





Preview text:
Những nội dung cơ bản của bộ luật Hồng Đức?
1. Bộ luật Hồng Đức là gì?
Bộ luật Hồng Đức hay còn được gọi dưới nhiều tên gọi khác như Quốc triều
hình luật hay Lê triều hình luật. Đây là bộ luật chính thức của nhà nước Đại
Việt Lê sơ kéo dài từ năm 1428 đến năm 1527. Từ những ghi chép sử sách
để lại thì bộ luật Hồng Đức không có tên gọi chính thức, các bộ luật của các
triều đại phong kiến Việt Nam đều có tên gọi chung là Quốc triều hình luật, để
phân biệt với các bộ Luật của các triều đại trước nên nhà Lê quyết định lấy
tên niên thứ hai của vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) là "Hồng Đức" làm tên cho bộ luật.
Bộ luật Hồng Đức được coi là những ghi chép tổng hợp các quy phạm pháp
luật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau về các lĩnh vực như: Lĩnh vực dân sự,
lĩnh vực hình sự, lĩnh vực hành chính, hôn nhân gia đình, tố tụng... So với hệ
thống lập pháp của các triều đại trước và các quốc gia trong khu vực thời bấy
giờ thì Bộ luật Hồng Đức được đánh giá cao, là một bước tiến cho hệ thống
pháp luật Đại Việt thời kì này.
2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển
Dựa vào những lưu trữ còn lại tới ngày nay, thì Bộ quốc triều luật nhà Lê sơ
có hai bản in ván khắc và một bản là sách chép tay với tên Lê triều hình luật
tuy nhiên sau khi nghiên cứu, đánh giá các chuyên gia đã kết luận bản chép
tay Lê triều hình luật có nội dung sao chép lại bản Quốc triều hình luật thời
hậu Lê. Trong đó hai mẫu bản còn lưu lại, có một bản mang kí hiệu A.341
được đánh giá là bản in khắc hoàn thiện và có giá trị nhất tính tới thời điểm
hiện tại. Còn về nguồn gốc tác giả và khoảng thời gian ra đời chính thức của
Bộ luật Hồng Đức cho đến nay vẫn chưa tìm thấy ghi chép chính xác; trước
đây có một số suy đoán Bộ luật được khởi thảo vào khoảng giữa thế kỉ XV -
giai đoạn vua Lê Thánh Tông trị vì. Tuy nhiên, cho đến gần đây các nhà
nghiên cứu sử học lại đang cho rằng Quốc triều hình luật đã ra đời sớm hơn
từ khoảng đầu thế kỉ XV, thời đại của vua Lê Thái Tổ những năm 1428, và
được lưu truyền, soạn thảo, sửa đổi và bổ sung các điều khoản qua các đời
vua Lê và cho đến thời vua Lê Thánh Tông hoàn chỉnh.
3. Bố cục của Bộ luật Hồng Đức
Bố cục của Bộ luật Hồng Đức gồm 2 phần lớn: Phần mở đầu là bản phụ quy
định về biểu đồ các hạng để tang và tang phục, kích thước và các hình cụ (roi,
trượng, gông, dây...). Bản phụ lục được trình bày dưới dạng biểu đồ chứ
không được quy định dưới dạng điều luật cụ thể. Phần hai của Bộ luật là
phần nội dung chính được ghi chép đầy đủ trong 6 quyển tách rời với tổng 13
chương và 722 điều luật: 1) Chương "Danh lệ" ghi rõ 49 điều quy định về
những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối toàn bộ các nội dung chương, điều
khoản còn; 2) Chương "Vệ cấm" gồn 47 điều chủ yếu quy định về quân đội
bảo vệ kinh thành, hoàng tộc, các tội danh có liên quan. 3) Chươnng "Vi chế"
với 144 điều khoản quy định về hình phạt xử lý các quan lại triều thần; 4)
Chương "Quân chính" gồm 43 điều liên quan đến các biện pháp quân sự
nhằm răn đe, kỉ luật các tướng, sĩ triều đình 5) Chương "Hô hôn" với 58
xoanh quanh vấn đề giải quyết và xử lý tội phạm liên quan đến vấn đề hộ tịch,
nhân thân, hôn nhân và gia đình; 6) Chương "Điền sản" gồm 59 điều liên
quan đến lĩnh vực ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội trạng có liên
quan. 7) Chương "Thông gian" các quy định về tội phạm gian dâm, vi phạm
quy chế hôn nhân vợ chồng được gói gọn trong 10 điều; 8) Chương "Đạo tặc"
chủ yếu quy định về quy định xử trí các hành vi trộm cắp, giết người hoặc có
mưu đồ hại vua phản trong 54 điều; 9) Chương "đạo tụng" là về các tội danh
liên quan đến quấy rối trật tự xã hội, bôi nhọ danh dự nhân phẩm người khác.
10) Chương "Trá ngụy" với 38 điều liên quan đến các tội giả mạo, lừa dối
trong các lĩnh vực giao dịch dân sự, các quy định khác nhau về khế ước (hợp
đồng)....; 11) Chương "Tạp luật" với 92 điều khoản là những vấn đề liên quan
tới các tội phạm gây nguy hiểm cho xã hội mà chưa được quy định ở các
chương khác. 12) Chương "Bộ vong" có 13 điều nêu chi tiết cách quy định xử
lý tội phạm đào tẩu, vượt ngục, chạy trốn. 13) Chương "Đoán ngục " chủ yếu
là các điều khoản về tố tụng hình sự, dân sự và nhiều lĩnh vực có liên quan.
Bộ luật Hồng Đức là một bộ luật tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội lúc bấy giờ. Cũng giống như các văn bản
pháp luật đương thời, Quốc triều hình luật thời Lê sơ thể hiện tính giai cấp rõ
rệt, các quy định ban hành nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của tầng lớp vua
quan, quý tộc, vương quyền phong kiến. Nhà nước bảo an ninh, trật tự xã hội
chủ yếu bằng các hình phạt, biện pháp mang tính răn đe, cưỡng chế thi hành,
mang nặng tính hình sự. Nhìn chung Bộ luật Hồng Đức vẫn mang tính kế
thừa tư tưởng - chính trị Nho giáo, tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ
nhận những tiến bộ của Bộ luật trong hệ thống lập pháp thời bấy giờ.
4. Nội dung của Bộ luật Hồng Đức
4.1. Quy định trong lĩnh vực dân sự
Lĩnh c dân sự Bộ luật Hồng Đức chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: quan hệ
sở hữu ruộng dất, khế ước, quan hệ thừa kế.
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu và khế ước ruộng đất. Ở thời kì phong kiến chỉ
có duy nhất hai quan hệ sở hữu ruộng đất là công điền và tư điền (sở hữu
nhà nước với sở hữu cá nhân về ruộng đất).Kế thừa những quy định, trật từ
về sở hữu ruộng đất từ các triều đại trước, ở thời kì Hồng Đức chế độ lộc
điền - công điền tương đối ổn định chính vì vậy mà Bộ quốc triều hình luật
chủ yếu tập trung vào việc thiết lập các chế tài xử lý đối với trường hợp có
hành xâm phạm, tư lợi từ tài sản công ví dụ như hành vi bán ruộng đất công,
biến ruộng công thành ruộng tư, ẩn lậu để trốn thuế.... Ngoài ra, các quan hệ
về khế ước cũng được quy định rõ ràng, yêu cầu lập thành văn và có người chứng thực.
Thứ hai, về quan hệ thừa kế, đây được đánh giá là điểm nổi bật nhất trong
Bộ luật dưới thời nhà Lê sơ. Những quy định về thừa kế dưới triều đại nhà Lê
có nhiều nét tương đồng với quy định về thừa kế của Bộ luật dân sự 2015
hiện nay. Cụ thể, quan hệ thừa kế chỉ phát sinh và có hiệu lực khi cha hoặc
mẹ qua đời nhằm bảo tồn và duy trì sự trường thọ cho dòng tộc. Ngoài ra,
quy định về việc con gái được hưởng thừa kế ngang hàng với con trai cũng
được đánh giá là bước đi đổi mới tiến bộ trong hệ thống lập pháp, khi mà vấn
đề này trước chưa từng đề cập trong các Bộ luật phong kiến Việt Nam trước
đây. Bên cạnh đó, việc phân chia tài sản vợ chồng hình thành trước và sau
khi kết hôn cũng đã được nhắc tới.
4.2. Quy định trong lĩnh vực hình sự
Hình luật là nội dung chủ yếu, bao trùm toàn bộ Bộ luật Hồng Đức. Các
nguyên tắc hình sự thời bấy giờ có nhiều điểm khá tương đồng với các
nguyên tắc xây dựng Bộ luật hình sự 2015.
- Vô luật bất thành hình có thể hiểu là chỉ khép tội khi có luật quy định, áp
dụng đúng hình phạt và không thêm bớt tội danh được quy định chi tiết tại
điều 642, 683, 685, 708, 722.
- Chiếu cố là miễn tội, giảm tội đối với người già, trẻ em, người tàn tật quy
định tại điều 1, 3, 5, 8, 16, 17, 680. Quy định này được đánh giá là đã thể
hiện tính nhân đạo của vua Lê đối với quần chúng nhân dân.
- Chuộc tội bằng tiền đối với một số tội danh như trượng (đánh bằng cây roi
lớn), biếm (giáng chức), đồ (giam cầm đi làm khổ sai), khao đinh (phục dịch
trong trại lính), tang thất phụ (phục dịch ở nơi nuôi tằm), lưu (lưu đày), tử (giết
chết), thích chữ (vào cổ hoặc mặt) quy định tại điều 6,16, 21, 24. Tuy nhiên
nhà nước cũng phân loại rõ hình thức chuộc tiền không được phép áp dụng
với các tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội hoặc tội cần phải răn đe, giáo dục.
- Trách nhiệm hình sự quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu rõ tại các điều 16, 35, 38, 411.
- Miễn giảm trách nhiệm hình sự quy định về việc miễn giảm trách nhiệm hình
sự trong các trường hợp phòng vệ chính đáng, tình trạng bất khả kháng, thi
hành mệnh lệnh hay tự thú tại điều 18, 19, 50, 499.
- Thưởng người tố giác, che giấu tội phạm điều 25, 39, 411, 504.
Ngoài ra, lĩnh vực hình sự trong Bộ luật Hồng Đức còn phân loại tội phạm căn
cứ theo hình phạt, lỗi (vô ý hay cố ý), âm mưu phạm tội, tính chất phạm tội.
Bên cạnh đó còn quy định về các nhóm hình phạt, căn cứ tính chất phạm tội
để tăng nặng hoặc giảm nhẹ tội danh. Chính những quy định chi tiết nhưng
có phần hơi cứng nhắc này đã tạo thành cơ sở pháp lý vững chắc cho cơ
quan hành pháp thực thi pháp luật, bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền,
bảo đảm trật tự và công bằng xã hội khiến dân chúng yên lòng phục tùng mệnh lệnh.
4.3. Quy định trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Bộ luật Hồng Đức quy định khá cụ thể, chi tiết về các hoạt động kết hôn và ly
hôn. Nhìn chung vẫn giữ nguyên những nguyên tắc về hôn nhân cơ bản trong
xã hội phong kiến - xã hội chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo: hôn
nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng.
Về kết hôn, Bộ Luật đặt ra những điều kiện để kết hôn cụ thể phải có sự cho
phép của bố mẹ, những trường hợp không được kết hôn (cùng huyết thống,
có tang người thân...) hay hình thức và thủ tục kết hôn như đính hôn và kết hôn.
Chấm dứt hôn nhân, cũng giống như trong Luật hiện đại quy định việc chấm
dứt hôn nhân chỉ xảy ra khi một trong hai người chết (nếu người chồng là
người chết thì sau khi mãn tang mới chính thức chấm dứt hôn nhân) hoặc ly
hôn. Việc ly hôn được phân loai: buộc phải ly hôn do vi phạm điều cấm, ly
hôn do lỗi người vợ, ly hôn do lỗi người chồng. Đặc biệt quy định 308 "Phàm
chồng đã bỏ lửng vợ không đi lại thì mất ". Quy định mới này đã đứng ra bảo
vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, hình thành
nghĩa vụ bắt buộc người chồng phải có trách nhiệm với vợ và gia đình.
5. Những điểm nổi bật của Bộ luật Hồng Đức
Bộ quốc triều hình luật dưới thời đại Lê sơ đã có sự học hỏi và tiếp thu thành
tựu lập pháp của Trung Hoa chủ yếu là dưới thời Nhà Minh và nhà Đường.
Tuy nhiên Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định nội dung chú trọng hơn đối
với văn thư, chúc thư, phân chia tài sản thừa kế, tài sản vợ chồng khi góa
bụa... Chẳng phải thế mà cho tới thời kì Pháp thuộc hay tòa Thượng thẩm Sài
Gòn thời kì Việt Nam Cộng vẫn còn sử dụng những quy định trong Bộ luật
Hồng Đức để phân xử, hành pháp. Điều này chứng tỏ giá trị và tính ứng dụng
của Bộ luật Hồng Đức.
Bộ luật Hồng Đức còn được đánh giá là đỉnh cao của thành tựu lập pháp
phong kiến Việt Nam, Bộ luật đã có những tư duy mới mang tính tiến bộ, bắt
kịp tinh hoa văn hóa nhân loại thời bấy giờ. So sánh Bộ quốc triều hình luật
với Bộ Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long - 1811) ra đời sau hàng trăm năm,
dù Hồng Đức không mang tính khái quát hóa và hệ thống cao như Hoàng
Việt nhưng Bộ luật Hồng Đức có những quy định bảo vệ quyền và lợi ích của
người phụ nữ, đây được đánh giá là bước đi tiến bộ mà các triều đại khác
chưa làm được. Vị thế của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mang nặng
tư tưởng Nho giáo trước giờ chưa bao giờ được đề cao, chỉ cho đến khi Bộ
quốc triều hình luật thì vị thế người phụ nữ đã được đề cao. Thứ nhất, người
phụ nữ hoàn toàn bình đẳng trong việc thừa kế tài sản với nam giới, hay
người vợ có quyền quản lý tài sản sau khi người chồng qua đời. Thứ hai,
hình phạt đối với nữ phạm nhân cũng nhẹ hơn so với nam phạm nhân, điều
này cũng hoàn toàn dễ hiểu do đặc trưng cấu tạo cơ thể người nữ giới vốn
yếu hơn so với cơ thể nam giới vì vậy mà những hình phạt áp dụng cũng
khác nhau. Thứ ba, nhà Lê sơ vốn nổi tiếng là một trong những triều đại chú
trọng phát triển nông nghiệp và có nền nông nghiệp cực thịnh. Điều này thể
hiện rõ qua các quy định trong Bộ luật Hồng Đức khi đặt ra các điều luật xử
phạt vô cùng nghiêm khắc với các tội danh phá hoại đê điều (điều 596); phá
hoại cây cối, mùa màng (điều 601); cấm giết mổ trâu, bừa bãi (điều 580);
thậm chí không được điều động dân phu trong ngày cấy gặt... Bộ luật dưới
thời nhà Lê còn tiếp thu, chọn lọc những tư tưởng Nho giáo tốt đẹp, đặc biệt
quan tâm đến lợi ích của nhân dân trong mối quan hệ xã hội. Khổng Tử vốn
rất chú trọng, đề cao những triết lý nhân sinh tiến bộ. Mặc dù không thể tránh
khỏi những ảnh hưởng từ tư tưởng giai cấp, tuy nhiên các nhà làm luật ở thời
kì này vẫn đưa ra nhiều quy định sáng tạo nhằm bảo vệ lợi ích cơ bản, danh
dự nhân phẩm của người dân, đặc biệt là tầng lớp giai cấp dưới. Các điều
luật được ban hành lúc bấy giờ quy định xử phạt rất nặng đối với những kẻ
phạm tội xâm phạm đến tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người khác
không phân biệt giai cấp, địa vị (Điều 467, 470...). Bộ quốc triều hình luật còn
đặt nặng vai trò của những nhà cầm quyền đối với nhân dân nhằm đảm bảo
mục tiêu quốc thái dân an, thái bình thịnh vượng, chịu ảnh hưởng rõ nét từ tư tưởng Khổng - Mạnh.
Ngoài ra Bộ Luật Hồng Đức cũng được đánh giá là nhẹ hơn các triều đại
trước và nhẹ hơn luật của triều đại nhà Nguyễn sau này, có cả sự cân nhắc
trong xử lý người phạm tội là trẻ nhỏ, người già, người tàn tật. Chính những
đổi mới này đã tạo nên tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc của người Việt.
Ngày nay trong công cuộc xây dựng pháp luật của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì nhân; Đảng và nhà nước luôn
chủ trương cần phải nghiên cứu, tiếp thu, những giá trị tinh túy, cốt lõi trong
Bộ luật Hồng Đức. Những văn hóa truyền thống pháp lý tốt đẹp của một đất
nước với về dày lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước sẽ đóng vai trò, ý
nghĩa vô cùng to lớn trong việc đảm bảo an nình, trật tự và bình đẳng cho
một một xã hội nói riêng và người phụ nữ nói riêng.
Document Outline
- Những nội dung cơ bản của bộ luật Hồng Đức?- 1. Bộ luật Hồng Đức là gì?
- 2. Nguồn gốc và lịch sử phát triển
- 3. Bố cục của Bộ luật Hồng Đức
- 4. Nội dung của Bộ luật Hồng Đức - 4.1. Quy định trong lĩnh vực dân sự
- 4.2. Quy định trong lĩnh vực hình sự
- 4.3. Quy định trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình
 
- 5. Những điểm nổi bật của Bộ luật Hồng Đức
 
