Nhu cầu
1/5
Nhu cầu
Bi:
Wiki Pedia
Nhu cầu một hiện tượng tâm của con ngưi; là đòi hi, mong mun, nguyn vng
của con người về vật chất tinh thần để tồn tại phát triển. Tùy theo trình độ nhận
thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người những nhu cầu khác
nhau.
Nhu cầu cảm giác thiếu hụt một cái đó con người cảm nhận được.
Nhu cầu yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng
chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng nghĩa với
việc thể kiểm soát được nhân (trong trường hợp này, nhận thức s chi phối nhất
định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự tho mãn nhu cầu).
Nhu cầu của một nhân, đa dạng tận. Về mặt quản lý, người quản chỉ kiểm
soát những nhu cầu liên quan đến hiệu quả làm việc của nhân. Việc thoả n nhu
cầu nào đó của nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định hướng của nhà quản
lý, do đó người quản luôn có thể điều khiển được các nhân.
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất cân bằng của
chính thể đó do đó phân biệt với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu hay còn
gọi nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu i tồn tại, phát triển tiến hóa.
Nhu cầu chi phối mạnh m đến đời sống tâm nói chung, đến hành vi của con người
nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu sử dụng nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đời sống, hội.
Đặc trưng của nhu cầu
Không ổn định, biến đổi;
Năng động;
Biến đổi theo quy luật; [1]
Không bao giờ thỏa n cùng một lúc mọi nhu cầu;
Ham muốn không có giới hạn. [2]
www.princexml.com
--------------------------------------------
This document was created with Prince, a great way of
getting web content onto paper.
Nhu cầu
2/5
Các loại nhu cầu
Vật chất: nhu cầu bẩm sinh (thở, đói, tình dục), nhu cầu thông thường n,
uống, không khí, bài tiết,...).
Cảm xúc: tình thương yêu, n thành, kính trọng, thừa nhận...
hội: giáo dục, tôn giáo, giải trí...
Mức độ nhu cầu
1. Mức thứ nhất - Lòng mong muốn;
2. Mức thứ hai - Tham;
3. Mức thứ ba - Đam .
Biểu hiện nhu cu
Hứng thú;
Ước ;
tưởng.
Khái niệm nhu cầu
Từ lâu nhu cầu đã đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học nghiên cứu
sinh học hội. Trong lĩnh vực kinh tế - hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy
trong nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William
Stanley Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó hiện tượng phức
tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu bất sinh vật o,
ngay cả bất hội nào được xem n th sống phức tạp, đặc điểm để phân
biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh.
Cho tới nay chưa một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu. Các sách giáo
khoa chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học thường những định nghĩa
mang tính riêng biệt. Trong phạm vi nhận thức hiện tại thể định nghĩa nhu cầu tính
chất của thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính thể đó do đó phân
biệt với i trường sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi nhu yếu tuyệt đối, đã
được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển tiến hóa.[3]
Nhu cầu được hiểu sự cần thiết về một cái đó. Nhưng “cái đó” chỉ hình thức
biểu hiện bên ngoài của nhu cầu. Sau hình thức biểu hiện ẩn chứa bản chất của nhu cầu
thể tạm gọi "nhu yếu". Nhu yếu đang nói đến lại có thể được xem hình thức
biểu hiện của một nhu yếu khác căn bản n. Như vậy khái niệm nhu cầu nhu yếu
mang tính ơng đối với nhau. Điều đó cho thấy rằng nhu cầu của thể sống một hệ
thống phức tạp, nhiều tầng lớp, bao gồm số các chuỗi mắc xích của hình thức biểu
hiện nhu yếu liên kết chằng chịt, khả năng phát triển đa dạng hóa. Tuy nhiên,
Nhu cầu
3/5
để dễ nhận dạng, một nhu cầu riêng biệt đơn giản nhất được cấu thành bởi một nhu yếu
một hình thức biểu hiện.
Hình thức biểu hiện nhất định được c thể hóa thành đối tượng của một nhu cầu nhất
định. Đối tượng của nhu cầu chính cái nhu cầu hướng đến thể làm thỏa mãn
nhu cầu đó. Một đối tượng thể làm thỏa mãn một số nhu cầu, một nhu cầu có thể
được thỏa n bởi một số đối tượng, trong đó mức độ thỏa mãn có khác nhau.
Tính đa dạng của đối tượng tạo nên sự hạn của nhu cầu. Alfred Marshall viết rằng:
“Không số để đếm nhu cầu và ước muốn”[4]. Về vấn đề bản của khoa học kinh tế
- vấn đề nhu cầu con người - hầu hết các sách đều nhận định rằng nhu cầu không giới
hạn.
Cấu trúc nhu cầu nhân
Aristotle đã cho rằng con người hai loại nhu cầu chính: thể xác linh hồn[5]. S
phân loại này mang tính ước l lớn nhưng ảnh hưởng đến tận thời nay người ta
quen với việc phân nhu cầu thành "nhu cầu vật chất" "nhu cầu tinh thần". Ngoài ra
còn tồn tại nhiều kiểu phân loại khác dựa trên những đặc điểm hay tiêu chí nhất định.
Trọng tâm chú ý của các nhà khoa học xếp đặt nhu cầu theo một cấu trúc thứ bậc.
Ý tưởng về thứ bậc của nhu cầu bắt đầu nảy sinh từ đầu thế kỉ trước. Benfild viết:
“Quan điểm đầu tiên của luận thuyết về nhu cầu nói rằng sự thỏa mãn nhu cầu bậc thấp
trong thang độ nhu cầu sẽ sinh ra mong muốn được thỏa mãn nhu cầu bậc cao n”[6].
Trong số các công trình nghiên cứu hiện đại có thể kể đến kết quả phân loại như K.
Alderfer: tồn tại, quan hệ, nâng cao; D. Mc Clelland: thành quả, tham dự, quyền lực;
V. Podmarcow: đảm bảo, khuynh ớng, uy tín; V. Tarasenko: tồn tại, phát triển; A.
Maslow: sinh , an toàn, tham dự, (được) công nhận, tự thể hiện... Năm cấp bậc nhu
cầu theo phân loại của A. Maslow được xếp theo hình bậc thang hay hình chóp kim tự
tháp với thứ tự liệt như trên thể hiện quan điểm rằng s thỏa n nhu cầu theo thứ tự
từ ới lên. Người ta đã chỉ ra rằng thực tế sự thỏa mãn nhu cầu không nhất thiết phải
tuân theo quy luật đó.
Boris M. Genkin[7] chia nhu cầu ra hai nhóm: nhu cầu tồn tại nhu cầu đạt mục đích
sống. Nhu cầu tồn tại gồm nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn nhu cầu tham dự. Trong
nhu cầu đạt mục đích bốn nhóm: 1) giàu về vật chất; 2) quyền lực danh vọng;
3) kiến thức sáng tạo; 4) hoàn thiện tinh thần. Tùy vào thiên ớng của từng nhân
một trong số bốn nhu cầu trên thể hiện nổi trội. thể trong một người hiện diện cả
bốn dạng nhu cầu đó nhưng các giai đoạn khác nhau trong đời.
Tất cả các cách thành lập cấu trúc nhu cầu nhân từ trước đến nay những hạn chế
nhất định. Nếu s nhóm nhu cầu ít (gồm hai nhóm) thì phân loại nặng tính ước lệ, giảm
ý nghĩa phân tích. Nếu số nhóm nhu cầu nhiều thì phân loại không đáp ứng được nh
Nhu cầu
4/5
bao trùm, nghĩa khi đó còn nhiều dạng nhu cầu nằm ngoài các nhóm, dụ như nhu
cầu về tín ngưỡng, tự do. Kết luận của các nhà khoa học là: sự cản trở việc phân loại
chính không thể xác định được giới hạn của nhu cầu.
Cách phân loại mới [8] dựa vào phân tích bản chất của nhu cầu. Trên quan điểm mỗi
nhu cầu được hình thành từ hình thức biểu hiện nhu yếu nên thể thực hiện phân
loại theo hai thành phần đấy.
Hình thức biểu hiện được phân loại thông qua đối tượng của nhu cầu. Chúng chính
tất cả những gì ý nghĩa đối với đời sống con người. Đối tượng của nhu cầu thể
những sự vật cụ thể trong thế giới xung quanh, thể những yếu tố của duy. Nhận
thức của con người hội càng cao thì phạm vi đối tượng ý nghĩa càng rộng. Như
vậy đối ợng của nhu cầu được phân loại theo c lĩnh vực hoạt động của con người:
hội, kinh tế, chính trị, pháp luật, môi trường, tôn giáo, y tế, văn hóa-giáo dục-khoa
học, đời sống nhân. Ranh giới của các lĩnh vực này không hoàn toàn rõ nét sự
đan xen. Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực hoạt động sự định hình mối liên kết đặc biệt
giữa các đối ợng, tạo nên những "hệ thống giá trị" vai trò của chúng điều hòa
sự mâu thuẫn giữa các nhu cầu khác nhau. Đôi khi chính những hệ thống giá trị này gây
cản trở sự tiếp cận những đối tượng mới. Hệ thống giá trị th bị phá vỡ hoặc sự
thay đổi bổ sung tùy vào sự thay đổi của môi trường sống.
Nhu yếu được phân loại thành nhu yếu tuyệt đối nhu yếu phát triển. Nhóm thứ nhất
liên quan trực tiếp đến các hành vi bản năng thức. Hình thức biểu hiện, hay đối
tượng ơng ứng, của chúng không thể thay thế. Sự không đáp ứng các nhu yếu này
sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho th sống. Nhu yếu phát triển những nhu yếu
mang tính phức tạp, kết quả kết hợp của những nhu yếu tuyệt đối sự bổ sung những
"đam bẩm sinh" (về mùi vị, màu sắc, âm nhạc, sự chuyển động v.v.). Nhu yếu phát
triển được chia thành ba nhóm dựa trên những đặc điểm bản nhất của nh vi. Những
đặc điểm này, cũng giống như c nhu yếu tuyệt đối, không phụ thuộc vào tính chất
của môi trường sống, vào thời điểm lịch sử, o các giá trị hội; chúng đặc trưng cho
mọi sinh vật, mọi thể sống nói lên sự tương tác qua lại của thể với môi trường.
Những nhu yếu đấy là:
Nhu yếu nhập thế: sự cần thiết tiếp nhận c đối ợng ích cho thể. Đặc
điểm của ớng nhu cầu vào những đối ợng với mục đích tiếp nhận
chúng dạng chúng có;
Nhu yếu xuất thế: sự cần thiết tác động vào các đối tượng bên ngoài đôi
khi ngay chính thể của bản thân. Đặc điểm của nó hướng nhu cầu vào các
đối tượng với mục đích làm thay đổi trạng thái của chúng bằng phương pháp
nào đó theo một ý tưởng định sẵn tưởng định sẵn: kết quả tổng hợp của
duy từ thông tin về những sự vật thực tế);
Nhu yếu vị thế riêng: là sự cần thiết tạo vị trí của thể trong thế giới xung
quanh. Đặc điểm của hướng nhu cầu vào các đối tượng với mục đích củng
Nhu cầu
5/5
cố vị thế cá thể xác định một cách có ý thức đối với những thể khác hoặc
hoàn cảnh bên ngoài. Nói cách khác, nhu yếu này bắt chủ th phải xác định vị
trí định hướng hoạt động của nh sao cho phù hợp với sự thay đổi của thế
giới xung quanh.
Nhu yếu nhập thế nhu yếu xuất thế phản ánh một đặc tính nổi bật của con người sự
mong muốn nhận thức thế giới. Chúng khác nhau chỗ nhu yếu th nhất thể hiện tính
thụ động, còn nhu yếu thứ hai thể hiện tính chủ động. Trong đời sống thực tế một nhu
cầu thường chung ba đặc điểm kể trên, chúng bổ sung cho nhau theo mối quan hệ
“mục đích phương tiện”, nhưng một trong các nhu yếu đó nổi trội hơn cả (mục đích).
vì thế thể gọi những nhu cầu theo tên của nhu yếu ơng ng nổi trội đó. Nhu yếu
phát triển hướng tới những đối tượng mới thay đổi dần những giá trị để phù hợp
với sự thay đổi thường xuyên của môi trường.
Phân tích trên cho thấy tuy đối tượng của nhu cầu hạn, song những nhu yếu phát
triển bản chỉ tồn tại ba dạng kể trên.
Cấu trúc nhu cầu nhân theo cách phân loại trên cho phép hình dung một hệ thống nhu
cầu được xắp xếp như một tế bào nhân của các nhu yếu tuyệt đối, thân các
nhu yếu phát triển và vỏ ngoài cùng các đối ợng được kết dính bởi những h thống
giá trị. Cấu trúc nhu cầu thể hiện mối quan hệ hữu thống nhất giữa các thành phần
trong hệ thống nhu cầu nhân.

Preview text:

Nhu cầu
Nhwuww.princcex ml.co u m
--------------------------------------------
This document was created with Prince, a great way of gettB inở g i:web content onto paper. Wiki Pedia
Nhu cầu là một hiện tượng tâm lý của con người; là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng
của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển. Tùy theo trình độ nhận
thức, môi trường sống, những đặc điểm tâm sinh lý, mỗi người có những nhu cầu khác nhau.
Nhu cầu là cảm giác thiếu hụt một cái gì đó mà con người cảm nhận được.
Nhu cầu là yếu tố thúc đẩy con người hoạt động. Nhu cầu càng cấp bách thì khả năng
chi phối con người càng cao. Về mặt quản lý, kiểm soát được nhu cầu đồng nghĩa với
việc có thể kiểm soát được cá nhân (trong trường hợp này, nhận thức có sự chi phối nhất
định: nhận thức cao sẽ có khả năng kiềm chế sự thoả mãn nhu cầu).
Nhu cầu của một cá nhân, đa dạng và vô tận. Về mặt quản lý, người quản lý chỉ kiểm
soát những nhu cầu có liên quan đến hiệu quả làm việc của cá nhân. Việc thoả mãn nhu
cầu nào đó của cá nhân đồng thời tạo ra một nhu cầu khác theo định hướng của nhà quản
lý, do đó người quản lý luôn có thể điều khiển được các cá nhân.
Nhu cầu là tính chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt hay mất cân bằng của
chính cá thể đó và do đó phân biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu hay còn
gọi là nhu yếu đã được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.
Nhu cầu chi phối mạnh mẽ đến đời sống tâm lý nói chung, đến hành vi của con người
nói riêng. Nhu cầu được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu và sử dụng ở nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đời sống, xã hội.
Đặc trưng của nhu cầu
• Không ổn định, biến đổi; • Năng động;
• Biến đổi theo quy luật; [1]
• Không bao giờ thỏa mãn cùng một lúc mọi nhu cầu;
• Ham muốn không có giới hạn. [2] 1/5 Nhu cầu Các loại nhu cầu
• Vật chất: nhu cầu bẩm sinh (thở, đói, tình dục), nhu cầu thông thường (ăn,
uống, không khí, bài tiết,. .).
• Cảm xúc: tình thương yêu, tán thành, kính trọng, thừa nhận. .
• Xã hội: giáo dục, tôn giáo, giải trí. . Mức độ nhu cầu
1. Mức thứ nhất - Lòng mong muốn; 2. Mức thứ hai - Tham; 3. Mức thứ ba - Đam mê. Biểu hiện nhu cầu • Hứng thú; • Ước mơ; • Lý tưởng. Khái niệm nhu cầu
Từ lâu nhu cầu đã là đối tượng nghiên cứu của hầu hết các ngành khoa học nghiên cứu
sinh học và xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội vấn đề về nhu cầu được tìm thấy
trong nghiên cứu của các nhà khoa học tên tuổi như Jeremy Bentham, Benfild, William
Stanley Jevons, John Ramsay McCulloch, Edward S. Herman. Đó là hiện tượng phức
tạp, đa diện, đặc trưng cho mọi sinh vật. Sự hiện diện của nhu cầu ở bất kì sinh vật nào,
ngay cả ở bất kì xã hội nào được xem như cơ thể sống phức tạp, là đặc điểm để phân
biệt chủ thể đó với môi trường xung quanh.
Cho tới nay chưa có một định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu. Các sách giáo
khoa chuyên ngành hay các công trình nghiên cứu khoa học thường có những định nghĩa
mang tính riêng biệt. Trong phạm vi nhận thức hiện tại có thể định nghĩa nhu cầu là tính
chất của cơ thể sống, biểu hiện trạng thái thiếu hụt của chính cá thể đó và do đó phân
biệt nó với môi trường sống. Nhu cầu tối thiểu nhất, hay còn gọi là nhu yếu tuyệt đối, đã
được lập trình qua quá trình rất lâu dài tồn tại, phát triển và tiến hóa.[3]
Nhu cầu được hiểu là sự cần thiết về một cái gì đó. Nhưng “cái gì đó” chỉ là hình thức
biểu hiện bên ngoài của nhu cầu. Sau hình thức biểu hiện ẩn chứa bản chất của nhu cầu
mà có thể tạm gọi là "nhu yếu". Nhu yếu đang nói đến lại có thể được xem là hình thức
biểu hiện của một nhu yếu khác căn bản hơn. Như vậy khái niệm nhu cầu và nhu yếu
mang tính tương đối với nhau. Điều đó cho thấy rằng nhu cầu của cơ thể sống là một hệ
thống phức tạp, nhiều tầng lớp, bao gồm vô số các chuỗi mắc xích của hình thức biểu
hiện và nhu yếu liên kết chằng chịt, có khả năng phát triển và đa dạng hóa. Tuy nhiên, 2/5 Nhu cầu
để dễ nhận dạng, một nhu cầu riêng biệt đơn giản nhất được cấu thành bởi một nhu yếu
và một hình thức biểu hiện.
Hình thức biểu hiện nhất định được cụ thể hóa thành đối tượng của một nhu cầu nhất
định. Đối tượng của nhu cầu chính là cái mà nhu cầu hướng đến và có thể làm thỏa mãn
nhu cầu đó. Một đối tượng có thể làm thỏa mãn một số nhu cầu, một nhu cầu có thể
được thỏa mãn bởi một số đối tượng, trong đó mức độ thỏa mãn có khác nhau.
Tính đa dạng của đối tượng tạo nên sự vô hạn của nhu cầu. Alfred Marshall viết rằng:
“Không có số để đếm nhu cầu và ước muốn”[4]. Về vấn đề cơ bản của khoa học kinh tế
- vấn đề nhu cầu con người - hầu hết các sách đều nhận định rằng nhu cầu không có giới hạn.
Cấu trúc nhu cầu cá nhân
Aristotle đã cho rằng con người có hai loại nhu cầu chính: thể xác và linh hồn[5]. Sự
phân loại này mang tính ước lệ lớn nhưng nó ảnh hưởng đến tận thời nay và người ta
quen với việc phân nhu cầu thành "nhu cầu vật chất" và "nhu cầu tinh thần". Ngoài ra
còn tồn tại nhiều kiểu phân loại khác dựa trên những đặc điểm hay tiêu chí nhất định.
Trọng tâm chú ý của các nhà khoa học là xếp đặt nhu cầu theo một cấu trúc thứ bậc.
Ý tưởng về thứ bậc của nhu cầu bắt đầu nảy sinh từ đầu thế kỉ trước. Benfild viết:
“Quan điểm đầu tiên của luận thuyết về nhu cầu nói rằng sự thỏa mãn nhu cầu bậc thấp
trong thang độ nhu cầu sẽ sinh ra mong muốn được thỏa mãn nhu cầu bậc cao hơn”[6].
Trong số các công trình nghiên cứu hiện đại có thể kể đến kết quả phân loại như K.
Alderfer: tồn tại, quan hệ, nâng cao; D. Mc Clelland: thành quả, tham dự, quyền lực;
V. Podmarcow: đảm bảo, khuynh hướng, uy tín; V. Tarasenko: tồn tại, phát triển; A.
Maslow: sinh lý, an toàn, tham dự, (được) công nhận, tự thể hiện. . Năm cấp bậc nhu
cầu theo phân loại của A. Maslow được xếp theo hình bậc thang hay hình chóp kim tự
tháp với thứ tự liệt kê như trên thể hiện quan điểm rằng sự thỏa mãn nhu cầu theo thứ tự
từ dưới lên. Người ta đã chỉ ra rằng thực tế sự thỏa mãn nhu cầu không nhất thiết phải tuân theo quy luật đó.
Boris M. Genkin[7] chia nhu cầu ra hai nhóm: nhu cầu tồn tại và nhu cầu đạt mục đích
sống. Nhu cầu tồn tại gồm nhu cầu sinh lí, nhu cầu an toàn và nhu cầu tham dự. Trong
nhu cầu đạt mục đích có bốn nhóm: 1) giàu có về vật chất; 2) quyền lực và danh vọng;
3) kiến thức và sáng tạo; 4) hoàn thiện tinh thần. Tùy vào thiên hướng của từng cá nhân
mà một trong số bốn nhu cầu trên thể hiện nổi trội. Có thể trong một người hiện diện cả
bốn dạng nhu cầu đó nhưng ở các giai đoạn khác nhau trong đời.
Tất cả các cách thành lập cấu trúc nhu cầu cá nhân từ trước đến nay có những hạn chế
nhất định. Nếu số nhóm nhu cầu ít (gồm hai nhóm) thì phân loại nặng tính ước lệ, giảm
ý nghĩa phân tích. Nếu số nhóm nhu cầu nhiều thì phân loại không đáp ứng được tính 3/5 Nhu cầu
bao trùm, nghĩa là khi đó còn nhiều dạng nhu cầu nằm ngoài các nhóm, ví dụ như nhu
cầu về tín ngưỡng, tự do. Kết luận của các nhà khoa học là: sự cản trở việc phân loại
chính là không thể xác định được giới hạn của nhu cầu.
Cách phân loại mới [8] dựa vào phân tích bản chất của nhu cầu. Trên quan điểm mỗi
nhu cầu được hình thành từ hình thức biểu hiện và nhu yếu nên có thể thực hiện phân
loại theo hai thành phần đấy.
Hình thức biểu hiện được phân loại thông qua đối tượng của nhu cầu. Chúng chính là
tất cả những gì có ý nghĩa đối với đời sống con người. Đối tượng của nhu cầu có thể là
những sự vật cụ thể trong thế giới xung quanh, có thể là những yếu tố của tư duy. Nhận
thức của con người và xã hội càng cao thì phạm vi đối tượng có ý nghĩa càng rộng. Như
vậy đối tượng của nhu cầu được phân loại theo các lĩnh vực hoạt động của con người:
xã hội, kinh tế, chính trị, pháp luật, môi trường, tôn giáo, y tế, văn hóa-giáo dục-khoa
học, đời sống cá nhân. Ranh giới của các lĩnh vực này không hoàn toàn rõ nét vì có sự
đan xen. Tuy nhiên trong mỗi lĩnh vực hoạt động có sự định hình mối liên kết đặc biệt
giữa các đối tượng, tạo nên những "hệ thống giá trị" mà vai trò của chúng là điều hòa
sự mâu thuẫn giữa các nhu cầu khác nhau. Đôi khi chính những hệ thống giá trị này gây
cản trở sự tiếp cận những đối tượng mới. Hệ thống giá trị có thể bị phá vỡ hoặc có sự
thay đổi bổ sung tùy vào sự thay đổi của môi trường sống.
Nhu yếu được phân loại thành nhu yếu tuyệt đối và nhu yếu phát triển. Nhóm thứ nhất
liên quan trực tiếp đến các hành vi bản năng và vô thức. Hình thức biểu hiện, hay đối
tượng tương ứng, của chúng là không thể thay thế. Sự không đáp ứng các nhu yếu này
sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho cơ thể sống. Nhu yếu phát triển là những nhu yếu
mang tính phức tạp, là kết quả kết hợp của những nhu yếu tuyệt đối và sự bổ sung những
"đam mê bẩm sinh" (về mùi vị, màu sắc, âm nhạc, sự chuyển động v.v.). Nhu yếu phát
triển được chia thành ba nhóm dựa trên những đặc điểm cơ bản nhất của hành vi. Những
đặc điểm này, cũng giống như các nhu yếu tuyệt đối, không phụ thuộc vào tính chất
của môi trường sống, vào thời điểm lịch sử, vào các giá trị xã hội; chúng đặc trưng cho
mọi sinh vật, mọi cơ thể sống và nói lên sự tương tác qua lại của cá thể với môi trường. Những nhu yếu đấy là:
• Nhu yếu nhập thế: là sự cần thiết tiếp nhận các đối tượng có ích cho cá thể. Đặc
điểm của nó là hướng nhu cầu vào những đối tượng với mục đích tiếp nhận chúng ở dạng chúng có;
• Nhu yếu xuất thế: là sự cần thiết tác động vào các đối tượng bên ngoài và đôi
khi ngay chính cơ thể của bản thân. Đặc điểm của nó là hướng nhu cầu vào các
đối tượng với mục đích làm thay đổi trạng thái của chúng bằng phương pháp
nào đó và theo một ý tưởng định sẵn (ý tưởng định sẵn: kết quả tổng hợp của tư
duy từ thông tin về những sự vật thực tế);
• Nhu yếu vị thế riêng: là sự cần thiết tạo vị trí của cá thể trong thế giới xung
quanh. Đặc điểm của nó là hướng nhu cầu vào các đối tượng với mục đích củng 4/5 Nhu cầu
cố vị thế mà cá thể xác định một cách có ý thức đối với những cá thể khác hoặc
hoàn cảnh bên ngoài. Nói cách khác, nhu yếu này bắt chủ thể phải xác định vị
trí và định hướng hoạt động của mình sao cho phù hợp với sự thay đổi của thế giới xung quanh.
Nhu yếu nhập thế và nhu yếu xuất thế phản ánh một đặc tính nổi bật của con người là sự
mong muốn nhận thức thế giới. Chúng khác nhau ở chỗ nhu yếu thứ nhất thể hiện tính
thụ động, còn nhu yếu thứ hai thể hiện tính chủ động. Trong đời sống thực tế một nhu
cầu thường có chung ba đặc điểm kể trên, chúng bổ sung cho nhau theo mối quan hệ
“mục đích – phương tiện”, nhưng một trong các nhu yếu đó nổi trội hơn cả (mục đích).
Và vì thế có thể gọi những nhu cầu theo tên của nhu yếu tương ứng nổi trội đó. Nhu yếu
phát triển hướng tới những đối tượng mới và thay đổi dần những giá trị cũ để phù hợp
với sự thay đổi thường xuyên của môi trường.
Phân tích trên cho thấy tuy đối tượng của nhu cầu là vô hạn, song những nhu yếu phát
triển cơ bản chỉ tồn tại ở ba dạng kể trên.
Cấu trúc nhu cầu cá nhân theo cách phân loại trên cho phép hình dung một hệ thống nhu
cầu được xắp xếp như một tế bào mà nhân của nó là các nhu yếu tuyệt đối, thân là các
nhu yếu phát triển và vỏ ngoài cùng là các đối tượng được kết dính bởi những hệ thống
giá trị. Cấu trúc nhu cầu thể hiện mối quan hệ hữu cơ và thống nhất giữa các thành phần
trong hệ thống nhu cầu cá nhân. 5/5
Document Outline

  • Đặc trưng của nhu cầu
  • Các loại nhu cầu
  • Mức độ nhu cầu
  • Biểu hiện nhu cầu
  • Khái niệm nhu cầu
  • Cấu trúc nhu cầu cá nhân