lời trong vòng 2 giờ.
Nhưng không đợi hết hạn, liên quân Pháp - Tây Ban Nha đã nổ súng rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.

Quân dân ta anh dũng chống trả quân xâm lược, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của chúng, sau đó
lại tích cực thực hiện "vườn không nhà trống" gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Liên quân
Pháp - Tây Ban Nha bị cầm chân suốt 5 tháng (từ cuối tháng 8/1858 đến đầu tháng 2/1859)
trên bán đảo Sơn Trà. Về sau, quân Tây Ban Nha rút khỏi cuộc xâm lược. Khí thế kháng chiến
sục sôi trong nhân dân cả nước. Tại Đà Nẵng, nhân dân tổ chức thành đội ngũ, chủ động tìm
địch mà đánh. Thực dân Pháp đã phải thừa nhận "dân quân gồm tất cả những ai không đau
ốm và không tàn tật". Từ Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị tự chiêu mộ 200 người, chủ yếu
là học trò của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường. Cuộc
kháng chiến của quân dân ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp.

Trên đây là nguyên nhân Pháp xâm lược Việt Nam và quá trình chuẩn bị cho kế hoạch xâm
lược Việt Nam của Pháp. Xin chân thành cảm ơn bạn đọc đã theo dõi!