Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: Văn học và đời sống hai vòng
tròn đồng tâm tâm điểm con người”. Văn chương lấy con người làm đối
tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính viết về điều
thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát đích đến cuối
cùng vẫn viết “một áng văn trung thực giản dị về con người”. Với mỗi tác
phẩm, người đọc lại dịp chiêm nghiệm về những con người khác nhau. Trong
tác phẩm vợ chồng A Phủ, Hoài đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi
trong tâm hồn người đọc về nhân vật Mị- một trái tim yêu soogs tha thiết.Đặc
biệt trong đêm tình mùa xuân, nét tính cách ấy càng được bộc lộ nét hơn, để
lại ấn tượng sâu sắc trong long chúng ta.
Hoài
y đại th của nền n học Việt Nam hiện đại. Với
n 60 năm cầm bút, ông đã để lại gần 200 đầu ch thuc
nhiu thể loi khác nhau. Thật khó để m được một nhà n
o có sức sáng tạo dồi dào đến thế. Nhất khi, cả “gia tài” đồ
sộ ấy đều in đậm du ấn của mt y t hiện thc, Nhưng đ
thực sự m nên dấu ấn của Tô Hoài trên n đàn, phải kể đến
vốn hiểu biết phong phú của ông v phong tục tập quán của
nhiu n tộc, nhiu vùng min khác nhau tn đất nước ta.
Truyn ngắn “V chng A Phủ đã th hiện nhng t đặc
sắc ấy trong phong cách n chương của Hoài. Mang m
niệm “Viết n một quá trình đấu tranh đ nói ra sự thật”,
nhà n đã tìm v với miền rừng i y bắc, a mình vào
cuộc sống ca nhân dân nơi đây trong chuyến đi thực tế .Từ
chuyến thực tế y mà đứa con tinh thần của tác gi - tập
“Truyn Tây Bắc đã ra đời, “Vợ chồng A Phủ một trong
ba truyện ngn thuộc tập truyn nổi tiếng trên. được ng c
m 1952 in trong tập truyện Tây Bắc (1953),
Hoài đã từng quan niệm rằng: “Nhân vật là linh hồn trụ cột của tác
phẩm”. Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm thành
công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật
trung tâm của câu truyện, nhân vật mới thể xây dựng được cốt truyện,
diễn biến của truyện. Trong c phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị nhân vật chính
của câu chuyện. Được biết đến gái xinh đẹp, trẻ trung, tài hoa tài năng
thổi hay n thổi sáo. đang một thanh xuân tươi đẹp bên người
mình yêu thương. Thế nhưng, chỉ món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy
nhau để lại, Mị đã trở thành món hàng, bị lừa bắt trở thành con dâu gạt nợ
không công cho nhà thống Tra. Cuộc sống của từ đó gắn với đọa đầy
về cả thể xác tâm hồn, sống n đã chết lúc nào cũng ch âm thầm như
một chiếc bóng, lẻ loi đơn độc, cho đến đêm tình mùa xuân năm ấy, khi tiếng
sáo tình yêu xuất hiện, cùng lúc khơi dậy khả năng sống tiềm tàng trong
gái trẻ này.
Mị bắt đầu nh về quá kh tìm thy niềm vui niềm hạnh
phúc ẩn u trong ức ơi đẹp này: “m lén lấy rượu, c
uống c từng t”. Vẫn biết rằng chén u thứ không thể
thiếu trong nhng cuộc vui ngày Tết. Xuân y, M cũng uống
rượu, nhưng i cách M uống như điều khác thưng:
“uống ực từng bát”. Có cảm tưởng rằng M không ch uống, mà
đang dùng rượu để nuốt trôi những cay đắng, u uất trong lòng.
Hay M uống đ dn xuống tất c nhng cảm xúc nổi loạn đang
trực ch trỗi dậy ? quá nhiều th dồn n trong cái ch
“uống ực từng bát ấy, cái nghn lại, khó viết thành lời.
Ch biết rằng, men rượu đã đưa Mị v mt miền nhớ nh xa xôi,
để ng M “sống v ngày trước”. nh đng của M khiến ta
nh đến hình ảnh của nữ độc ẩm trong đêm dai:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng ng xế khuyết chưa tròn
Nh đến hình nh của cụ Thi ng ngửa cổ uống ực từng chén
rượu trong hai đứa tr của Thch Lam. Đó đều nhng hành
động uống rượu để giải tỏa nhng m ức trong m hồn. Men
rượu đã c động sâu sắc đến m trạng mị. Nếu nh sáo mị
rạo rực, xốn xang thì nh tiếng sáo m lại được đắm say cùng
quá khứ, long mị đang sống về nhng ngày trưc. Vả lại đúng
lúc m sao, tiếng o lại vang lên, nhưng c này đã gn hơn,
tiếng sáo gọi bạn đầu làng ng vng. Tất cả đã làm hiện
trên trong c của Mị về một M của ngày xưa. Ngày ấy, Mị
thổi sao giỏi. “M uốn chiếc trên môi, thổi cũng hay như
thổi o”. Thậm chí n biết bao người mê, “ngày đêm thi
o đi theo Mị”. Quá kh ấy mới thật tươi đẹp, tht hạnh phúc
làm sao. Nht khi m trí đã m đi men u, thì ức lại
ng lung linh, ni nhớ lại ng da diếtTiếng thi hay như
thổi sáo ấy đã một lần nữa xé tan cái lặng lẽ của đời M, phá v
cả i yên lặng như n đá tảng đè chặt m hồn Mị. phải
tâm t của Mị đã t thoát ra khi cảnh giam hãm y rồi
chăng ?
Nhưng không, tìm về quá khứ chỉ là liều thuc ngủ để con người
tạm quên trong thoáng chc. Cái quyết định còn nằm thc tại.
rốt cuộc, M vẫn không th thoát khi vòng giam hãm: “M
không c ra đường chơi, mà từ từ bước o buồng”. giải
cho hành đng này, Tô Hi viết: “Chẳng năm o A S cho M
đi chơi Tết. M cũng chng buồn đi”. th thấy, Hoài đã
đặt nhân vật của nh vào thế giằng co, gia một bên là sức
sống đang đà trỗi dậy mt bên cảm thức về thân phận đã
ăn u vào tâm trí. Trong nh thế ấy, Mị như mt ngưi vì bị
trói buộc quá u quên mất nh đã từng được tự do. Cho
n, cui cùng Mị vẫn theo quán tính c vào buồng
một
nh động hợp logic mà đầy t xa.
Thế rồi, trong chính n bung m tối với cái “cửa sổ lỗ vuông
mờ m trăng trắng kia, lòng M chợt bừng ng: “M thấy phơi
phi trở lại, trong lòng đột nhiên vui ng như những đêm Tết
ngày trước”. Nếu như trưc đó, M mới chỉ nh lại c
một
nh động thuộc v ý thc, thì bây giờ, cảm xúc của Mị đã sống
lại. Dường như chính s trỗi dậy v ý thức đã làm cho cm c
sống lại, để cho M không còn cảm, i lũi như trước. Phơi
phi đã đặc tả niềm vui sướng bừng thức lan tỏa nhen nhóm, cứ
rạo rực trong long m. Ngun sức sống ởng chng như đã bị
dập tắt trong đày đọa của địa ch hồng ngài nhưng lại ng
cháy mãnh liệt
Để rồi, từ nhng cảm xúc y, M bắt đầu nhận thc về cuc
sống hiện tại, về sc sống dồi o mãnh liệt của thanh xuân. Mị
biết nh n trẻ: “M trẻ lắm. M vẫn còn trẻ”. Từ trẻ đưc nhà
n điệp lại hai lần đim nhấn trong ý thức của nhân vật
mị.Và thế mà M nảy sinh ý mun đi chơi Tết. Đó vốn dĩ
không đơn thun dừng lại ý mun đi chơi, mà ý muốn đó còn
hiện thân của khao khát tự do, của sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt đang trào ng trong Mị.
Khi ng yêu đời, ham sống ng lên đến đỉnh điểm, ng c
nhn ra biết bao m tối, bất công trong cuc đời mình: Bao
nhiêu người chồng ng đi chơi ngày Tết. Hung chi A S với
Mị, không có ng với nhau vẫn phi với nhau
!”
ng
như cùng với ng ham sống, thì nỗi đau trong M cũng dâng n
đến tột ng. Đó là nỗi đau về một cuc sống kng nh yêu,
không hạnh phúc, bị tước đot tự do, tăm tối không lối thoát.
Thm thía nỗi đau y, M đã nghĩ đến cái chết: “Nếu nắm lá
ngón trong tay c y, M sẽ ăn cho chết ngay, ch không
bun nhớ lại nữa”. ng, Mị không chp nhận hoàn cảnh
thực tại. Một i còn tr, còn xuân sắc, n khát khao, sao
th chấp nhận kiếp sống tăm tối, đọa đày ? Vy n, mặc
bằng cách tiêu cực, nhưng M đã phn kháng lại thực tại. Và
đây cũng c trong M chứa đựng nhiều mâu thuẫn nht: ng
phơi phới nhưng vẫn theo quán tính bước o buồng. Và khi
lòng ham sống trỗi dậy thì M lại muốn chết ngay đi. Tôi chợt
nh đến u i của Hegel: Phi đẩy tới chóp đỉnh cao của
u thuẫn thì sự sống nhiều hình mi vẽ ra”. Phải chăng,
Hoài đã miêu tả m của M trên i đỉnh cao mâu thun đó,
để ta thấy đằng sau người con u gạt nợ lầm i, cảm kia
một i u đời, ham sng đến cung nhit. Giữa c Mị
đang sống ng những cảm c mãnh liệt như thế, thì “tiếng
o gọi bạn yêu vẫn lửng bay ngoài đường”. Lần y, tiếng
o như đã được tâm a, tr thành hiện thân của nhng kí
ức tươi đẹp và niềm thiết tha với cuộc sống ca Mị. Chính tiếng
o gọi bạn yêu ấy đã dìu hồn M vượt lên nghịch cnh, trở
thành biu tượng ca khao khát tự do, hnh phúc. Đọc đến đây,
tôi lại chợt nh tới “Tiếng o Thn Thai của Thế Lữ. Đó i
thanh âm vừa êm nhẹ như một lời tỏ tình, vừa êm đềm như một
điệu trong thế giới thần tiên:
“Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vt vẻo n b y xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp n Ngc Nữ uốn mình trong không”
Hoài đã khơi n sự phẫn n trong ng người đọc trưc thế
lực thng tr tàn ác, i dập con người, lời tố cáo đanh thép
tội ác của bọn lang đạo miền núi. Tưởng rằng từ đây khát vọng
trong M sẽ tắt ngấm như ngn đèn kia, nhưng ngòi bút nhân
đạo của nhà văn đã đem đến cho một sự gii thoát
giải
thoát về tinh thần. Hơi ợu vẫn tỏa, tiếng sáo vẫn vang vng
đâu đây, đưa m trí Mị phu du theo những cuộc chơi, nhng
đám chơi:
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng cảm thức về thân phận. Cho nên trong
thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi
phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra
cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu
tiên được chết ngay đi. Nhưng rồi nỗi ám ảnh sức sống mãnh liệt của tuổi
xuân cứ lớn dần, cho tới khi lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn suy nghĩ của
Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi.
Mị cũng sắp đi chơi
Cuộc sống hiện lên với muôn màu, nhưng lẽ sâu thẳm bên trong lại chính
tâm hồn con người ấy vậy vẫn những nhà thám hiểm đại chuyên phiêu
lưu khám phá thế giới đó những người nghệ văn chương. Đọc đoạn văn
miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, bất cứ ai cũng đều
ngạc nhiên, thán phục trước khả năng am hiểu nội tâm nhân vật của nhà văn
Hoài. Với tài năng nổi bật, Hoài đã miêu tả thật tinh tế những diễn biến tâm
trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn
ngào xót xa. Tác giả đã chọn các góc nhìn điểm nhìn mang tính chất đối lập
để tạo ra hai hình tượng nghệ thuật mang những nét đặc sắc khác nhau. Ngòi
bút ấy còn được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật,
ít miêu tả hành động bên ngoài nếu thì chỉ những hành động lặp đi lặp lại.
Ngoài ra, Hoài còn mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng “Mùa
xuân của thiên nhiên của đất trời n gợi lên cả sức sống mùa xuân trong lòng
Mị”. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm
tàng trong nhân vật Mị, cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi
bút Hoài.
“Ngh thut nằm ngoài quy lut ng hoại, ch mình không
thừa nhn i chết” ( Schedrin ). Để m đưc điều đó, ngh
thut phải hướng đến con ngưi với một tinh thần nhân đạo sâu
sắc. Và như thế, tôi tin rằng “V chng A Phủ một tuyt tác
trường tồn. Áng n y, ng n tuổi Hoài
một nhà n,
nhà nhân đạo ch nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn
không phai trong nền n học nước nhà.

Preview text:

Nhà văn Nguyễn Minh Châu từng quan niệm: Văn học và đời sống là hai vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Văn chương lấy con người làm đối
tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Nhà văn chân chính dù viết về điều
gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích đến cuối
cùng vẫn là viết “một áng văn trung thực và giản dị về con người”. Với mỗi tác
phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm về những con người khác nhau. Trong
tác phẩm vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã tạc nên những trang viết neo đậu mãi
trong tâm hồn người đọc về nhân vật Mị- một trái tim yêu soogs tha thiết.Đặc
biệt trong đêm tình mùa xuân, nét tính cách ấy càng được bộc lộ rõ nét hơn, để
lại ấn tượng sâu sắc trong long chúng ta.
Tô Hoài – cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với
hơn 60 năm cầm bút, ông đã để lại gần 200 đầu sách thuộc
nhiều thể loại khác nhau. Thật khó để tìm được một nhà văn
nào có sức sáng tạo dồi dào đến thế. Nhất là khi, cả “gia tài” đồ
sộ ấy đều in đậm dấu ấn của một cây bút hiện thực, Nhưng để
thực sự làm nên dấu ấn của Tô Hoài trên văn đàn, phải kể đến
vốn hiểu biết phong phú của ông về phong tục tập quán của
nhiều dân tộc, nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta.
Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” đã thể hiện rõ những nét đặc
sắc ấy trong phong cách văn chương của Tô Hoài. Mang tâm
niệm “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật”,
nhà văn đã tìm về với miền rừng núi Tây bắc, hòa mình vào
cuộc sống của nhân dân nơi đây trong chuyến đi thực tế .Từ
chuyến thực tế này mà đứa con tinh thần của tác giả - tập
“Truyện Tây Bắc” đã ra đời, mà “Vợ chồng A Phủ” là một trong
ba truyện ngắn thuộc tập truyện nổi tiếng trên. được sáng tác
năm 1952 in trong tập truyện Tây Bắc (1953),
Tô Hoài đã từng quan niệm rằng: “Nhân vật là linh hồn và là trụ cột của tác
phẩm”. Đặc biệt trong văn xuôi với thể loại truyện ngắn, một tác phẩm có thành
công hay không phụ thuộc hoàn toàn vào nhân vật tham gia bởi nhân vật là
trung tâm của câu truyện, có nhân vật mới có thể xây dựng được cốt truyện,
diễn biến của truyện. Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” Mị là nhân vật chính
của câu chuyện. Được biết đến là cô gái xinh đẹp, trẻ trung, tài hoa có tài năng
thổi lá hay như thổi sáo. Cô đang có một thanh xuân tươi đẹp bên người mà
mình yêu thương. Thế nhưng, chỉ vì món nợ tiền kiếp từ ngày cha mẹ mới lấy
nhau để lại, Mị đã trở thành món hàng, cô bị lừa bắt trở thành cô con dâu gạt nợ
không công cho nhà thống lý Pá Tra. Cuộc sống của cô từ đó gắn với đọa đầy
về cả thể xác và tâm hồn, cô sống mà như đã chết lúc nào cũng chỉ âm thầm như
một chiếc bóng, lẻ loi và đơn độc, cho đến đêm tình mùa xuân năm ấy, khi tiếng
sáo tình yêu xuất hiện, cùng là lúc khơi dậy khả năng sống tiềm tàng trong cô gái trẻ này.
Mị bắt đầu nhớ về quá khứ và tìm thấy niềm vui niềm hạnh
phúc ẩn sâu trong kí ức tươi đẹp này: “mị lén lấy hũ rượu, cứ
uống ực từng bát”. Vẫn biết rằng chén rượu là thứ không thể
thiếu trong những cuộc vui ngày Tết. Xuân này, Mị cũng uống
rượu, nhưng cái cách Mị uống như có điều gì khác thường:
“uống ực từng bát”. Có cảm tưởng rằng Mị không chỉ uống, mà
đang dùng rượu để nuốt trôi những cay đắng, u uất trong lòng.
Hay Mị uống để dằn xuống tất cả những cảm xúc nổi loạn đang
trực chờ trỗi dậy ? Có quá nhiều thứ dồn nén trong cái cách
“uống ực từng bát” ấy, có cái gì nghẹn lại, khó viết thành lời.
Chỉ biết rằng, men rượu đã đưa Mị về một miền nhớ nhớ xa xôi,
để lòng Mị “sống về ngày trước”. Hành động của Mị khiến ta
nhớ đến hình ảnh của nữ sĩ độc ẩm trong đêm dai:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Nhớ đến hình ảnh của cụ Thi cũng ngửa cổ uống ực từng chén
rượu trong hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đó đều là những hành
động uống rượu để giải tỏa những ấm ức trong tâm hồn. Men
rượu đã có tác động sâu sắc đến tâm trạng mị. Nếu nhờ sáo mị
rạo rực, xốn xang thì nhớ tiếng sáo mị lại được đắm say cùng
quá khứ, long mị đang sống về những ngày trước. Vả lại đúng
lúc làm sao, tiếng sáo lại vang lên, nhưng lúc này đã gần hơn,
là tiếng sáo gọi bạn đầu làng văng vẳng. Tất cả đã làm hiện
trên trong kí ức của Mị về một cô Mị của ngày xưa. Ngày ấy, Mị
thổi sao giỏi. “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo”. Thậm chí còn có biết bao người mê, “ngày đêm thổi
sáo đi theo Mị”. Quá khứ ấy mới thật tươi đẹp, thật hạnh phúc
làm sao. Nhất là khi tâm trí đã mờ đi vì men rượu, thì kí ức lại
càng lung linh, nỗi nhớ lại càng da diếtTiếng thổi lá hay như
thổi sáo ấy đã một lần nữa xé tan cái lặng lẽ của đời Mị, phá vỡ
cả cái yên lặng như hòn đá tảng đè chặt tâm hồn Mị. Có phải
tâm trí của Mị đã vượt thoát ra khỏi cảnh giam hãm này rồi chăng ?
Nhưng không, tìm về quá khứ chỉ là liều thuốc ngủ để con người
tạm quên trong thoáng chốc. Cái quyết định còn nằm ở thực tại.
Và rốt cuộc, Mị vẫn không thể thoát khỏi vòng giam hãm: “Mị
không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng”. Lí giải
cho hành động này, Tô Hoài viết: “Chẳng năm nào A Sử cho Mị
đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”. Có thể thấy, Tô Hoài đã
đặt nhân vật của mình vào thế giằng co, giữa một bên là sức
sống đang đà trỗi dậy và một bên là cảm thức về thân phận đã
ăn sâu vào tâm trí. Trong tình thế ấy, Mị như một người vì bị
trói buộc quá lâu mà quên mất mình đã từng được tự do. Cho
nên, cuối cùng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng – một
hành động hợp logic mà đầy xót xa.
Thế rồi, trong chính căn buồng tăm tối với cái “cửa sổ lỗ vuông
mờ mờ trăng trắng” kia, lòng Mị chợt bừng sáng: “Mị thấy phơi
phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết
ngày trước”. Nếu như trước đó, Mị mới chỉ nhớ lại kí ức – một
hành động thuộc về ý thức, thì bây giờ, cảm xúc của Mị đã sống
lại. Dường như chính sự trỗi dậy về ý thức đã làm cho cảm xúc
sống lại, để cho Mị không còn vô cảm, lùi lũi như trước. Phơi
phới đã đặc tả niềm vui sướng bừng thức lan tỏa nhen nhóm, cứ
rạo rực trong long mị. Nguồn sức sống tưởng chừng như đã bị
dập tắt trong đày đọa của địa chủ hồng ngài nhưng lại bùng cháy mãnh liệt
Để rồi, từ những cảm xúc ấy, Mị bắt đầu nhận thức về cuộc
sống hiện tại, về sức sống dồi dào mãnh liệt của thanh xuân. Mị
biết mình còn trẻ: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”. Từ trẻ được nhà
văn điệp lại hai lần là điểm nhấn trong ý thức của nhân vật
mị.Và vì thế mà Mị nảy sinh ý muốn đi chơi Tết. Đó vốn dĩ
không đơn thuần dừng lại ở ý muốn đi chơi, mà ý muốn đó còn
là hiện thân của khao khát tự do, của sức sống tiềm tàng, mãnh
liệt đang trào dâng trong Mị.
Khi lòng yêu đời, ham sống dâng lên đến đỉnh điểm, cũng là lúc
cô nhận ra biết bao tăm tối, bất công trong cuộc đời mình: “Bao
nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với
Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau !” Dường
như cùng với lòng ham sống, thì nỗi đau trong Mị cũng dâng lên
đến tột cùng. Đó là nỗi đau về một cuộc sống không tình yêu,
không hạnh phúc, bị tước đoạt tự do, tăm tối không lối thoát.
Thấm thía nỗi đau ấy, Mị đã nghĩ đến cái chết: “Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa”. Rõ ràng, Mị không chấp nhận hoàn cảnh
thực tại. Một cô gái còn trẻ, còn xuân sắc, còn khát khao, sao
có thể chấp nhận kiếp sống tăm tối, đọa đày ? Vậy nên, mặc dù
bằng cách tiêu cực, nhưng Mị đã phản kháng lại thực tại. Và
đây cũng là lúc trong Mị chứa đựng nhiều mâu thuẫn nhất: lòng
phơi phới nhưng vẫn theo quán tính bước vào buồng. Và khi
lòng ham sống trỗi dậy thì Mị lại muốn chết ngay đi. Tôi chợt
nhớ đến câu nói của Hegel: “Phải đẩy tới chóp đỉnh cao của
mâu thuẫn thì sự sống nhiều hình mới vẽ ra”. Phải chăng, Tô
Hoài đã miêu tả tâm lí của Mị trên cái đỉnh cao mâu thuẫn đó,
để ta thấy đằng sau người con dâu gạt nợ lầm lũi, vô cảm kia là
một cô gái yêu đời, ham sống đến cuồng nhiệt. Giữa lúc Mị
đang sống cùng những cảm xúc mãnh liệt như thế, thì “tiếng
sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Lần này, tiếng
sáo như đã được tâm lí hóa, trở thành hiện thân của những kí
ức tươi đẹp và niềm thiết tha với cuộc sống của Mị. Chính tiếng
sáo gọi bạn yêu ấy đã dìu hồn Mị vượt lên nghịch cảnh, trở
thành biểu tượng của khao khát tự do, hạnh phúc. Đọc đến đây,
tôi lại chợt nhớ tới “Tiếng sáo Thiên Thai” của Thế Lữ. Đó là cái
thanh âm vừa êm nhẹ như một lời tỏ tình, vừa êm đềm như một
vũ điệu trong thế giới thần tiên:
“Khi cao vút tận mây mờ
Khi gần vắt vẻo bên bờ cây xanh
Êm như lọt tiếng tơ tình
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không”
Tô Hoài đã khơi lên sự phẫn nộ trong lòng người đọc trước thế
lực thống trị tàn ác, vùi dập con người, là lời tố cáo đanh thép
tội ác của bọn lang đạo miền núi. Tưởng rằng từ đây khát vọng
trong Mị sẽ tắt ngấm như ngọn đèn kia, nhưng ngòi bút nhân
đạo của nhà văn đã đem đến cho cô một sự giải thoát – giải
thoát về tinh thần. Hơi rượu vẫn tỏa, tiếng sáo vẫn vang vọng
đâu đây, đưa tâm trí Mị phiêu du theo những cuộc chơi, những đám chơi:
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong
thời khắc ấy, ta mới thấy trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi
phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra
cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu
tiên là được chết ngay đi. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi
xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của
Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi
Cuộc sống hiện lên với muôn màu, nhưng có lẽ sâu thẳm bên trong lại là chính
tâm hồn con người ấy vậy mà vẫn có những nhà thám hiểm đại chuyên phiêu
lưu khám phá thế giới – đó là những người nghệ sĩ văn chương. Đọc đoạn văn
miêu tả diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân, bất cứ ai cũng đều
ngạc nhiên, thán phục trước khả năng am hiểu nội tâm nhân vật của nhà văn Tô
Hoài. Với tài năng nổi bật, Tô Hoài đã miêu tả thật tinh tế những diễn biến tâm
trạng nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn
ngào xót xa. Tác giả đã chọn các góc nhìn và điểm nhìn mang tính chất đối lập
để tạo ra hai hình tượng nghệ thuật mang những nét đặc sắc khác nhau. Ngòi
bút ấy còn được thể hiện qua nghệ thuật miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật,
ít miêu tả hành động bên ngoài nếu có thì chỉ có những hành động lặp đi lặp lại.
Ngoài ra, Tô Hoài còn mượn hình tượng thiên nhiên để miêu tả tâm trạng “Mùa
xuân của thiên nhiên của đất trời như gợi lên cả sức sống mùa xuân trong lòng
Mị”. Đoạn văn không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được sức sống tiềm
tàng trong nhân vật Mị, và cũng đủ để chúng ta thán phục sự tinh tế trong ngòi bút Tô Hoài.
“Nghệ thuật nằm ngoài quy luật băng hoại, chỉ mình nó không
thừa nhận cái chết” ( Schedrin ). Để làm được điều đó, nghệ
thuật phải hướng đến con người với một tinh thần nhân đạo sâu
sắc. Và như thế, tôi tin rằng “Vợ chồng A Phủ” là một tuyệt tác
trường tồn. Áng văn ấy, cùng tên tuổi Tô Hoài – một nhà văn,
nhà nhân đạo chủ nghĩa sẽ còn sống mãi, ghi một dấu ấn
không phai trong nền văn học nước nhà.