Nguyên nhân và thực trạng của di chuyển lao động Chuyên môn cao quốc tế học phần Xã hội học pháp luật

Nguyên nhân và thực trạng của di chuyển lao động Chuyên môn cao quốc tế học phần Xã hội học pháp luật của trường đại học Luật Hà Nội giúp sinh viên củng cố, ôn tập kiến thức và đạt kết quả cao trong bài thi kết thúc học phần. Mời bạn đón đón xem! 

lOMoARcPSD|27879 799
I. NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG
CHUYÊN MÔN CAO QUỐC TẾ
1. Thực trạng của di chuyển lao đng chuyên môn cao quốc tế
Di chuyển lao động có chuyên môn cao quốc tế tăng rất nhanh từ những năm
1970. c nước châu Phi, Caribbean Trung Mỹ tlệ di chuyển lao động
chuyên môn cao nhiều nhất. Trong những m 2000, hơn một na n số trình
độ đại học ở Trung Mỹ quốc đo Caribbean đã di chuyển và sinh sống nước
ngi. Gần 20% lao động chuyên môn cao đã rời khỏi vùng châu Phi cận
Sahara. Điều đó chứng tỏ rằng nguồn nhân lực đang ngày ng được quốc tế hóa
chính sách di của c nước giàu xu hướng i cuốn lao động chuyên
n cao.
Đặc biệt, di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế từ châu Á đến Mỹ,
Canada , Úc và Anh tăng nhanh trong những năm 1990s. Nhu cầu công nghệ
thông tin lao động chuyên môn cao ngày càng tăng các nước Tổ chức
Hợp tác pt triển kinh tế (OECD) chính là nguyên nhân của các cuộc cải cách
chính sách và điều lệ di cư, tạo thuận lợi cho sự di chuyển lao động chuyên môn
cao. Di chuyển lao động chuyên môn cao ngày ng ng các nước OECD,
nhưng chủ yếu tập trung vào các chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin
(IT), các n nghiên cứu và quản giỏi. Trong khi di chuyển lao động chun
n cao nội bộ các nước liên minh châu Âu (EU) còn hạn chế thì di chuyển
lao động chuyên môn cao giữa EU với các nước kc ngi EU đang ngày càng
tăng. Ví dụ, lao động chuyên môn cao tại Pháp, Anh Đức là những nguồn
lực chính di chuyển tới Mỹ với chương trình visa tạm thời H1B. Mỹ cũng
nhiều chính sách khuyến khích công dân nước mình m việc tạm thời tại các
nước OECD. Hai đặc điểm nổi bật của di chuyển lao động chuyên môn cao tới
Mỹ, đó là:
Thứ nhất, di chuyển lao động chuyên n cao tạm thời (temporary) đến các
nước phát triển (Mỹ, Anh...) tăng nhanh trong nửa sau thập k1990, trong khi di
chuyn lao động chuyên n cao tính dài hạn (permanent) như c kỹ sư, các
chuyên viên máy tính lại giảm rất mạnh từ năm 1992;
Thứ hai, làn ng di chuyển lao động chuyên n cao trong c ngành như
c sĩ, các chuyên gia y tế cao cấp ... đang tăng rất mạnh trong những m 2000.
Bảng 1: Lao động di chuyển quốc tế giai đoạn 1960 - 2010
(Đơn vị: Triệu người)
Năm
Số lao động di chuyển quốc tế
1960
75,9
1970
81,5
1980
99,8
1990
155,5
2000
178,5
2008
200,0
2010
213,9
Nguồn: United Nations (20090, International Migrations Stock:
The 2008 Revision and World Economic and Social Survey.
lOMoARcPSD|27879 799
Trong những m gần đây, gắn liền với quá trình toàn cầu hóa, ng chảy của
lao động chuyên n cao sự gia tăng về qui tốc độ, đồng thời ng
chảy cũng đan xen nhau, nếu như trước đây thường từ các nước m phát triển
đến các nước phát triển, thì nay có cả chiều ngược lại và đan xen nhau.
Trước hết dòng chảy từ các nước đang phát triển tới c ớc phát triển
đang diễn ra rất mạnh một số nước, nơi mà những người trình độ chuyên
n, các nhà nghiên cứu đi đến các nước phát triển để học tập, ng tác, sinh
sống và không trở về. Những người này đã được nước sở tại đón tiếp nồng hậu,
thậm cn i kéo họ, c quốc gia phát triển hiểu rằng khi khoa học và
ng nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì sự phát triển của đất nước,
tăng trưởng kinh tế, tiến bxã hội phụ thuc vào khối lượng chất xám” mà h
tập hợp được. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp ng trở thành động lực thúc đẩy c nước đang pt triển gia tăng nguồn
lực “có chất ợng caocủa mình bằng cách tập trung hơn nữa cho phát triển
giáo dục, đào tạo. Một trong những hướng ưu tiên của nhiều nước đang pt
triển gửi người triển vọng sang các nước phát triển, c nước nền giáo
dục phát triển, trình độ khoa học công nghệ tiên tiến để học tập, nghiên cứu với
kỳ vọng gia ng thêm được nguồn lực “chất lượng caotiếp nhn được s
chuyn giao công nghệ mới.
Theo Tổ chức những người di quốc tế (OIM), con số những người bằng
cấp ở châu Phi ra đi những năm đầu 1980 40.000 người, thì m 1987 đã
80.000 người - tăng gấp đôi. Riêng Zimbabue, nước bị ảnh hưởng nặng nhất
với hơn 50% nhân viên y tế tay nghề cao đã chọn “nhiệm sở” ở nước ngoài. S
ra đi nàynh ởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của lục địa vốn đã
nghèo đói này. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), cu Phi đang thiếu tới 1
triệu nhân viên y tế, trong khi đó xu hướng ra đi của lực lượng này đang xu
hướng gia tăng trước nhu cầu các ớc phát triển. Riêng Mỹ, tính đến năm
2020 cần tới 800.000 hộ lí và 200.000 bác sĩ từ nước ngoài. Mỗi nhân viên y tế
ra đi châu Phi mất 500.000 USD với một bác và 200.000 USD với một y
cho chi phí huấn luyện, đào tạo.
Mêhicô cũng quốc gia chịu ảnh hưởng của tình trạng di chuyển lao động
chuyên môn cao. Theo công bcủa Hội đồng khoa học và Công nghquốc gia
Mêhicô (CONACYT) từ 1971 đến 2005 đã có 2.100 người trình độ chun
n cao ra ớc ngoài không trở về, khiến Mehicô thiệt hại hơn 106,5 triệu
USD. Đáng chú ý trong 4 năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống Vicente Fox đã
tới 670 sinh viên tốt nghiệp mà không trở về Tổ quốc
1
.
2. Nguyên nhân
Di chuyển "lao động chuyên n cao" một hiện ợng bình thường, và
ngày càng xảy ra thường xuyên hơn của thị trường lao động. Nền kinh tế ng
phát triển, hiện tượng này càng phổ biến, và là điều kiện không thể thiếu của sự
phát triển lành mạnh. Những người lao động tri thức những người có tính di
động rất cao. Muốn đẩy nhanh sự pt triển kinh tế - xã hội và xây dựng nền
kinh tế tri thức, thì các quốc gia phải khôn ngoan đối mặt với hiện tượng di
chuyn của những người lao động i chung và nời lao động tri thức i riêng,
chính sách "trọng dụng" họ, tạo mọi điều kiện (về vật chất tinh thần) để họ
làm việc hiệu quả. Theo c chuyên gia kinh tế, 4 nhóm nguyên nn cơ
bản sau dẫn đến sự di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế:
1
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 27/2/2008.
lOMoARcPSD|27879 799
Di chuyển lao động… 67
1) Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là do kết quả của q trình
toàn cầu a. Quá trình toàn cầu hoá làm tăng chênh lệch thu nhập giữa c quốc
gia. Mức chênh lệch ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các quốc gia, dẫn
tới sự phát triển không đồng đều về kinh tế hội. Quá trình toàn cầu hóa
những chính sách di chn lựa ny ng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyn lao động có chuyên môn cao quốc tế. Trong mỗi quốc gia, tri thức giáo
dục vẫn được coi yếu tố quyết định đến việc di chuyển lao động. Lao động
càng có trình độ chuyên n cao càng xu hướng di nhiều. Trình độ giáo
dục chính nhân tố thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động. Giáo dục cũng làm tăng
khng di chuyển lao động ra nước ngoài. Tn cầu hóa được thể hiện mnh
trong những m 1990, đó cuộc cách mạng công nghthông tin và sự liên kết
kinh tế của thị trường sản phẩm (toàn cầu hóa các công ty ngày càng tăng).
2) Di chuyển lao động chuyên n cao quốc tế hậu quả của sự khan hiếm
lao động chuyên môn cao của nước nhận lao động. Sự khan hiếm lao động
chuyên n cao được phản ánh thông qua việc trả lương cho lao động chuyên
n cao hơn mức thu nhp của lao động trong ớc. Lao động chuyên môn
cao thường tham gia vào các nnh công nghiệp có knăng cao (high tech),
o việc quản các doanh nghiệp đa quốc gia (MNEs) tham gia vào các
ngành khoa hc công nghệ, các ngành công nghiệp tri thức toàn cầu.
Di chuyển lao động chuyên môn cao được đặc trưng bởi “cầu kéo” (demand
pull) từ phía các nước nhận lao động. Các chính sách di chuyển lao động của
nước nhận lao động phản ánh sự thiếu hụt của thị trường lao động trong nước.
Kết hợp ng với những tác động của sự chọn lựa từ phía cung (nước gửi lao
động). Điều này sẽ dẫn đến tỉ lệ di chuyển vốn nhân lực chuyên n cao từ
các nước đang phát triển tới các nước phát triển.
3) Do chính sách "thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao" của các nước
phát triển. Sự “di chuyểnngày càng tăng của “nguồn nn lực chất lượng cao
là do nước nhận lao động đã dành cho họ những điều kiện làm việc tốt hơn, thu
nhập cao hơn, i trường pt huy trí tuệ tốt hơn... Trong s150 triệu người
tham gia các hoạt động khoa học vàng nghệ trên thế giới, thì 90% số họ sinh
sống và làm việc 7 nước công nghiệp pt triển nhất; riêng Mỹ và Canada
chiếm khoảng 25%. Do các nước đang phát triển không đủ phương tiện
điều kiện để đối phó với sự mất mát nguồn nhân lực khoa học, không phát huy
khai thác hết được tiềm năng của đội ngũ c nhà khoa học. Trong khi đó,
điều kiện làm việc của các nhà khoa học các nước pt triển thuận lợi hơn
nhiều. Sự chênh lệch về mức thu nhập trong cùng một chức danh khoa học giữa
hai nm nước lên đến 12 lần. các nước đang pt triển, c nnh ng
nghiệp, công ngh các trường đại học không khả năng kết hợp với nhau đ
làm việc, từ đó gây ra cảm giác thất vọng thúc đẩy “lao động chuyên n” di
chuyn.
4) Do thiếu dịch vụ bảo hiểm và cơ chế quản rủi ro. các nước phát triển
rủi ro trong thu nhập được tối thiểu hóa thông qua thị trường bảo hiểm của
nhân Chính phủ. Song các nước đang phát triển do chế quản rủi ro
không hn hảo, người lao động khó khả ng tiếp cận được thị trường bảo
hiểm. Do vậy, người lao động có xu hướng di chuyển về thị tờng lao động có
bảo hiểm để tối đa hóa nguồn thu nhập và tối thiểu a những mất mát, rủi ro.
Những lao động tri thức, chuyên môn cao hơn hết lại những người nhận
thức rõ điều này. Và do những hạn chế, yếu kém trong cơ chế, chính sách các
nước đang phát triển đã tạo ra dòng di chuyển lao động quốc tế mạnh
II. GIẢI PP HẠN CHẾ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO
QUỐC TẾ
Vấn đề cần có chính sách và giải pháp thỏa đáng đối với mỗi nhân trong
ng di chuyển lao động chuyên môn cao. Song, trong một nền kinh tế nghèo
n với những tiềm ng tăng trưởng không thích hợp, thì sự trở vcủa nguồn
vốn nhân lực sẽ rất thấp. Điều đáng chú ý là, sự khác nhau căn bản giữa một nền
kinh tế đóng và một nền kinh tế mở đối với sự di chuyển không chỉ là trong vấn
đề hội, mà n cả trong việc khuyến khích con người. Hiện tượng di sẽ
được hình thành nếu như việc khuyến khích ngày càng tăng nhằm được
chuyên n cao đây chính hiện tượng chảy máu chất xám” lợi
(benefical brain drain). Qua dòng chảy này, các cá nhân điều kiện tiếp nhận
những kiến thức và knăng lao động cao hơn, có cơ hội đcải thiện điều kiện
sống và tham gia thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
1. Chính sách đối với di chuyển lao động chuyênn cao quốc tế
Mối lo ngại về di chuyển lao động chuyên môn cao tiếp tục tăng do tiến trình
toàn cầu hoá - hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu làm tăng thêm sự di chuyển
ra ớc ngoài của c lao động. Mặc dù nhận thức được sự mất mát lớn của
di chuyn lao động chuyên môn cao ra nước ngoài, song chi phí tiềm năng đ
hạn chế lao động di cư rất lớn. Vì vậy, chính sách kiềm chế di chuyển lao động
chuyên môn cao được c nhà hoạch định chính sách thực hiện theo 2 hướng
chính sách sau:
Thứ nhất, tăng chi phí tư nhân để chiếm hữu vốn nhân lực phù hợp với quyền
lợi cá nn do việc di chuyển lao động chuyên môn cao ra nước ngi;
Thứ hai, khuyến khích sự tham gia của người lao động vào c hoạt động kinh
tế, chính trị trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho hduy tquyền ng dân,
quyền bầu cử và thậm chí giúp họ tái định cư nếu họ muốn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 càng thúc đẩy xu hướng di cư
lao động quốc tế tăng mạnh. Dự báo lao động di cư quốc tế tăng lên 213,9 triệu
người o năm 2010. Điều này khẳng định là vẫn cần thiết duy trì thị trường lao
lOMoARcPSD|27879 799
Di chuyển lao động… 69
động mở cho lao động di cư, bởi chính họ những người tham gia tích cực nhất
trong quá trình phát triển kinh tế kể cả nước nhận lao động nước gửi lao động.
Vì vậy, các chính sách kinh tế của các nước phải đảm bảo được quyền lợi lợi
ích của người lao động di cư. Đặc biệt, trong cuộc khủng hoảng i chính toàn
cầu, cần sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa ớc nhận lao động nước gửi
lao động để phát huy được hết hiệu quả của lao động chuyên môn cao quốc tế.
2. Giải pháp hạn chế di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế
Nhìn chung, di chuyển lao động chuyên môn cao ảnh hưởng nhất định đến
chiến lược pt triển nguồn nhân lực và pt triển năng lực nội sinh của đất nước.
Để hạn chế tình trạng di chuyển lao động có chuyên n cao, đồng thời lại
thể thu hút được lao động có trình độ chuyên môn cao, nhiều nước đang phát
triển đang nỗ lực đưa ra nhiều giải pháp nhằm giữ “chất xám” lại. Hiển nhiên,
để giữ “chất xám” ở lại, biện pháp tốt nhất là các ớc cần tạo các điều kiện cần
thiết để các nhà nghiên cứu, c nhà khoa học phát huy khnăng ngay trên đất
nước mình. Nhưng, đây một nhiệm vkng dễ giải quyết vì khả năng kinh
tế hạn hp. Nhiều nước thực hiện biện pháp cấp kinh phí cho các nhà khoa học
ra nước ngoài nghiên cứu trong thời gian ngắn để họ hoàn thiện và cập nhật các
kiến thức và sau đó trở về phục vụ đất nước.
Tuy nhiên “Di chuyển lao động chuyên môn cao” quốc tế là hiện tượng kinh
tế - hội, do vậy, cần có những nghiên cứu thấu đáo để những giải pháp hợp
lý. Không hẳn chỉ là những giải pháp hành chính để ngăn cản, mà cần có hgiải
pháp đồng bộ cảcấp quốc gia và quốc tế để đảm bảo lao động có chuyên môn
cao được sử dụng hiệu quả cho cả xã hội và cả bản thân người lao động. Các giải
pháp ở cấp quốc gia bao gồm:
Thứ nhất, giải pháp về chế, chính sách. Cần chế quản chính
sách thị trường lao động phù hợp. Giải phóng sức sáng tạo, nâng cao chất lượng
hiệu qulàm việc của đội ngũ trí thức, nhất những người làm việc trong
lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Cơ chế, chính sách phải thoả đáng nhằm đảm
bảo đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần cho đi n cán bộ khoa học n
tâm làm việc; tạo môi trường làm việc phù hợp với c đối tượng cán bộ nghiên
cứu khoa học, tăng cường đầu trang bsở vật chất, điều kiện phương
tiện làm việc. Đồng thời, cần tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho đội ngũ
cán bộ khoa học công nghlàm việc, đảm bo một vị thế hội thođáng cho
cán bộ khoa học. Sự tôn vinh của xã hội đối với các nhà khoa học, công nghệ sẽ
một động lực quan trọng để họ yên tâm m việc pt huy hết năng lực
chuyên môn của mình. Tạo i trường điều kiện để họ hoà nhập vào cộng
đồng. Đẩy mạnh việc sử dụng internet đtổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo
khoa học để thut sự đóng góp của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Thứ hai, c trọng phát triển thị trường khoa học công nghệ. Tạo điều kiện
để các sản phẩm nghiên cứu khoa học được “tiêu dùng” nhanh chóng, thúc đẩy
khuyến khích đội n các n khoa học nâng cao năng lực sáng tạo. sự
phối hợp giữa quan nghiên cứu khoa học, ssản xuất và doanh nghiệp
nhằm chuyển giao nhanh kết quả nghn cứu khoa học công ngho sản
xuất kinh doanh. Thực hiện đầy đủ việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo
lợi ích của các nhà khoa học đối với c tài sản trí tuệ do họ m ra.
Thứ ba, đẩy mạnh hình liên kết giáo dục có sự tham gia của nước ngoài.
Đẩy mạnh hình liên kết giáo dục sự cam kết chặt chẽ với nước ngoài nhằm
ng cao chất lượng đào tạo, giúp sinh viên tiếp nhận được những tri thức mới
trong nước, tránh được “di cư không trở vềở một bộ phận lớn du học sinh. Cố
gắng đổi mới giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm với các
nước trong khu vực và trên thế giới bằng việc áp dụng ng nghệ giảng dạy, học
tập tiên tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy, ng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên.
Thứ tư, cần chiến lược xây dựng trung tâm nghiên cứu đào tạo quốc
gia về tài năng. Có chính sách đặc thù để bồi dưỡng những tài năng trẻ. Đào tạo
những tài năng trẻ không chỉ tập trung vào tri thức, cần phương pháp giáo
dục chính trị ởng đkhơi dậy ng tự hào dân tộc, giúp hhiểu được rằng
quyền lợi nghĩa vụ của họ cống hiến cho đất nước, họ cần sử dụng cái "Tài"
của họ để đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế thực trạng chung của nền kinh
tế thị trường. Một khi thị trường lao động được mở tất yếu sẽ có sự chuyển dịch
lao động từ ngành này sang ngành khác, từ khu vực y sang khu vực khác,
từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao đng
là loại hànga đặc biệt và vì vậy, trên khía cạnh giá trị, đương nhiên hàng hóa
đó sẽ hút về đâu khi giá trị của nó được định giá cao hơn.ng hóa đặc biệt,
còn bị chi phối bởi những khía cạnh kc ni trưng làm việc, sự hợp
a trong xử các mối quan hệ. Chính vậy những người ra đi không
phải vì thu nhập mà vì môi trường làm việc, họ cần có môi trường để cống hiến,
để học thêm nâng cao trình độ. Người lao động cần phải được bảo vệ quyền lợi
lợi ích tại i họ di chuyển đến. Vì vậy, cần phải những giải pp cấp
quốc tế, đó là:
Thứ nhất, soạn thảo những Thoả thuận Di Hai n giữa nước gửi lao động
nước nhận lao động đến. Theo dõi việc thực hiện, thiết lập diễn đàn trong khu
vực và diễn đàn quc tế để quản lý và thúc đẩy đối thoại giữa các nước.
Thứ hai, nâng cao nhận thức ở c nước nhận lao động di chuyển đến về tính
chất tích cực, về lợi ích kinh tế của chính sách di lao động quc tế một khi họ
thực hiện thành công các chính sách này.
Thứ ba, phối hợp chặt chgiữa c nước người lao động di chuyn đi
nước người lao động di chuyển đến góp phn ng tối đa những lợi ích đạt
lOMoARcPSD|27879 799
Di chuyển lao động… 71
được từ hoạt đng di cư. Việc thiết lập mối liên kết hợp tác y một bước
đáng khích lệ; các tổ chức trong khu vực ASEAN SAARC sẽ đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong di chuyển lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế toàn cầu, thị trường lao động ng ngày càng mang nh
toàn cầu. Một nước muốn phát triển ng cần chiến lược, chính ch nguồn
nhân lực khôn khéo của mình. Như thế đâu cần phải ngăn " di chuyển lao động
chuyên môn cao" bởi lẽ lao động "di chuyển đi" thìng "di chuyển về" nếu có
chính ch hợp thu t “nhân tài” sẽ rất thuận lợi cho sự phát triển. Thế giới
hiện nay không ít quốc gia đang những giải pháp nhằm tận dụng i gọi
tuần hoàn chất xám (brain circulation) và qua việc lợi dụng này họ đã thu được
những lợi ích chất xám (brain gain). Đức quốc gia chịu sdi chuyển của không
ít lao động chất lượng cao, song vi chính sách hợp tạo điều kiện cho trí
thức đóng góp thông qua các chính sách khuyến khích và c hình thức thu hút
nhâni, những năm gần đây Đức đồng thời là quốc gia dẫn đầu châu Âu trong
thu hút nguồn lực chất xám từ n ngi. Vấn đề chỉ phụ thuộc o cách giải
quyết, ứng xử của mỗi quốc gia.
___________________
Tµi liÖu tham kh¶o
1. Clemens, Michael (2009), Skilled Flow: A Fundamental Reconsideration of Skilled Worker
Mobility and Development, Human Resource Development Paper, April 2009, NewYork ,
America.
2. Vladimir Gligorov (2009), Mobility and Transition in Integrating Europe, Human
Development Research Paper 2009.
3. Amarjit Kaur (2006), Managing the Border: Regulation of International Labour Migration
and State Policy Responses to Global Governance in Southeast Asia, University of England.
4. Kaur, A, (2006), Order (and Disorder) at the Border: Mobility, International Labour
Migration and Border Controls in Southeast Asia, in Mobility, Labour Migration and Border
Controls in Asia in eds Amarjit Kaur and Ian Metcalfe, Basingstoke Palgrave/ Macmillan,
chapter 3.
5. Donghuyn Park (2008), Asia’s Skills Crisis. Economics and Research Department, Asian
Development Bank (ADB), Manila.
6. World Migration Report 2008.
| 1/8

Preview text:

lOMoARc PSD|27879799
I. NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO QUỐC TẾ
1. Thực trạng của di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế
Di chuyển lao động có chuyên môn cao quốc tế tăng rất nhanh từ những năm
1970. Các nước châu Phi, Caribbean và Trung Mỹ có tỉ lệ di chuyển lao động
chuyên môn cao nhiều nhất. Trong những năm 2000, hơn một nửa dân số có trình
độ đại học ở Trung Mỹ và quốc đảo Caribbean đã di chuyển và sinh sống ở nước
ngoài. Gần 20% lao động có chuyên môn cao đã rời khỏi vùng châu Phi cận
Sahara. Điều đó chứng tỏ rằng nguồn nhân lực đang ngày càng được quốc tế hóa
và chính sách di cư của các nước giàu có xu hướng lôi cuốn lao động chuyên môn cao.
Đặc biệt, di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế từ châu Á đến Mỹ,
Canada , Úc và Anh tăng nhanh trong những năm 1990s. Nhu cầu công nghệ
thông tin và lao động có chuyên môn cao ngày càng tăng ở các nước Tổ chức
Hợp tác phát triển kinh tế (OECD) chính là nguyên nhân của các cuộc cải cách
chính sách và điều lệ di cư, tạo thuận lợi cho sự di chuyển lao động chuyên môn
cao. Di chuyển lao động chuyên môn cao ngày càng tăng ở các nước OECD,
nhưng chủ yếu tập trung vào các chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin
(IT), các nhà nghiên cứu và quản lý giỏi. Trong khi di chuyển lao động chuyên
môn cao ở nội bộ các nước liên minh châu Âu (EU) còn hạn chế thì di chuyển
lao động chuyên môn cao giữa EU với các nước khác ngoài EU đang ngày càng
tăng. Ví dụ, lao động có chuyên môn cao tại Pháp, Anh và Đức là những nguồn
lực chính di chuyển tới Mỹ với chương trình visa tạm thời H1B. Mỹ cũng có
nhiều chính sách khuyến khích công dân nước mình làm việc tạm thời tại các
nước OECD. Hai đặc điểm nổi bật của di chuyển lao động chuyên môn cao tới Mỹ, đó là:
Thứ nhất, di chuyển lao động chuyên môn cao tạm thời (temporary) đến các
nước phát triển (Mỹ, Anh...) tăng nhanh trong nửa sau thập kỷ 1990, trong khi di
chuyển lao động chuyên môn cao có tính dài hạn (permanent) như các kỹ sư, các
chuyên viên máy tính lại giảm rất mạnh từ năm 1992;
Thứ hai, làn sóng di chuyển lao động chuyên môn cao trong các ngành như
bác sĩ, các chuyên gia y tế cao cấp ... đang tăng rất mạnh trong những năm 2000.
Bảng 1: Lao động di chuyển quốc tế giai đoạn 1960 - 2010
(Đơn vị: Triệu người) Năm
Số lao động di chuyển quốc tế 1960 75,9 1970 81,5 1980 99,8 1990 155,5 2000 178,5 2008 200,0 2010 213,9
Nguồn: United Nations (20090, International Migrations Stock:
The 2008 Revision and World Economic and Social Survey. lOMoARc PSD|27879799
Trong những năm gần đây, gắn liền với quá trình toàn cầu hóa, dòng chảy của
lao động chuyên môn cao có sự gia tăng về qui mô và tốc độ, đồng thời dòng
chảy cũng đan xen nhau, nếu như trước đây thường từ các nước kém phát triển
đến các nước phát triển, thì nay có cả chiều ngược lại và đan xen nhau.
Trước hết dòng chảy từ các nước đang phát triển tới các nước phát triển
đang diễn ra rất mạnh ở một số nước, nơi mà những người có trình độ chuyên
môn, các nhà nghiên cứu đi đến các nước phát triển để học tập, công tác, sinh
sống và không trở về. Những người này đã được nước sở tại đón tiếp nồng hậu,
thậm chí còn lôi kéo họ, vì các quốc gia phát triển hiểu rằng khi khoa học và
công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì sự phát triển của đất nước,
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội phụ thuộc vào “khối lượng chất xám” mà họ
tập hợp được. Khoa học và công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp cũng trở thành động lực thúc đẩy các nước đang phát triển gia tăng nguồn
lực “có chất lượng cao” của mình bằng cách tập trung hơn nữa cho phát triển
giáo dục, đào tạo. Một trong những hướng ưu tiên của nhiều nước đang phát
triển là gửi người có triển vọng sang các nước phát triển, các nước có nền giáo
dục phát triển, trình độ khoa học công nghệ tiên tiến để học tập, nghiên cứu với
kỳ vọng gia tăng thêm được nguồn lực “chất lượng cao” và tiếp nhận được sự
chuyển giao công nghệ mới.
Theo Tổ chức những người di cư quốc tế (OIM), con số những người có bằng
cấp ở châu Phi ra đi những năm đầu 1980 là 40.000 người, thì năm 1987 đã là
80.000 người - tăng gấp đôi. Riêng Zimbabue, là nước bị ảnh hưởng nặng nhất
với hơn 50% nhân viên y tế tay nghề cao đã chọn “nhiệm sở” ở nước ngoài. Sự
ra đi này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của lục địa vốn đã
nghèo đói này. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), châu Phi đang thiếu tới 1
triệu nhân viên y tế, trong khi đó xu hướng ra đi của lực lượng này đang có xu
hướng gia tăng trước nhu cầu ở các nước phát triển. Riêng Mỹ, tính đến năm
2020 cần tới 800.000 hộ lí và 200.000 bác sĩ từ nước ngoài. Mỗi nhân viên y tế
ra đi châu Phi mất 500.000 USD với một bác sĩ và 200.000 USD với một y tá
cho chi phí huấn luyện, đào tạo.
Mêhicô cũng là quốc gia chịu ảnh hưởng của tình trạng di chuyển lao động
chuyên môn cao. Theo công bố của Hội đồng khoa học và Công nghệ quốc gia
Mêhicô (CONACYT) từ 1971 đến 2005 đã có 2.100 người có trình độ chuyên
môn cao ra nước ngoài không trở về, khiến Mehicô thiệt hại hơn 106,5 triệu
USD. Đáng chú ý trong 4 năm đầu của nhiệm kỳ Tổng thống Vicente Fox đã có
tới 670 sinh viên tốt nghiệp mà không trở về Tổ quốc1. 2. Nguyên nhân
Di chuyển "lao động chuyên môn cao" là một hiện tượng bình thường, và
ngày càng xảy ra thường xuyên hơn của thị trường lao động. Nền kinh tế càng
phát triển, hiện tượng này càng phổ biến, và là điều kiện không thể thiếu của sự
phát triển lành mạnh. Những người lao động tri thức là những người có tính di
động rất cao. Muốn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nền
kinh tế tri thức, thì các quốc gia phải khôn ngoan đối mặt với hiện tượng di
chuyển của những người lao động nói chung và người lao động tri thức nói riêng,
có chính sách "trọng dụng" họ, tạo mọi điều kiện (về vật chất và tinh thần) để họ
làm việc có hiệu quả. Theo các chuyên gia kinh tế, có 4 nhóm nguyên nhân cơ
bản sau dẫn đến sự di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế:
1 Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, 27/2/2008. lOMoARc PSD|27879799
Di chuyển lao động… 67
1) Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là do kết quả của quá trình
toàn cầu hóa. Quá trình toàn cầu hoá làm tăng chênh lệch thu nhập giữa các quốc
gia. Mức chênh lệch ngày càng tăng về trình độ phát triển giữa các quốc gia, dẫn
tới sự phát triển không đồng đều về kinh tế xã hội. Quá trình toàn cầu hóa và
những chính sách di cư chọn lựa ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di
chuyển lao động có chuyên môn cao quốc tế. Trong mỗi quốc gia, tri thức giáo
dục vẫn được coi là yếu tố quyết định đến việc di chuyển lao động. Lao động
càng có trình độ chuyên môn cao càng có xu hướng di cư nhiều. Trình độ giáo
dục chính là nhân tố thúc đẩy tốc độ di chuyển lao động. Giáo dục cũng làm tăng
khả năng di chuyển lao động ra nước ngoài. Toàn cầu hóa được thể hiện mạnh
trong những năm 1990, đó là cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự liên kết
kinh tế của thị trường sản phẩm (toàn cầu hóa các công ty ngày càng tăng).
2) Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là hậu quả của sự khan hiếm
lao động chuyên môn cao của nước nhận lao động. Sự khan hiếm lao động
chuyên môn cao được phản ánh thông qua việc trả lương cho lao động có chuyên
môn cao hơn mức thu nhập của lao động trong nước. Lao động có chuyên môn
cao thường tham gia vào các ngành công nghiệp có kỹ năng cao (high – tech),
vào việc quản lý các doanh nghiệp đa quốc gia (MNEs) và tham gia vào các
ngành khoa học công nghệ, các ngành công nghiệp tri thức toàn cầu.
Di chuyển lao động chuyên môn cao được đặc trưng bởi “cầu kéo” (demand
– pull) từ phía các nước nhận lao động. Các chính sách di chuyển lao động của
nước nhận lao động phản ánh sự thiếu hụt của thị trường lao động trong nước.
Kết hợp cùng với những tác động của sự chọn lựa từ phía cung (nước gửi lao
động). Điều này sẽ dẫn đến tỉ lệ di chuyển vốn nhân lực có chuyên môn cao từ
các nước đang phát triển tới các nước phát triển.
3) Do chính sách "thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao" của các nước
phát triển. Sự “di chuyển” ngày càng tăng của “nguồn nhân lực chất lượng cao”
là do nước nhận lao động đã dành cho họ những điều kiện làm việc tốt hơn, thu
nhập cao hơn, môi trường phát huy trí tuệ tốt hơn... Trong số 150 triệu người
tham gia các hoạt động khoa học và công nghệ trên thế giới, thì 90% số họ sinh
sống và làm việc ở 7 nước công nghiệp phát triển nhất; riêng Mỹ và Canada
chiếm khoảng 25%. Do các nước đang phát triển không có đủ phương tiện và
điều kiện để đối phó với sự mất mát nguồn nhân lực khoa học, không phát huy
và khai thác hết được tiềm năng của đội ngũ các nhà khoa học. Trong khi đó,
điều kiện làm việc của các nhà khoa học ở các nước phát triển thuận lợi hơn
nhiều. Sự chênh lệch về mức thu nhập trong cùng một chức danh khoa học giữa
hai nhóm nước lên đến 12 lần. Ở các nước đang phát triển, các ngành công
nghiệp, công nghệ và các trường đại học không có khả năng kết hợp với nhau để
làm việc, từ đó gây ra cảm giác thất vọng thúc đẩy “lao động có chuyên môn” di chuyển.
4) Do thiếu dịch vụ bảo hiểm và cơ chế quản lý rủi ro. Ở các nước phát triển
rủi ro trong thu nhập được tối thiểu hóa thông qua thị trường bảo hiểm của tư
nhân và Chính phủ. Song ở các nước đang phát triển do cơ chế quản lý rủi ro
không hoàn hảo, người lao động khó có khả năng tiếp cận được thị trường bảo
hiểm. Do vậy, người lao động có xu hướng di chuyển về thị trường lao động có
bảo hiểm để tối đa hóa nguồn thu nhập và tối thiểu hóa những mất mát, rủi ro.
Những lao động tri thức, có chuyên môn cao hơn hết lại là những người nhận
thức rõ điều này. Và do những hạn chế, yếu kém trong cơ chế, chính sách ở các
nước đang phát triển đã tạo ra dòng di chuyển lao động quốc tế mạnh
II. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO QUỐC TẾ
Vấn đề là cần có chính sách và giải pháp thỏa đáng đối với mỗi cá nhân trong
dòng di chuyển lao động chuyên môn cao. Song, trong một nền kinh tế nghèo
nàn với những tiềm năng tăng trưởng không thích hợp, thì sự trở về của nguồn
vốn nhân lực sẽ rất thấp. Điều đáng chú ý là, sự khác nhau căn bản giữa một nền
kinh tế đóng và một nền kinh tế mở đối với sự di chuyển không chỉ là trong vấn
đề cơ hội, mà còn cả trong việc khuyến khích con người. Hiện tượng di cư sẽ
được hình thành nếu như việc khuyến khích ngày càng tăng nhằm có được
chuyên môn cao và đây chính là hiện tượng “chảy máu chất xám” có lợi
(benefical brain drain). Qua dòng chảy này, các cá nhân có điều kiện tiếp nhận
những kiến thức và kỹ năng lao động cao hơn, có cơ hội để cải thiện điều kiện
sống và tham gia thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
1. Chính sách đối với di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế
Mối lo ngại về di chuyển lao động chuyên môn cao tiếp tục tăng do tiến trình
toàn cầu hoá - hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu làm tăng thêm sự di chuyển
ra nước ngoài của các lao động. Mặc dù nhận thức rõ được sự mất mát lớn của
di chuyển lao động chuyên môn cao ra nước ngoài, song chi phí tiềm năng để
hạn chế lao động di cư rất lớn. Vì vậy, chính sách kiềm chế di chuyển lao động
chuyên môn cao được các nhà hoạch định chính sách thực hiện theo 2 hướng chính sách sau:
Thứ nhất, tăng chi phí tư nhân để chiếm hữu vốn nhân lực phù hợp với quyền
lợi cá nhân do việc di chuyển lao động chuyên môn cao ra nước ngoài;
Thứ hai, khuyến khích sự tham gia của người lao động vào các hoạt động kinh
tế, chính trị trong nước và tạo điều kiện thuận lợi cho họ duy trì quyền công dân,
quyền bầu cử và thậm chí giúp họ tái định cư nếu họ muốn.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 càng thúc đẩy xu hướng di cư
lao động quốc tế tăng mạnh. Dự báo lao động di cư quốc tế tăng lên 213,9 triệu
người vào năm 2010. Điều này khẳng định là vẫn cần thiết duy trì thị trường lao lOMoARc PSD|27879799
Di chuyển lao động… 69
động mở cho lao động di cư, bởi chính họ là những người tham gia tích cực nhất
trong quá trình phát triển kinh tế kể cả nước nhận lao động và nước gửi lao động.
Vì vậy, các chính sách kinh tế của các nước phải đảm bảo được quyền lợi và lợi
ích của người lao động di cư. Đặc biệt, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, cần có sự phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa nước nhận lao động và nước gửi
lao động để phát huy được hết hiệu quả của lao động chuyên môn cao quốc tế.
2. Giải pháp hạn chế di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế
Nhìn chung, di chuyển lao động chuyên môn cao có ảnh hưởng nhất định đến
chiến lược phát triển nguồn nhân lực và phát triển năng lực nội sinh của đất nước.
Để hạn chế tình trạng di chuyển lao động có chuyên môn cao, đồng thời lại có
thể thu hút được lao động có trình độ chuyên môn cao, nhiều nước đang phát
triển đang nỗ lực đưa ra nhiều giải pháp nhằm giữ “chất xám” ở lại. Hiển nhiên,
để giữ “chất xám” ở lại, biện pháp tốt nhất là các nước cần tạo các điều kiện cần
thiết để các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học phát huy khả năng ở ngay trên đất
nước mình. Nhưng, đây là một nhiệm vụ không dễ giải quyết vì khả năng kinh
tế hạn hẹp. Nhiều nước thực hiện biện pháp cấp kinh phí cho các nhà khoa học
ra nước ngoài nghiên cứu trong thời gian ngắn để họ hoàn thiện và cập nhật các
kiến thức và sau đó trở về phục vụ đất nước.
Tuy nhiên “Di chuyển lao động chuyên môn cao” quốc tế là hiện tượng kinh
tế - xã hội, do vậy, cần có những nghiên cứu thấu đáo để có những giải pháp hợp
lý. Không hẳn chỉ là những giải pháp hành chính để ngăn cản, mà cần có hệ giải
pháp đồng bộ cả ở cấp quốc gia và quốc tế để đảm bảo lao động có chuyên môn
cao được sử dụng hiệu quả cho cả xã hội và cả bản thân người lao động. Các giải
pháp ở cấp quốc gia bao gồm:
Thứ nhất, giải pháp về cơ chế, chính sách. Cần có cơ chế quản lý và chính
sách thị trường lao động phù hợp. Giải phóng sức sáng tạo, nâng cao chất lượng
và hiệu quả làm việc của đội ngũ trí thức, nhất là những người làm việc trong
lĩnh vực khoa học công nghệ cao. Cơ chế, chính sách phải thoả đáng nhằm đảm
bảo đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần cho đội ngũ cán bộ khoa học yên
tâm làm việc; tạo môi trường làm việc phù hợp với các đối tượng cán bộ nghiên
cứu khoa học, tăng cường đầu tư trang bị cơ sở vật chất, điều kiện và phương
tiện làm việc. Đồng thời, cần tạo môi trường tâm lý xã hội thuận lợi cho đội ngũ
cán bộ khoa học công nghệ làm việc, đảm bảo một vị thế xã hội thoả đáng cho
cán bộ khoa học. Sự tôn vinh của xã hội đối với các nhà khoa học, công nghệ sẽ
là một động lực quan trọng để họ yên tâm làm việc và phát huy hết năng lực
chuyên môn của mình. Tạo môi trường và điều kiện để họ hoà nhập vào cộng
đồng. Đẩy mạnh việc sử dụng internet để tổ chức các buổi toạ đàm, hội thảo
khoa học để thu hút sự đóng góp của các nhà khoa học trong và ngoài nước.
Thứ hai, chú trọng phát triển thị trường khoa học công nghệ. Tạo điều kiện
để các sản phẩm nghiên cứu khoa học được “tiêu dùng” nhanh chóng, thúc đẩy
và khuyến khích đội ngũ các nhà khoa học nâng cao năng lực sáng tạo. Có sự
phối hợp giữa cơ quan nghiên cứu khoa học, cơ sở sản xuất và doanh nghiệp
nhằm chuyển giao nhanh kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản
xuất kinh doanh. Thực hiện đầy đủ việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ để đảm bảo
lợi ích của các nhà khoa học đối với các tài sản trí tuệ do họ làm ra.
Thứ ba, đẩy mạnh mô hình liên kết giáo dục có sự tham gia của nước ngoài.
Đẩy mạnh mô hình liên kết giáo dục có sự cam kết chặt chẽ với nước ngoài nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo, giúp sinh viên tiếp nhận được những tri thức mới
trong nước, tránh được “di cư không trở về” ở một bộ phận lớn du học sinh. Cố
gắng đổi mới giáo dục đại học, nâng cao chất lượng đào tạo ngang tầm với các
nước trong khu vực và trên thế giới bằng việc áp dụng công nghệ giảng dạy, học
tập tiên tiến, đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên.
Thứ tư, cần có chiến lược xây dựng trung tâm nghiên cứu và đào tạo quốc
gia về tài năng. Có chính sách đặc thù để bồi dưỡng những tài năng trẻ. Đào tạo
những tài năng trẻ không chỉ tập trung vào tri thức, mà cần có phương pháp giáo
dục chính trị tư tưởng để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, giúp họ hiểu được rằng
quyền lợi và nghĩa vụ của họ là cống hiến cho đất nước, họ cần sử dụng cái "Tài"
của họ để đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là thực trạng chung của nền kinh
tế thị trường. Một khi thị trường lao động được mở tất yếu sẽ có sự chuyển dịch
lao động từ ngành này sang ngành khác, từ khu vực này sang khu vực khác, và
từ quốc gia này sang quốc gia khác. Trong nền kinh tế thị trường, sức lao động
là loại hàng hóa đặc biệt và vì vậy, trên khía cạnh giá trị, đương nhiên hàng hóa
đó sẽ hút về đâu khi giá trị của nó được định giá cao hơn. Là hàng hóa đặc biệt,
nó còn bị chi phối bởi những khía cạnh khác như môi trường làm việc, sự hợp
lý hóa trong xử lý các mối quan hệ. Chính vì vậy có những người ra đi không
phải vì thu nhập mà vì môi trường làm việc, họ cần có môi trường để cống hiến,
để học thêm nâng cao trình độ. Người lao động cần phải được bảo vệ quyền lợi
và lợi ích tại nơi họ di chuyển đến. Vì vậy, cần phải có những giải pháp ở cấp quốc tế, đó là:
Thứ nhất, soạn thảo những Thoả thuận Di cư Hai bên giữa nước gửi lao động
và nước nhận lao động đến. Theo dõi việc thực hiện, thiết lập diễn đàn trong khu
vực và diễn đàn quốc tế để quản lý và thúc đẩy đối thoại giữa các nước.
Thứ hai, nâng cao nhận thức ở các nước nhận lao động di chuyển đến về tính
chất tích cực, về lợi ích kinh tế của chính sách di cư lao động quốc tế một khi họ
thực hiện thành công các chính sách này.
Thứ ba, phối hợp chặt chẽ giữa các nước có người lao động di chuyển đi và
nước có người lao động di chuyển đến góp phần tăng tối đa những lợi ích đạt lOMoARc PSD|27879799
Di chuyển lao động… 71
được từ hoạt động di cư. Việc thiết lập mối liên kết hợp tác này là một bước
đáng khích lệ; các tổ chức trong khu vực ASEAN và SAARC sẽ đóng vai trò
đặc biệt quan trọng trong di chuyển lao động quốc tế.
Trong nền kinh tế toàn cầu, thị trường lao động cũng ngày càng mang tính
toàn cầu. Một nước muốn phát triển cũng cần có chiến lược, chính sách nguồn
nhân lực khôn khéo của mình. Như thế đâu cần phải ngăn " di chuyển lao động
chuyên môn cao" bởi lẽ lao động "di chuyển đi" thì cũng "di chuyển về" nếu có
chính sách hợp lý thu hút “nhân tài” sẽ rất thuận lợi cho sự phát triển. Thế giới
hiện nay không ít quốc gia đang có những giải pháp nhằm tận dụng cái gọi là
tuần hoàn chất xám (brain circulation) và qua việc lợi dụng này họ đã thu được
những lợi ích chất xám (brain gain). Đức là quốc gia chịu sự di chuyển của không
ít lao động có chất lượng cao, song với chính sách hợp lý tạo điều kiện cho trí
thức đóng góp thông qua các chính sách khuyến khích và các hình thức thu hút
nhân tài, những năm gần đây Đức đồng thời là quốc gia dẫn đầu châu Âu trong
thu hút nguồn lực chất xám từ bên ngoài. Vấn đề chỉ phụ thuộc vào cách giải
quyết, ứng xử của mỗi quốc gia. ___________________ Tµi liÖu tham kh¶o
1. Clemens, Michael (2009), Skilled Flow: A Fundamental Reconsideration of Skilled Worker
Mobility and Development, Human Resource Development Paper, April 2009, NewYork , America.
2. Vladimir Gligorov (2009), Mobility and Transition in Integrating Europe, Human
Development Research Paper 2009.
3. Amarjit Kaur (2006), Managing the Border: Regulation of International Labour Migration
and State Policy Responses to Global Governance in Southeast Asia, University of England.
4. Kaur, A, (2006), Order (and Disorder) at the Border: Mobility, International Labour
Migration and Border Controls in Southeast Asia, in Mobility, Labour Migration and Border
Controls in Asia in eds Amarjit Kaur and Ian Metcalfe, Basingstoke Palgrave/ Macmillan, chapter 3.
5. Donghuyn Park (2008), Asia’s Skills Crisis. Economics and Research Department, Asian
Development Bank (ADB), Manila.
6. World Migration Report 2008.