KHÁI NIỆM
Giá trị nhân đạo lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau con người,
những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, thái độ lên án, tố cáo những thế lực
bạo tàn chà đạp con người, đặc biệt sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp
trong tâm hồn niềm tin vào kh năng vươn dậy của con người trong bất cứ
hoàn cảnh nào
1. Bản chất của văn học
BÌNH LUẬN
Nguyễn Minh Châu từng nói: “Cuộc sống văn học hai đường tròn đồng
tâm tâm điểm con người”. Thật vậy, văn học luôn hướng đến con người
con người đi tới. Bởi lẽ chức năng cao quý nhất của văn học nhân
đạo hóa con người.Tinh thần nhân đạo giúp con người đồng cảm được với số
phận của người khác, chia sẻ được những nỗi buồn, vui, được, mất, thành công
cũng như thất bại của người khác. Đó cũng chính cách giúp ta sống sâu sắc
hơn, sống đến tận đáy, thoáng chốc cũng giúp mở rộng giới hạn sống cho con
người.
2. Tác phẩm chân chính
Văn học còn sản phẩm tinh thần của con người, do con người tạo ra đ đáp
ứng những nhu cầu trong đời sống nhất đời sống tâm hồn, văn học chỉ thực sự
giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng,
ngợi ca, bảo vệ con người. vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo
bao giờ cũng vấn đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính
3. Người nghệ chân chính
Mỗi sáng tác mỗi con mắt soi chiếu thế giới này, cảm nhận vẻ đẹp khuất lấp
đâu đó tha thiết giãi bày tình thương đối với con người. Một lần sáng tác
một lần nghệ sĩ lặn lội với đời bằng cả tấm lòng tha thiết, hết sức trẻ trung trong
cách cảm nhận hết sức già dặn trong suy tư, triết về cuộc sống này. Mỗi
sáng tác mỗi hội đ nhà văn giải tỏ một điều đó lạ thay, cả cuộc
đời nhà văn chỉ muốn nói điều ấy thôi. Đấy chính cách nhìn, cách cảm
riêng, độc đáo sâu sắc của họ. Nhưng thế nào, thì tất cả đều giống nhau
một điểm, ấy chính phải thể hiện trong tác phẩm tinh thần nhân đạo, hướng
về con người.
Nhà văn giống n nhà giải phẫu tâm hồn đầy tài năng, mỗi trang văn, trang thơ
đều trang lòng trải trên mặt giấy. Người nghệ chân chính người ý thức
được thiên chức của mình trong quá trình sáng tạo, là nâng đỡ cái phần tốt đẹp
để trong đời nhiều công bằng yêu thương hơn. Tinh thần nhân đạo
phẩm chất bắt buộc đối với người thi sĩ, đó tiêu chuẩn, điều kiện để đánh
giá mức độ chân chính của nhà văn. Đó chính cái tâm của người nghệ sĩ,
cũng giống như đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã từng bộc bạch rằng: Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
4. Liệu sẽ ntn nếu ko nhân đạo
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng băn khoăn: Tôi không thể nào tưởng tượng
nổi một nhà văn lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống nhất
tình yêu thương con người”. Làm sao nhà văn thể viết khi đứng trước hiện
thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực
cuộc sống, phong phú, diệu đến mấy không được thổi hồn bởi những
tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì tác phẩm của anh những con chữ
hổn, xác bướm ép khô không sức sống trong tác phẩm thôi.
5. Tình cảm phải chân thật
Tình cảm không chỉ “khâu đầu tiên” còn “khâu cuối cùng” trong quá
trình hình thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng
đồng cảm của người đọc. “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình
phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Chỉ những
xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim, vậy đòi hỏi tình cảm của
người nghệ phải chiều sâu từ trong cốt tủy, chứ không chỉ đơn thuần thứ
tình cảm nông cạn, hồ, hởi hợt, giả dối. Chỉ như vậy, tác phẩm mới thể
lay động sâu xa tâm hồn người đọc, những tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất
nhà văn gửi gắm cũng t đó thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài
của cảm xúc.
CHỨNG MINH
HAI ĐỨA TR
1. Tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống phố huyện
nghèo:
-Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh phố
huyện, đó những kiếp người nghèo khổ leo lét, cầm chừng.Ở đó những
đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những
người bán hàng, bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đ bập bùng trong
bóng tối, bác hát Xẩm ngồi đợi khách trên manh chiếu,có bà cụ điên mua rượu
cười phanh phách, hai mẹ con nhà chị ngày nào cũng dọn hàng từ sớm tới
khuya cũng chẳng bán được bao. cuộc sống của chị em Liên chẳng khá
hơn cuộc sống của mọi người, cửa hàng tạp h của chị em Liên “nhỏ xíu”,
hàng hoá thì lèo tèo khách hàng những người nghèo khó.
-Cuộc sống của họ nhỏ bé, le lói, mong manh n những khe sáng, hột sáng,
quầng sáng bị chìm lấp trong bóng tối đặc quánh vậy. Những con người ấy
không chỉ nghèo khổ về vật chất còn nghèo đói về tinh thần khi chìm đắm
trong cuộc sống lặp đi lặp lại đến buồn tẻ, quẩn quanh bế tắc.
2. Sự phát hiện về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo
nơi phố huyện.
- Họ những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị ngày cua
bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được bao. Hai chị em Liên thay
mẹ trông coi gian hàng tạp hoá. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,…
- Họ những người giàu lòng thương yêu: Liên động thương những đứa trẻ đi
nhặt nhạnh những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.
3. Trân trọng trước những ước của người dân nghèo về một cuộc sống tốt
đẹp hơn.
- Ông nâng niu trân trọng những hoài niệm, ước của chị em Liên: Hai chị
em mong ước được thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia
đình còn sống Nội. ( Việc đợi tàu giúp chị em Liên tạm thời quên đi cái
nghèo khổ, cái tăm tối giúp học không bị chết trong ao đời phẳng lặng. ước
nhỏ giúp học cân bằng cuộc sống hiện thực.)
4. Thông điệp
- Dẫu cuộc sống khốn khó, vất vả bế tắc đến chừng nào thì con người ta
vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi ước v một cuộc sống tốt đẹp
tươi sáng hơn.
- Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người già
hay trẻ chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng
tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau.
- Rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh để lay động, đánh thức : Những con người
nhỏ trong hội rất dễ b lãng quên, chìm lấp trong tăm tối nên cần phải
quan tâm đến họ. H thể sống một cuộc đời danh nhưng đừng để họ sống
một cuộc đời nghĩa
VỢ CHỒNG A PH
-Tố cáo hội thực dân phong kiến đã đẩy người dân vào bước đường
cùng, khiến h trở thành một cỗ máy, thành lệ
- Niềm cảm thông, đau xót của Hoài khi chứng kiến khát vọng, nhân
quyền của con người bị chà đạp. Mị A Phủ phải sống cuộc đời của
những k lệ, cuộc sống không bằng con trâu, con ngựa, bị đối xử một
cách tàn bạo, bị bóc lột một cách man
- Phát hiện, ca ngợi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả
trong hoàn cánh khắc nghiệt nhất. Mị "lùi lũi như con rùa nuôi trong
cửa" nhưng vẫn muốn được đi chơi trong đêm tình mùa xuân, vẫn khao
khát hạnh phúc gia đình, khao khát được giải phóng khỏi ngục thất cuộc đời
nh.
-Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu
tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến.
- Con đường giải thoát cho nhân vật Hoài đưa ra trong tác phẩm chính
đi theo cách mạng trong đoạn kết của câu chuyện, A Phủ Mị đã
trốn tới Phiềng Sa đi theo ánh sáng của cách mạng để giải thoát cho
cuộc đời tăm tối của họ => Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân
miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến.
KẾT I
Không khác, chính văn học nghệ thuật sẽ soi sáng, bồi đắp cho tâm hồn ta
sạch trong, cao rộng. Ta biết cách nhìn người, biết thấu hiểu, biết hướng tới
chân thiện mỹ. lẽ đó, chừng nào con người còn tồn tại, chừng đó nghệ
thuật sẽ còn quả quyết: “Văn học nằm ngoài quy luật của s băng hoại. Chỉ
mình không thừa nhận cái chết”. (Sê-đrin).

Preview text:

KHÁI NIỆM
Giá trị nhân đạo là lòng cảm thông sâu sắc của nhà văn với nỗi đau con người,
những cảnh đời bất hạnh trong cuộc sống, thái độ lên án, tố cáo những thế lực
bạo tàn chà đạp con người, đặc biệt là sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp
trong tâm hồn và niềm tin vào khả năng vươn dậy của con người dù trong bất cứ hoàn cảnh nào BÌNH LUẬN
1. Bản chất của văn học
Nguyễn Minh Châu từng nói: “Cuộc sống và văn học là hai đường tròn đồng
tâm mà tâm điểm là con người”. Thật vậy, văn học luôn hướng đến con người
và vì con người mà đi tới. Bởi lẽ chức năng cao quý nhất của văn học là nhân
đạo hóa con người.Tinh thần nhân đạo giúp con người đồng cảm được với số
phận của người khác, chia sẻ được những nỗi buồn, vui, được, mất, thành công
cũng như thất bại của người khác. Đó cũng chính là cách giúp ta sống sâu sắc
hơn, sống đến tận đáy, thoáng chốc cũng giúp mở rộng giới hạn sống cho con người. 2. Tác phẩm chân chính
Văn học còn là sản phẩm tinh thần của con người, do con người tạo ra để đáp
ứng những nhu cầu trong đời sống nhất là đời sống tâm hồn, văn học chỉ thực sự
có giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng,
ngợi ca, bảo vệ con người. Vì vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo
bao giờ cũng là vấn đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính…
3. Người nghệ sĩ chân chính
Mỗi sáng tác là mỗi con mắt soi chiếu thế giới này, cảm nhận vẻ đẹp khuất lấp
đâu đó và tha thiết giãi bày tình thương đối với con người. Một lần sáng tác là
một lần nghệ sĩ lặn lội với đời bằng cả tấm lòng tha thiết, hết sức trẻ trung trong
cách cảm nhận và hết sức già dặn trong suy tư, triết lí về cuộc sống này. Mỗi
sáng tác là mỗi cơ hội để nhà văn giải tỏ một điều gì đó mà kì lạ thay, cả cuộc
đời nhà văn chỉ muốn nói điều ấy mà thôi. Đấy chính là cách nhìn, cách cảm
riêng, độc đáo và sâu sắc của họ. Nhưng dù thế nào, thì tất cả đều giống nhau ở
một điểm, ấy chính là phải thể hiện trong tác phẩm tinh thần nhân đạo, hướng về con người.
Nhà văn giống như nhà giải phẫu tâm hồn đầy tài năng, mỗi trang văn, trang thơ
đều là trang lòng trải trên mặt giấy. Người nghệ sĩ chân chính là người ý thức
được thiên chức của mình trong quá trình sáng tạo, là nâng đỡ cái phần tốt đẹp
để trong đời có nhiều công bằng và yêu thương hơn. Tinh thần nhân đạo là
phẩm chất bắt buộc đối với người thi sĩ, đó là tiêu chuẩn, là điều kiện để đánh
giá mức độ chân chính của nhà văn. Đó chính là cái tâm của người nghệ sĩ,
cũng giống như đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đã từng bộc bạch rằng: “Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
4. Liệu sẽ ntn nếu ko có nhân đạo
Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng băn khoăn: “Tôi không thể nào tưởng tượng
nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất
là tình yêu thương con người”. Làm sao nhà văn có thể viết khi đứng trước hiện
thực cuộc sống, trái tim anh không hề rung động, không hề xúc cảm? Hiện thực
cuộc sống, dù phong phú, kì diệu đến mấy mà không được thổi hồn bởi những
tình cảm mãnh liệt của người cầm bút thì tác phẩm của anh là những con chữ vô
hổn, xác bướm ép khô không có sức sống trong tác phẩm mà thôi.
5. Tình cảm phải chân thật
Tình cảm không chỉ là “khâu đầu tiên” mà còn là “khâu cuối cùng” trong quá
trình hình thành một tác phẩm văn học. Văn học chỉ sống được trong tấm lòng
đồng cảm của người đọc. “Thơ muốn làm cho người ta khóc, trước tiên mình
phải khóc, muốn làm cho người ta cười, trước hết mình phải cười”. Chỉ những
gì xuất phát từ trái tim mới đi đến những trái tim, vì vậy đòi hỏi tình cảm của
người nghệ sĩ phải có chiều sâu từ trong cốt tủy, chứ không chỉ đơn thuần là thứ
tình cảm nông cạn, mơ hồ, hởi hợt, giả dối. Chỉ như vậy, tác phẩm mới có thể
lay động sâu xa tâm hồn người đọc, những tư tưởng tâm đắc nhất, tha thiết nhất
nhà văn gửi gắm cũng từ đó mà thâm nhập vào tâm hồn bạn đọc trong hình hài của cảm xúc. CHỨNG MINH HAI ĐỨA TRẺ
1. Tình cảm xót thương của tác giả đối với những người sống ở phố huyện nghèo:
-Cuộc sống của những con người nơi đây cũng giống như khung cảnh phố
huyện, đó là những kiếp người nghèo khổ leo lét, cầm chừng.Ở đó có những
đứa trẻ nghèo đang nhặt nhạnh tìm tòi bới móc những thứ còn sót lại của những
người bán hàng, có bác Siêu gánh hàng phở ra bếp lửa than đỏ bập bùng trong
bóng tối, bác hát Xẩm ngồi đợi khách trên manh chiếu,có bà cụ điên mua rượu
cười phanh phách, có hai mẹ con nhà chị Tý ngày nào cũng dọn hàng từ sớm tới
khuya cũng chẳng bán được là bao. Và cuộc sống của chị em Liên chẳng khá
hơn cuộc sống của mọi người, cửa hàng tạp hoá của chị em Liên “nhỏ xíu”,
hàng hoá thì lèo tèo mà khách hàng là những người nghèo khó.
-Cuộc sống của họ nhỏ bé, le lói, mong manh như những khe sáng, hột sáng,
quầng sáng bị chìm lấp trong bóng tối đặc quánh vậy. Những con người ấy
không chỉ nghèo khổ về vật chất mà còn nghèo đói về tinh thần khi chìm đắm
trong cuộc sống lặp đi lặp lại đến buồn tẻ, quẩn quanh bế tắc.
2. Sự phát hiện về những phẩm chất tốt đẹp của những người lao động nghèo nơi phố huyện.
- Họ là những người cần cù, chịu thương, chịu khó: Mẹ con chị Tí ngày mò cua
bắt ốc, tối đến dọn hàng nước dẫu chẳng bán được là bao. Hai chị em Liên thay
mẹ trông coi gian hàng tạp hoá. Bác phở Siêu chịu khó bán phở gánh,…
- Họ là những người giàu lòng thương yêu: Liên động thương những đứa trẻ đi
nhặt nhạnh những thứ người ta bỏ lại lúc chợ tàn.
3. Trân trọng trước những ước mơ của người dân nghèo về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Ông nâng niu trân trọng những hoài niệm, mơ ước của chị em Liên: Hai chị
em mong ước được thấy ánh sáng của đoàn tàu, nhớ về quá khứ tươi đẹp khi gia
đình còn sống ở Hà Nội. ( Việc đợi tàu giúp chị em Liên tạm thời quên đi cái
nghèo khổ, cái tăm tối giúp học không bị chết trong ao đời phẳng lặng. Mơ ước
nhỏ bé giúp học cân bằng cuộc sống hiện thực.) 4. Thông điệp
- Dẫu cuộc sống có khốn khó, vất vả và bế tắc đến chừng nào thì con người ta
vẫn không bao giờ được thôi khát vọng, thôi mơ ước về một cuộc sống tốt đẹp và tươi sáng hơn.
- Những hy vọng, khát khao ấy vẫn luôn tiềm ẩn trong mỗi con người dù già
hay trẻ và chúng được nuôi dưỡng bằng một tâm hồn lạc quan, yêu đời, bằng
tình thương cảm, gắn kết những con người với nhau.
- Rung lên tiếng chuông cảnh tỉnh để lay động, đánh thức : Những con người
nhỏ bé trong xã hội rất dễ bị lãng quên, chìm lấp trong tăm tối nên cần phải
quan tâm đến họ. Họ có thể sống một cuộc đời vô danh nhưng đừng để họ sống một cuộc đời vô nghĩa VỢ CHỒNG A PHỦ
-Tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người dân vào bước đường
cùng, khiến họ trở thành một cỗ máy, thành nô lệ
- Niềm cảm thông, đau xót của Tô Hoài khi chứng kiến khát vọng, nhân
quyền của con người bị chà đạp. Mị và A Phủ phải sống cuộc đời của
những kẻ nô lệ, cuộc sống không bằng con trâu, con ngựa, bị đối xử một
cách tàn bạo, bị bóc lột một cách dã man
- Phát hiện, ca ngợi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả
trong hoàn cánh khắc nghiệt nhất. Mị dù "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa" nhưng vẫn muốn được đi chơi trong đêm tình mùa xuân, vẫn khao
khát có hạnh phúc gia đình, khao khát được giải phóng khỏi ngục thất cuộc đời mình.
-Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân miền núi trong cuộc đấu
tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến.
- Con đường giải thoát cho nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính
là đi theo cách mạng mà trong đoạn kết của câu chuyện, A Phủ và Mị đã
trốn tới Phiềng Sa và đi theo ánh sáng của cách mạng để giải thoát cho
cuộc đời tăm tối của họ => Tin tưởng vào khả năng cách mạng của người dân
miền núi trong cuộc đấu tranh giành tự do, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến. KẾT BÀI
Không gì khác, chính văn học nghệ thuật sẽ soi sáng, bồi đắp cho tâm hồn ta
sạch trong, cao rộng. Ta biết cách nhìn người, biết thấu hiểu, biết hướng tới
chân – thiện – mỹ. Vì lẽ đó, chừng nào con người còn tồn tại, chừng đó nghệ
thuật sẽ còn là quả quyết: “Văn học nằm ngoài quy luật của sự băng hoại. Chỉ
mình nó không thừa nhận cái chết”. (Sê-đrin).
Document Outline

  • KHÁI NIỆM
  • BÌNH LUẬN
  • CHỨNG MINH
  • KẾT BÀI