/16
lOMoARcPSD| 61601435
Tìm hiểu về những sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù của chủ nghĩa Mác Lênin, mang bản chất khoa
học cách mạng. Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí Minh hệ thống
mở, luôn luôn được phát triển theo dòng chảy của chung của trí tuệ và cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh nhân vật hiếm có trên thế giới hiểu biết sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn
các giá trị tưởng, luận, văn hóa, đạo đức của Phương Đông Phương Tây. Thành
công của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính sự kết hợp giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua những phẩm
chất tốt đẹp của Người.
Trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, đứng trước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành lại nền độc lập dân
tộc do thực dân Pháp đã cướp mất từ cuối thể kỷ thứ XIX. Con đường đấu tranh giành lại
nền độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa lúc đó chưa có sẵn. Bởi vậy, sự tìm tòi con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh phải dựa trên sự sáng tạo từ thực tiễn của đất nước và
thời đại. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện và
sâu sắc của cách mạng Việt Nam là sự sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những sáng tạo lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể khái quát trong 10 vấn
đề với các quan điểm và luận điểm cụ thể như sau:
1. Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
- Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tưởng giải phóng giai cấp, giải
phóngcon người của chủ nghĩa Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
kết hợp nhuần nguyễn sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp giải
phóng con người trong cách mạng Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử cho sự kết hợp đó chủ nghĩa bản chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, trên thế giới xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc
trở thành vấn đề thời đại, mà C.Mác, F.Ăngghen chưa có điều kiện lịch sử để đề cập đến.
lOMoARcPSD| 61601435
Từ thực tiễn của nước Nga Sa hoàng thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin
đã đề cập đến sự kết hợp giữa cách mạng giải phóng dân tộc cách mạng sản trong
“Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc vấn đề thuộc địa”. Tiếc rằng
trong những năm sau đó, V.I. Lênin chưa có nhiều điều kiện để cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện. Người nắm lấy và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Bối cảnh của sự vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin là những khảo nghiệm trước đó của Hồ
Chí Minh. Trên đường tiếp cận chân cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền dân quyền 1791 của cách mạng
Pháp, hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Vì vậy, khi tiếp cận Luận ơng của Lênin lần đầu tiên trên Báo Nhân Đạo
của Đảng hội Pháp, số tháng 7-2020, Hồ Chí Minh đã coi “đây cái cần thiết cho chúng
ta” khẳng định “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không con đường nào khác
cách mạng vô sản”.
- Sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết
vàtrước hết. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần
thiết phải tiến hành "trước làm cách mạng quốc gia (hiểu là cách mạng giải phóng dân tộc)
sau làm cách mạng thế giới (tức cách mạng hội chủ nghĩa). Từ trong thực tế chỉ đạo
cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Người chỉ rõ: trong lúc này, phải
đem sức ta giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc c này không giành lại được, thì
quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng không đòi lại được. Năm 1946, Người ra lời kêu
toàn quốc kháng chiến: “...Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm lệ!”. tưởng về việc đặt lợi ích dân tộc n trên, lên trước được thể
hiện cụ thể trong lời u gọi chống Mỹ cứu ớc năm 1966 bằng một khẩu hiệu, mang một
chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc sự sáng tạo lớn, khi
Ngườikhẳng định chủ nghĩa yêu nước tinh thần dân tộc một động lực lớn của đất
nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ
lOMoARcPSD| 61601435
Chí Minh khẳng định: Đối với các n tộc thuộc địa phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc
một động lực lớn của đất nước”; “người ta sẽ không thể làm được cho người An Nam
nếu không dựa trên cái động lực đại duy nhất trong đời sống của họ”. Người kiến
nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân
danh Quốc tế Cộng sản … Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa
dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
- Sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trong tưởng Hồ Chí Minh
vừamang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại được chứng minh bằng thực tế thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Từ quan điểm chung: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi phải đi theo con đường của cách mạng sản; Cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân
tộc sự nghiệp đoàn kết của toàn dân; “cách mạng không phải việc riêng của một s
người…”; cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân tộc
phải được thực hiện bằng sự kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng
trang trong nhân dân; được tiến hành dưới hình thức tổng khởi nghĩa toàn dân… Thắng lợi
vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước cộng hòa
dân chủ Việt Nam, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã khẳng định sự
sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
2. Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Thấm nhuần các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm
tưtưởng trong lịch sử hiện đại trên thế giới, Hồ Chí Minh quan niệm đầy đủ
ràng về sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: Nhân dân nguồn gốc của mọi sức
mạnh; có dân là có tất cả; "dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng
xong". Người coi tập hợp được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng nguyên
nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng. Sức mạnh của dân tộc được tập hợp trong
mặt trận dân tộc thống nhất trong thời đại mới, sự đoàn kết toàn dân tộc gắn với mối
quan hệ với đoàn kết quốc tế.
lOMoARcPSD| 61601435
- Từ quan điểm về sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm đoàn
kếttoàn dân. Người nhấn mạnh:“ Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là là thắng lợi”;
“Đoàn kết then chốt của thành công”; "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công,
thành công, đại thành công". Trong tổ chức thực hiện, Người dạy: “Đoàn kết” là điểm mẹ.
Điểm này thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt ”. Đại đoàn kết toàn dân trong
tưởng Hồ Chí Minh trở thành mục đích của Đảng. Phát biểu trong buổi ra hoạt động công
khai của Đảng, Người nói: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ “đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đó sự thể hiện tập trung nhất của tưởng:
“¬¬¬¬¬¬¬¬¬Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn
kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
- tưởng về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đại đoàn kết toàn dân tộc
mộtsự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chủ trương: Mặt trận hoạt động theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích
của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Đoàn kết trong
Mặt trận là "Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ". Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ CMinh
“cầu đồng tồn dị”. Đảng bộ phận của Mặt trận, vừa lực lượng lãnh đạo Mặt trận,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Và "muốn quy tụ được cả dân
tộc, “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”;
“ Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “được nhân dân thừa nhận”. “Công tác Mặt trận là
một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.
- Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong đại đoàn kết toàn dân được mrộng trong sự kết
hợpsức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự bóc lột
thống trị của chủ nghĩa đến quốc đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc cách
mạng sản trên thế giới gắn kết với nhau, để “chặt đứt cả hai i vòi của chủ nghĩa đế
quốc”…Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc vấn đề giai cấp phải kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế sản. Mỗi dân tộc đều phải giữ vững
lOMoARcPSD| 61601435
độc lập tự chủ, dựa o sức mình chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước hội chủ
nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình. Trong đoàn kết quốc tế, cần phân biệt chính quyền nhân dân các nước đế quốc,
để đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, tiến bộ và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị,
hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới.
3. Về xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân
- Quan điểm xây dựng Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam một sáng tạo lớn trong
tưtưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu lịch sử xây dựng nhà nước độc lập dân tộc từ khi đức
vua Ngô Quyền giành lại được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và khẳng định đặc
trưng độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trực
tiếp, đến tận nơi nghiên cứu các kiểu nhà nước dân chủ sản Mỹ Pháp, nhà nước
Xô viết của Liên Xô và lựa chọn hình thức Nhà nước cộng hòa, dân chủ, nhân dân ở Việt
Nam. tưởng HChí Minh về nhà nước thống nhất với mục tiêu của cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Năm 1945 là Nhà nước: "Dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc".
Tại Đại hội II m 1951, mục tiêu đấu tranh của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam
"độc lập, hòa bình, dân chủ, phú cường". Trong Di chúc, được Người viết từ năm 1965 đến
năm 1969, mục tiêu đấu tranh được thể hiện trong "mong muốn cuối cùng" của Người là:
xây dựng một nước Việt Nam "Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Mục
tiêu cụ thể của ba thời điểm nêu trên khác nhau do từng hoàn cảnh, nhưng các đặc trưng:
độc lập, dân chủ, hạnh phúc (phú cường, giàu mạnh) đều được nhắc đến.
- Về bản chất của Nhà nước, sáng tạo của Hồ Chí Minh tập trung trong bản chất nhân
dâncủa nhà nước. Sau Cách mạng Tháng m thành công, nhà nước cách mạng ra đời,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta ớc dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân.. . chính quyền từ đến Chính phủ Trung ương đều do dân
cử ra.
Nói tóm lại, quyền hành lực lượng đều nơi dân”. Bản chất nhân dân của Nhà nước
không mâu thuẫn với bản chất giai cấp tính dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tính
lOMoARcPSD| 61601435
chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân
dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Giải thích về
bản chất giai cấp công nhân và sự thống nhất, hài hoà giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, Người viết: (1). Giai cấp công nhân không
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc chgiải phóng dân tộc mới giải phóng được
giai cấp công nhân một cách triệt để. (2). Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời kết quả
của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh gương mẫu của bao thế hệ cách mạng
trong toàn dân tộc. (3). Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc
làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn Chính phủ đại đoàn kết
dân tộc. (4). Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử tổ chức cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng…
- Tư tưởng xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ của Hồ Chí
Minh được thể hiện rất rõ, ngay từ năm 1919, trong Yêu sách tám điểm gửi Hội nghị Véc-
xai (bản yêu sách này sau đó được Người dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát, chuyển về
phổ biến rộng rãi với đồng bào trong nước dưới nhan đề “Việt Nam yêu cầu ca” trong đó
có có hai câu thơ:“Bảy xin Hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Sau cách mạng Tháng Tám, người chủ trương xây dựng một nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ, trước hết phải một nhà nước hợp hiến, Người chủ trương bầu cử Quốc hội
theo hình thức phổ thông đầu phiếu “càng sớm càng tốt".
Trong quản lý xã hội, Nhà nước phải tiến hành quyền lực quản lý đất nước bằng pháp luật
và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Dân chủ pháp luật phải luôn luôn
đi đôi với nhau. tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà ớc pháp quyền mạnh mẽ,
hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính
nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư “phụng công, thủ pháp”.
Phải tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức; kiên quyết chống ba thứ
"giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu.
lOMoARcPSD| 61601435
4. Về xây dựng lực lượng cách mạng
- Điểm nổi bật thể hiện sự sáng tạo trong tưởng Hồ Chí Minh xây dựng lực ợng cách
mạng trong toàn dân tộc. Trong quan niệm của C. Mác, F. Angghen, lực lượng cách mạng
trong cách mạng vô sản là công nhân; từ sau Công xã Paris là công nhân và nông dân. Với
V. I. Lênin, trong Cách mạng Tháng Mười Nga là công nhân, nông dân và binh lính, trong
chủ trương thành lập xô viết trong công nhân, nông dân và binh lính. Với Hồ Chí Minh, từ
sự phân tích hội Việt Nam, khi độc lập dân tộc bị ớp mất, thì cả dân tộc Việt Nam,
bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp đều là người nô lệ, "vong quốc nô”. Trừ một số phản
động, tay sai cho ngoại bang, tất cả mọi người dân Việt Nam đều có mâu thuẫn đối với sự
cai trị của thực dân Pháp. Từ niềm tin về "hễ là người Việt Nam thì ai ai cũng ít nhiều đều
lòng yêu nước”, Người chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc.
Trong lực lượng cách mạng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định nòng cốt, chủ lực
công - nông lao động trí óc (trí thức). Theo Người đó là những lực lượng trung kiên nhất
của cách mạng, gan góc đấu tranh, không sợ hy sinh gian khổ. Từ lực lượng chủ lực, nòng
cốt của cách mạng lôi cuốn toàn dân tộc tham gia cuộc đấu tranh giải phóng. Đó là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng ở
Việt Nam.
Trong xây dựng lực ợng cách mạng, sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong sự quan
tâm xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng lực lượng trang nhân dân. Đó
hai hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Sự phối hợp chặt
chẽ bổ sung cho nhau của hai lực lượng đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của khởi nghĩa
giành chính quyền và chiến tranh cách mạng bảo vệ nền độc lập.
5. Về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh
- Sáng tạo nổi bật trong tưởng quân sự Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng
trangcách mạng. Phân tích sự cai trị của thực dân Pháp Đông Dương được thực hiện bằng
bạo lực, đàn áp đẫm máu những người yêu nước, phản kháng lại sự cai trị đó, Hồ Chí Minh
đi đến khẳng định: cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng dưới
hình thức cuộc khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền. Lực lượng thực hiện cuộc khởi
lOMoARcPSD| 61601435
nghĩa đó lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp với lực lượng trang được xây
dựng trong các phong trào của quần chúng. Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
1941-1945, đầu tiên, Hồ Chí Minh lựa chọn những du kích tham gia khởi nghĩa Bắc n
lập ra đội tự vệ. Năm 1944 Người chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, xác định nhiệm vụ chủ yếu tuyên truyền, vận động quần chúng, làm chỗ dựa cho
quần chúng đấu tranh cùng với nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ cách mạng. Thực tiễn Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong 12 ngày với sức mạnh áp đảo của quần chúng kết hợp
với lực lượng trang hỗ trợ, chúng ta đã giành được chính quyền trong cả nước hầu
như không phải sử dụng đến vũ khí, không đổ máu, chết người...
- Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
tưởngquân sự trong xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam của Hồ Chí Minh kết hợp
giữa chính trị quân sự. Người khẳng định: "Quân sự không có chính trị như cây
không có gốc, dụng, lại hại". Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng sức mạnh tinh
thần, giác ngộ của quân đội với quan điểm người trước, ng sau”. Quân đội nhân dân
Việt Nam ra đời từ Đội Việt Nam tuyên truyền, giải phóng quân, kết hợp nhiệm vụ tuyên
truyền và nhiệm vụ chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực sự là đội quân “từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”…
- Sáng tạo trong tư tưởng quân sự nổi bật của Hồ Chí Minh thể hiện trong quan điểm
xâydựng căn cứ địa, y dựng hậu phương, chiến tranh nhân dân xây nền quốc phòng
toàn dân. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ CMinh về xây dựng căn cứ địa cách mạng
"trận địa lòng dân", "có dân tất cả", nơi "gần dân không gần đường". Trong quá
trình đấu tranh giành chính quyền, từ bản Cốc Pó, căn cứ địa của cách mạng đã không
ngừng được mở rộng, trở thành vùng rộng lớn Cao - Bắc - Lạng, Thái - - Tuyên, cùng
với các "an toàn khu" ngay sát các đô thị lớn, làm sở cho tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Với tầm nhìn xa rộng, sau Cách mạng Tháng Tám, các quan đảng, chính phủ,
đoàn thể chuyển về Hà Nội, Người đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại Tuyên Quang để
xây dựng căn cứ địa "nhờ đồng bào một lần nữa" trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-
1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội III của Đảng, tháng 9 năm 1960 đã
lOMoARcPSD| 61601435
xác định xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền
Nam đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà.
- Sáng tạo trong ởng quân sự Hồ Chí Minh còn thể hiện trong tưởng chỉ
đạo“dám đánh, quyết đánh, biết đánh”. Đứng trước sức mạnh quân shùng hậu của thực
dân Pháp vào năm 1946 hay sự hung hăng, tàn bạo của đế quốc Mỹ năm 1966, HChí
Minh không hề nao núng, khẳng định quyết tâm chiến thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa,
xâm lược của chúng với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ”; “…Hà Nội, Hải Phòng một số thành phố nghiệp có thể bị tàn phá. Song
nhân dân Việt Nam quyết không sợ, Không có quý hơn độc lập tự do”… Đó tư tưởng
sáng tạo của chiến tranh nhân dân “trường kỳ kháng chiến”, “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”; "lấy yếu đánh mạnh", "lấy ít đánh nhiều", "lấy nhỏ đánh lớn"; “càng đánh càng
mạnh, càng đánh càng thắng”. Trong đánh địch, với truyền thống lấy đại nghĩa thắng hung
tàn của n tộc, Người không cho rằng trận thắng để chết nhiều người (cả ta địch)
trận thắng hay; đề cao công tác địch vận, “đánh chiếm được đồn giỏi, nhưng không
đánh mà chiếm được đồn thì còn giỏi hơn…”
- Sáng tạo trong ởng quân sự Hồ CMinh còn thể hiện trong khởi đầu, kết
thúcchiến tranh con đương đi đến thắng lợi. Biểu hiện đầy đủ nhất của tưởng này
các câu thơ trong bài thơ chúc tết năm 1969: Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Ngụy nhào. Tiến lên chiến sỹ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn. Thực tế
giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước dã diễn ra đúng như thế.
6. Về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của phát triển kinh tế ngay
sauCách mạng Tháng Tám qua câu nói: “Độc lập dân vẫn đói khổ thì độc lập cũng
chẳng để làm gì”. Đó là sự diễn đạt mới về mục đích, nhiệm vụ phát triển kinh tế đảm
bảo không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Xuất
phát từ đặc điểm của thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khi mức sống của nhân
dân còn rất thấp và con người là lực ợng sản xuất chủ yếu nhất, Người chủ trương: “Phát
triển kinh tế đến đâu, cải thiện đời sống nhân dân đến đấy”.
lOMoARcPSD| 61601435
- Trong bối cảnh chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung đang được đề cao thực
hiệnphổ biến, đồng loạt Liên Xô, Trung Quốc các nước hội chủ nghĩa khác, Hồ
Chí Minh đã khẳng định sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Người
viết: “Nền kinh tế Việt Nam tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: Sở hữu của Nhà nước tức
là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu
của người lao động riêng lẻ; tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. “Trong chế độ
dân chủ mới, năm loại kinh tế khác nhau: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa
hội, của chung của nhân dân). B- Các hợp tác (nó nửa chủ nghĩa hội,
sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp (có thể
tiến dần vào hợp tác xã, tức nửa chủ nghĩa hội). D- bản của nhân. E- bản
của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Nói về nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, Người đã sớm nhấn mạnh vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quá độ, khi viết: “Trong
năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát
triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”.
- Điểm sáng tạo trong ởng kinh tế Hồ Chí Minh sự nhấn mạnh về tiết kiệm
trongsản xuất tiêu dùng, tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Người
coi “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia tay phải của hạnh phúc, tiết
kiệm tay trái của hạnh phúc”. Điểm nổi bật là tư tưởng của Người về chống tham ô, lãng
phí, quan liêu trong nền kinh tế, coi đó là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại
xâm.
7. Sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
- “nhà văn hóa lớn kiệt xuất trên thế giới”, qua nghiên cứu, tích lũy trong cuộc đời
bônba khắp 4 phương trời, ngay từ năm 1943, trong những trang cuối của cuốn Nhật
trong tù, Chủ tịch HChí Minh đã một định nghĩa đầy đủ về văn hóa. Người viết: "Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo phát minh ra
những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
lOMoARcPSD| 61601435
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo phát minh đó tức văn hoá. Văn hoá sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
nhu cầu đời sống đòi hỏi của sự sinh tồn". Điều thú vị định nghĩa văn hóa của
UNESCO mãi sau này mới có, nội dung bản giống như định nghĩa văn hóa do Hồ
Chí Minh nêu ra từ m 1943. Trong những bài viết trước cách mạng Tháng Tám, Người
đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của nền văn hóa Việt Nam “dân tộc, khoa học, đại
chúng”, bao quát cả truyền thống và cách mạng của nền văn hóa mới.
- Khi trở thành lãnh tụ, lãnh đạo đất nước, Người nhấn mạnh: Văn a một trong
4lĩnh vực luôn luôn phải quan tâm thực hiện: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”; Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội; “Văn hóa soi đường quốc dân đi”. Yêu nước là nấc thang
giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hoá Việt Nam. Với các lĩnh vực hoạt
động của n hóa, Người coi "văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"; “văn hóa là một mặt trận và anh chị em
văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”.
8. Về đạo đức cách mạng cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư trong tư tưởng Hồ
Chí Minh
- Vận dụng các tư tưởng đạo đức tốt đẹp của dân tộc và nhân loại là sáng tạo nổi bật của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư tưởng về đạo đức. Khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu
của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ các bậc nhân trong lịch sử nhân loại, như Đức
Phật Thích ca, Chúa Gie-su, Khổng tử, Lênin, Găng-đi, Tôn Dật tiên…đều những con
người mẫu mực về đạo đức, cống hiến cuộc sống của mình cho loài người. Vận dụng những
giá trị đạo đức truyền thống của nhân loại, kết hợp với đạo đức cộng sản, Người khẳng
định vai trò quan trong hàng đầu của đạo đức: Đạo đức là gốc, “ngốc của cây, ngọn
nguồn của sông suối”; đạo đức chỗ dựa của con người chân chính, khi đạo đức thì
“giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy không khuất phục”. Ngược
lại, “người không có đạo đức thì không làm nổi việc gì”...
lOMoARcPSD| 61601435
- Kết hợp những giá trị đạo đức truyền thống với đạo đức cộng sản Chủ tịch Hồ Chí Minhđã
đúc kết nên những phẩm chất đạo đức bản của con người Việt Nam thời đại mới. Từ
quan niệm đạo đức của Nho giáo “trung quân ái quốc, hiếu đễ với cha mẹ”, Người nêu
giá trị đạo đức mới là: Trung với nước, hiếu với dân. Từ truyền thống “bầu ơi thương lấy
cùng” của dân tộc, Người khẳng định phẩm chất đạo đức Yêu thương con người, sống
nghĩa tình” của người cách mạng. Kế thừa giá trị đạo đức trong Nho giáo về “tu
thân”, Người khẳng định, trong quan hệ đối với mình, ai ai cũng phải “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công ”. Trong điều kiện của thời đại mới, người cách mạng phải tinh
thần quốc tế quốc tế trong sángNhững phẩm chất đạo đức mới do Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên trên đây thể hiện sự vận dụng sáng tạo những tưởng đạo đức truyền thống
và hiện tại, làm khuôn mẫu ứng xử trong quan hệ với mình, với người, với việc của mỗi
con người.
- Không chỉ nêu những tưởng về phẩm chất đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ
rõnhững nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Đó là “Nói đi đôi với m”; “Phải nêu gương
về đạo đức”; “Xây đi đối với chống” “Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”. Về sự cần thiết
phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, Người viết: “Một đảng, một dân tộc mỗi con người
ngày hôm qua đại được mọi người yêu mến ca ngợi không nghĩa hôm nay
vẫn được yêu mến và ca ngợi nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
9. Về giáo dục, chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời sau
- Thấm nhuần truyền thống dân tộc và được giáo dục trong môi trường gia đình, cả
ôngngoại cha đẻ cùng làm nghề dạy học, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rất vị trí,
vai trò của giáo dục. Khi lãnh nhiệm vụ Chủ tịch ớc, Người đặt việc “chống giặc dốt”
cũng cần như chống giặc đói giặc ngoại xâm, khi khẳng định “một dân tộc dốt một
dân tộc yếu”. Người coi nâng cao dân trí bồi ỡng nhân tài một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc đó "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần
phải có nhân tài"; “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế
văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu"... Ở mức độ cao hơn, nói về vai
trò của giáo dục trong sự chấn ng dân tộc, trong thư Người gửi học sinh nhân ngày khai
lOMoARcPSD| 61601435
trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, tháng 9-1945, đoạn: “Non sông Việt Nam
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam bước n đài vinh quang sánh vai với
cường quốc năm châu hay không, điều đó phần lớn phụ thuộc vào công học tập của các
em”.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thế hệ trẻ với cách mạng và sự phát triển của
dântộc thể hiện sự sáng tạo mới. Người cho rằng thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát
triển của cách mạng, của dân tộc, khi ví: một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời người
bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc”. Người yêu cầu thế hệ trẻ phải vươn
mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó đồng thời Đảng phải trách nhiệm bồi
dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Điểm đáng chú ý trong tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bắt nguồn từ thực tiễn kinh
nghiệm của Người để quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho cách mạng,
cử học sinh đi ra ớc ngoài học tập. Trong giai đoạn 1927-1941, tranh thủ sự hỗ trợ của
Quốc tế Cộng sản, Người đã gửi được một số thanh niên ưu sang học trường Đại học
Phương Đông Liên Xô. Sau chiến dịch Biên giới năm 1950 thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước hội chủ nghĩa, trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống
Pháp, Người đã gửi nhiều học sinh đi du học ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Trung
Quốc và Liên Xô. Trong kháng chiến chống Mỹ, một số đông học sinh được gửi sang học
tại các nước xã hội chủ nghĩa, trở thành lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật nòng cốt trong
xây dựng đất nước sau chiến tranh làm cầu nối hữu nghị với các nước thuộc Liên
cũ, Đông Âu, dù cho chế độ hội ở các nước này đã thay đổi. Những năm 60 của thế kỷ
trước, Chủ tịch Hồ CMinh đã chỉ đạo thành lập nhiều trường học sinh miền Nam trên
miền Bắc, đưa nhiều con em các cán bộ lãnh đạo đang chiến đấu ở miền Nam ra miền Bắc
đào tạo. Đây lực lượng cán bộ rất quý báu xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng
30.4.1975.
- Biểu hiện tập trung nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng các thế
hệcách mạng cho đời sau là lời dặn của Người trong bản Di chúc nổi tiếng: “ĐOÀN VIÊN
THANH NIÊN ta nói chung tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó
lOMoARcPSD| 61601435
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
10. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cộng sản và công tác xây dựng
Đảng
- Nhờ sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về điều kiện ra đời của đảng cộng sản các
nướcthuộc địa như Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930. Luận điểm chung của chủ nghĩa Mác - Lênin là: đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp
giữa phong trào công nhân chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong điều kiện Việt Nam, giai cấp
công nhân còn nhỏ bé, phong trào yêu nước đang tập hợp được tất cả các giai cấp, tầng
lớp nhân dân tham gia chống Pháp, để thành lập được đảng cộng sản phải bắt đầu từ sự
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước, vào giai cấp công nhân, giác
ngộ họ, hình thành các tổ chức cộng sản. Sau này, Người tổng kết: Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời “sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước”.
- Từ đặc điểm, hoàn cảnh ra đời và nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt tên Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam, khẳng
định là “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam”; “Đảng ta
là con nòi của dân tộc”. Mục đích của Đảng được Người khẳng định gồm 8 chữ là: “Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
- tưởng về các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh
sựvận dụng ng tạo c nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của của V.I. Lênin. Người
nêu 5 nguyên tắc xây dựng Đảng là: (1) Tập trung dân chủ. (2) Tập thể lãnh đạo,
nhân phụ trách. (3) Tự phê bình phê bình. (4) Kỷ luật nghiêm minh tự giác. (5)
Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đặc biệt, Người rất đề cao xây dựng Đảng về đạo đức,
xác định mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tưởng, tổ chức
và đạo đức, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”.
lOMoARcPSD| 61601435
- Luận điểm về tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng một điểm ng tạo mới, thống
nhấttrong ởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện của một hội quá độ từ sản
xuất nhỏ, lạc hậu đi n, Người chrõ: Đảng ta như thể sống, tồn tại trong hội,
không thể không chịu ảnh hưởng của xã hội, nhất là những hạn chế, thói hư tật xấu trong
xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh” mới lãnh đạo được nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựa vào dân để xây dựng
Đảng khẳng định mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc niềm
tin của Người vào nhân dân trong xây dựng Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, mang bản chất khoa học cách mạng, phải không
ngừng được đổi mới phát triển. Sự vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, các giá trị tưởng, đạo đức, văn hóa của dân tộc nhân loại vào thực tiễn Việt
Nam trong thế kỷ XX của Hồ Chí Minh đã hình thành nên tưởng đại mang tên Người:
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc của cách mạng Việt
Nam, nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử gắn liền với việc học tập
và làm theo tư tưởng của Người. Mở đầu, trong giai đoạn 1925-1945, học tập và làm theo
tưởng Hồ CMinh trong cuốn “Đường Kách mệnh” đã mang lại thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Tám 1945. Từ 1945, khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc quán triệt
thực hiện tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” đã góp phần mang lại
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tương tự như vậy, học tập làm theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động học
tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, toàn Đảng, toàn dân ta đã đi tới thắng lợi vĩ đại trong cuộc
kháng chiến chống Mcứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực tế lịch sử cũng cho thấy, khi chúng ta thực hiện làm theo tưởng Hồ Chí Minh
một cách đúng đắn, sáng tạo thì cách mạng giành được thắng lợi, thành công hoặc làm sai,
không đầy đủ, giáo điều… thì cách mạng gặp khó khăn, thất bại.
Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, cái quý nhất trong tưởng Hồ Chí Minh phương pháp
luận khoa học, xuất phát từ thực tiễn, nhất là thực tiễn Việt Nam để vận dụng và phát triển
lOMoARcPSD| 61601435
chủ nghĩa Mác - Lênin. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển
tư tưởng của Người trong mỗi giai đoạn cách mạng công việc hết sức cần thiết. Dựa trên
những nguyên luận, quan điểm bản, cốt lõi, phương pháp luận khoa học Hồ Chí
Minh để vận dụng, phát triển một cách sáng tạo trong giải quyết các vấn đề đặt ra của mỗi
giai đoạn cách mạng, không đơn giản, giáo điều, máy móc hay chủ quan, duy ý chí,
nguyên tắc điều kiện của thành công trong học tập làm theo tưởng HChí Minh
hiện nay./.

Preview text:

lOMoAR cPSD| 61601435
Tìm hiểu về những sáng tạo lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc phạm trù của chủ nghĩa Mác – Lênin, mang bản chất khoa
học và cách mạng. Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống
mở, luôn luôn được phát triển theo dòng chảy của chung của trí tuệ và cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh là nhân vật hiếm có trên thế giới hiểu biết sâu sắc và vận dụng nhuần nhuyễn
các giá trị tư tưởng, lý luận, văn hóa, đạo đức của Phương Đông và Phương Tây. Thành
công của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là sự kết hợp giữa giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua những phẩm
chất tốt đẹp của Người.
Trên con đường ra đi tìm đường cứu nước, đứng trước Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là
nhiệm vụ tập hợp được sức mạnh của toàn dân tộc để đấu tranh giành lại nền độc lập dân
tộc do thực dân Pháp đã cướp mất từ cuối thể kỷ thứ XIX. Con đường đấu tranh giành lại
nền độc lập dân tộc của các dân tộc thuộc địa lúc đó chưa có sẵn. Bởi vậy, sự tìm tòi con
đường cứu nước của Hồ Chí Minh phải dựa trên sự sáng tạo từ thực tiễn của đất nước và
thời đại. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh - hệ thống các quan điểm cơ bản và toàn diện và
sâu sắc của cách mạng Việt Nam là sự sáng tạo vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Những sáng tạo lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể khái quát trong 10 vấn
đề với các quan điểm và luận điểm cụ thể như sau:
1. Về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người -
Hồ Chí Minh đã vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng giải phóng giai cấp, giải
phóngcon người của chủ nghĩa Mác - Lênin trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
kết hợp nhuần nguyễn và sáng tạo vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng con người trong cách mạng Việt Nam.
Hoàn cảnh lịch sử cho sự kết hợp đó là chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, trên thế giới xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa; độc lập, tự do của các dân tộc
trở thành vấn đề thời đại, mà C.Mác, F.Ăngghen chưa có điều kiện lịch sử để đề cập đến. lOMoAR cPSD| 61601435
Từ thực tiễn của nước Nga Sa hoàng và thế giới sau Cách mạng Tháng Mười, V.I. Lênin
đã đề cập đến sự kết hợp giữa cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản trong
“Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”. Tiếc rằng
trong những năm sau đó, V.I. Lênin chưa có nhiều điều kiện để cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện. Người nắm lấy và vận dụng sáng tạo tư tưởng đó là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Bối cảnh của sự vận dụng tư tưởng của V.I. Lênin là những khảo nghiệm trước đó của Hồ
Chí Minh. Trên đường tiếp cận chân lý cứu nước, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng
Pháp, hiểu rõ chân lý bất di bất dịch về quyền cơ bản của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc
trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do”. Vì vậy, khi tiếp cận Luận cương của Lênin lần đầu tiên trên Báo Nhân Đạo
của Đảng xã hội Pháp, số tháng 7-2020, Hồ Chí Minh đã coi “đây là cái cần thiết cho chúng
ta” và khẳng định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác cách mạng vô sản”. -
Sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là đặt mục tiêu giải phóng dân tộc lên trên hết
vàtrước hết. Ngay trong những văn kiện đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết về sự cần
thiết phải tiến hành "trước làm cách mạng quốc gia (hiểu là cách mạng giải phóng dân tộc)
sau làm cách mạng thế giới (tức cách mạng xã hội chủ nghĩa). Từ trong thực tế chỉ đạo
cách mạng, năm 1941, khi thành lập Mặt trận Việt Minh, Người chỉ rõ: trong lúc này, phải
đem sức ta mà giải phóng cho ta. Độc lập dân tộc lúc này mà không giành lại được, thì
quyền lợi giai cấp ngàn vạn năm cũng không đòi lại được. Năm 1946, Người ra lời kêu
toàn quốc kháng chiến: “...Thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ!”. Tư tưởng về việc đặt lợi ích dân tộc lên trên, lên trước được thể
hiện cụ thể trong lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước năm 1966 bằng một khẩu hiệu, mang một
chân chân lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. -
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc có sự sáng tạo lớn, khi
Ngườikhẳng định chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn của đất
nước. Năm 1924, từ sự phân tích đặc điểm giai cấp, dân tộc ở các nước phương Đông, Hồ lOMoAR cPSD| 61601435
Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc
là một động lực lớn của đất nước”; “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam
nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất trong đời sống của họ”. Người kiến
nghị về Cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản: “Phát động chủ nghĩa dân tộc nhân
danh Quốc tế Cộng sản … Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi … nhất định chủ nghĩa
dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”. -
Sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
vừamang tính dân tộc, vừa mang tính thời đại và được chứng minh bằng thực tế thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Từ quan điểm chung: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản; Cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự
lãnh đạo của Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Cách mạng giải phóng dân
tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân; “cách mạng không phải là việc riêng của một số
người…”; cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc; cách mạng giải phóng dân tộc
phải được thực hiện bằng sự kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ
trang trong nhân dân; được tiến hành dưới hình thức tổng khởi nghĩa toàn dân… Thắng lợi
vĩ đại có ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập Nhà nước cộng hòa
dân chủ Việt Nam, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á đã khẳng định sự
sáng tạo trong tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh.
2. Về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc -
Thấm nhuần các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc các quan điểm
tưtưởng trong lịch sử và hiện đại trên thế giới, Hồ Chí Minh có quan niệm đầy đủ và rõ
ràng về sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: Nhân dân là nguồn gốc của mọi sức
mạnh; có dân là có tất cả; "dễ mười lần không dân cũng chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng
xong". Người coi tập hợp được toàn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nguyên
nhân chính của mọi thắng lợi của cách mạng. Sức mạnh của dân tộc được tập hợp trong
mặt trận dân tộc thống nhất và trong thời đại mới, sự đoàn kết toàn dân tộc gắn với mối
quan hệ với đoàn kết quốc tế. lOMoAR cPSD| 61601435 -
Từ quan điểm về sức mạnh của nhân dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh quan điểm đoàn
kếttoàn dân. Người nhấn mạnh:“ Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là là thắng lợi”;
“Đoàn kết là then chốt của thành công”; "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công,
thành công, đại thành công". Trong tổ chức thực hiện, Người dạy: “Đoàn kết” là điểm mẹ.
Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt ”. Đại đoàn kết toàn dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành mục đích của Đảng. Phát biểu trong buổi ra hoạt động công
khai của Đảng, Người nói: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ là “đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”. Đó là sự thể hiện tập trung nhất của tư tưởng:
“¬¬¬¬¬¬¬¬¬Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn đoàn
kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ
nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. -
Tư tưởng về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để đại đoàn kết toàn dân tộc là
mộtsự sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chủ trương: Mặt trận hoạt động theo
nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích
của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Đoàn kết trong
Mặt trận là "Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ". Phương châm đoàn kết các giai cấp, tầng lớp khác nhau của Hồ Chí Minh
là “cầu đồng tồn dị”. Đảng là bộ phận của Mặt trận, vừa là lực lượng lãnh đạo Mặt trận,
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững chắc. Và "muốn quy tụ được cả dân
tộc, “Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại”;
“ Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí”; “được nhân dân thừa nhận”. “Công tác Mặt trận là
một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. -
Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong đại đoàn kết toàn dân được mở rộng trong sự kết
hợpsức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, sự bóc lột
và thống trị của chủ nghĩa đến quốc đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng vô sản trên thế giới gắn kết với nhau, để “chặt đứt cả hai cái vòi của chủ nghĩa đế
quốc”…Vì vậy, giải quyết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp phải kết hợp chặt chẽ chủ
nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Mỗi dân tộc đều phải giữ vững lOMoAR cPSD| 61601435
độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của
mình. Trong đoàn kết quốc tế, cần phân biệt chính quyền và nhân dân các nước đế quốc,
để đoàn kết với nhân dân thế giới vì hòa bình, tiến bộ và mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị,
hợp tác, sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước dân chủ trên thế giới.
3. Về xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân
- Quan điểm xây dựng Nhà nước cộng hòa dân chủ Việt Nam là một sáng tạo lớn trong
tưtưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu lịch sử xây dựng nhà nước độc lập dân tộc từ khi đức
vua Ngô Quyền giành lại được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và khẳng định đặc
trưng độc lập, tự chủ của Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trực
tiếp, đến tận nơi nghiên cứu các kiểu nhà nước dân chủ tư sản ở Mỹ và Pháp, nhà nước
Xô viết của Liên Xô và lựa chọn hình thức Nhà nước cộng hòa, dân chủ, nhân dân ở Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước thống nhất với mục tiêu của cách mạng do
Đảng lãnh đạo. Năm 1945 là Nhà nước: "Dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc".
Tại Đại hội II năm 1951, mục tiêu đấu tranh của Đảng là xây dựng một nước Việt Nam
"độc lập, hòa bình, dân chủ, phú cường". Trong Di chúc, được Người viết từ năm 1965 đến
năm 1969, mục tiêu đấu tranh được thể hiện trong "mong muốn cuối cùng" của Người là:
xây dựng một nước Việt Nam "Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh". Mục
tiêu cụ thể của ba thời điểm nêu trên có khác nhau do từng hoàn cảnh, nhưng các đặc trưng:
độc lập, dân chủ, hạnh phúc (phú cường, giàu mạnh) đều được nhắc đến.
- Về bản chất của Nhà nước, sáng tạo của Hồ Chí Minh tập trung trong bản chất nhân
dâncủa nhà nước. Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nhà nước cách mạng ra đời,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân.. . chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Bản chất nhân dân của Nhà nước
không mâu thuẫn với bản chất giai cấp và tính dân tộc. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tính lOMoAR cPSD| 61601435
chất nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Nhà nước của ta là nhà nước dân chủ nhân
dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo". Giải thích về
bản chất giai cấp công nhân và sự thống nhất, hài hoà giữa bản chất giai cấp công nhân với
tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, Người viết: (1). Giai cấp công nhân không có
lợi ích nào khác ngoài lợi ích của dân tộc và chỉ có giải phóng dân tộc mới giải phóng được
giai cấp công nhân một cách triệt để. (2). Nhà nước dân chủ mới của ta ra đời là kết quả
của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ với sự hy sinh gương mẫu của bao thế hệ cách mạng
trong toàn dân tộc. (3). Nhà nước ta bảo vệ lợi ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc
làm nền tảng. Chính phủ do Hồ Chí Minh đứng đầu luôn luôn là Chính phủ đại đoàn kết
dân tộc. (4). Nhà nước ta vừa ra đời đã phải đảm nhiệm nhiệm vụ lịch sử là tổ chức cuộc
kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc để bảo vệ thành quả của cách mạng…
- Tư tưởng xây dựng một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ của Hồ Chí
Minh được thể hiện rất rõ, ngay từ năm 1919, trong Yêu sách tám điểm gửi Hội nghị Véc-
xai (bản yêu sách này sau đó được Người dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát, chuyển về
phổ biến rộng rãi với đồng bào trong nước dưới nhan đề “Việt Nam yêu cầu ca” trong đó
có có hai câu thơ:“Bảy xin Hiến pháp ban hành/Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Sau cách mạng Tháng Tám, người chủ trương xây dựng một nhà nước có hiệu lực pháp lý
mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến, Người chủ trương bầu cử Quốc hội
theo hình thức phổ thông đầu phiếu “càng sớm càng tốt".
Trong quản lý xã hội, Nhà nước phải tiến hành quyền lực quản lý đất nước bằng pháp luật
và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Dân chủ và pháp luật phải luôn luôn
đi đôi với nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có
hiệu lực, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước có trình độ văn hoá, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và
nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư “phụng công, thủ pháp”.
Phải tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức; kiên quyết chống ba thứ
"giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu. lOMoAR cPSD| 61601435
4. Về xây dựng lực lượng cách mạng
- Điểm nổi bật thể hiện sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là xây dựng lực lượng cách
mạng trong toàn dân tộc. Trong quan niệm của C. Mác, F. Angghen, lực lượng cách mạng
trong cách mạng vô sản là công nhân; từ sau Công xã Paris là công nhân và nông dân. Với
V. I. Lênin, trong Cách mạng Tháng Mười Nga là công nhân, nông dân và binh lính, trong
chủ trương thành lập xô viết trong công nhân, nông dân và binh lính. Với Hồ Chí Minh, từ
sự phân tích xã hội Việt Nam, khi độc lập dân tộc bị cướp mất, thì cả dân tộc Việt Nam,
bao gồm tất cả các giai cấp, tầng lớp đều là người nô lệ, "vong quốc nô”. Trừ một số phản
động, tay sai cho ngoại bang, tất cả mọi người dân Việt Nam đều có mâu thuẫn đối với sự
cai trị của thực dân Pháp. Từ niềm tin về "hễ là người Việt Nam thì ai ai cũng ít nhiều đều
có lòng yêu nước”, Người chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng trong toàn dân tộc.
Trong lực lượng cách mạng toàn dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định nòng cốt, chủ lực là
công - nông và lao động trí óc (trí thức). Theo Người đó là những lực lượng trung kiên nhất
của cách mạng, gan góc đấu tranh, không sợ hy sinh gian khổ. Từ lực lượng chủ lực, nòng
cốt của cách mạng lôi cuốn toàn dân tộc tham gia cuộc đấu tranh giải phóng. Đó là sự phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lực lượng cách mạng ở Việt Nam.
Trong xây dựng lực lượng cách mạng, sáng tạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ trong sự quan
tâm xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Đó là
hai hai lực lượng chủ yếu tiến hành khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng. Sự phối hợp chặt
chẽ và bổ sung cho nhau của hai lực lượng đó tạo nên sức mạnh tổng hợp của khởi nghĩa
giành chính quyền và chiến tranh cách mạng bảo vệ nền độc lập.
5. Về tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh -
Sáng tạo nổi bật trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh là về xây dựng lực lượng vũ
trangcách mạng. Phân tích sự cai trị của thực dân Pháp ở Đông Dương được thực hiện bằng
bạo lực, đàn áp đẫm máu những người yêu nước, phản kháng lại sự cai trị đó, Hồ Chí Minh
đi đến khẳng định: cần dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng dưới
hình thức cuộc khởi nghĩa toàn dân giành chính quyền. Lực lượng thực hiện cuộc khởi lOMoAR cPSD| 61601435
nghĩa đó là lực lượng chính trị của quần chúng kết hợp với lực lượng vũ trang được xây
dựng trong các phong trào của quần chúng. Trong cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
1941-1945, đầu tiên, Hồ Chí Minh lựa chọn những du kích tham gia khởi nghĩa Bắc Sơn
lập ra đội tự vệ. Năm 1944 Người chỉ đạo thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân, xác định nhiệm vụ chủ yếu là tuyên truyền, vận động quần chúng, làm chỗ dựa cho
quần chúng đấu tranh cùng với nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ cách mạng. Thực tiễn Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, trong 12 ngày với sức mạnh áp đảo của quần chúng kết hợp
với lực lượng vũ trang hỗ trợ, chúng ta đã giành được chính quyền trong cả nước và hầu
như không phải sử dụng đến vũ khí, không đổ máu, chết người... -
Sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tư
tưởngquân sự trong xây dựng quân đội quốc gia Việt Nam của Hồ Chí Minh là kết hợp
giữa chính trị và quân sự. Người khẳng định: "Quân sự mà không có chính trị như cây
không có gốc, vô dụng, lại có hại". Người đặc biệt quan tâm đến xây dựng sức mạnh tinh
thần, giác ngộ của quân đội với quan điểm “người trước, súng sau”. Quân đội nhân dân
Việt Nam ra đời từ Đội Việt Nam tuyên truyền, giải phóng quân, kết hợp nhiệm vụ tuyên
truyền và nhiệm vụ chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực sự là đội quân “từ nhân
dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”… -
Sáng tạo trong tư tưởng quân sự nổi bật của Hồ Chí Minh thể hiện trong quan điểm
xâydựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương, chiến tranh nhân dân và xây nền quốc phòng
toàn dân. Điểm nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng căn cứ địa cách mạng là
"trận địa lòng dân", "có dân là có tất cả", nơi ở "gần dân không gần đường". Trong quá
trình đấu tranh giành chính quyền, từ bản Cốc Pó, căn cứ địa của cách mạng đã không
ngừng được mở rộng, trở thành vùng rộng lớn Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà - Tuyên, cùng
với các "an toàn khu" ngay sát các đô thị lớn, làm cơ sở cho tổng khởi nghĩa giành chính
quyền. Với tầm nhìn xa rộng, sau Cách mạng Tháng Tám, các cơ quan đảng, chính phủ,
đoàn thể chuyển về Hà Nội, Người đã cử đồng chí Phạm Văn Đồng ở lại Tuyên Quang để
xây dựng căn cứ địa "nhờ đồng bào một lần nữa" trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1946-
1954. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đại hội III của Đảng, tháng 9 năm 1960 đã lOMoAR cPSD| 61601435
xác định xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn miền
Nam đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà. -
Sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ trong tư tưởng chỉ
đạo“dám đánh, quyết đánh, biết đánh”. Đứng trước sức mạnh quân sự hùng hậu của thực
dân Pháp vào năm 1946 hay sự hung hăng, tàn bạo của đế quốc Mỹ năm 1966, Hồ Chí
Minh không hề nao núng, khẳng định quyết tâm chiến thắng cuộc chiến tranh phi nghĩa,
xâm lược của chúng với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu
làm nô lệ”; “…Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song
nhân dân Việt Nam quyết không sợ, Không có gì quý hơn độc lập tự do”… Đó là tư tưởng
sáng tạo của chiến tranh nhân dân “trường kỳ kháng chiến”, “vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc”; "lấy yếu đánh mạnh", "lấy ít đánh nhiều", "lấy nhỏ đánh lớn"; “càng đánh càng
mạnh, càng đánh càng thắng”. Trong đánh địch, với truyền thống lấy đại nghĩa thắng hung
tàn của dân tộc, Người không cho rằng trận thắng mà để chết nhiều người (cả ta và địch)
là trận thắng hay; đề cao công tác địch vận, “đánh mà chiếm được đồn là giỏi, nhưng không
đánh mà chiếm được đồn thì còn giỏi hơn…” -
Sáng tạo trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh còn thể hiện trong khởi đầu, kết
thúcchiến tranh và con đương đi đến thắng lợi. Biểu hiện đầy đủ nhất của tư tưởng này là
các câu thơ trong bài thơ chúc tết năm 1969: Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho Ngụy nhào. Tiến lên chiến sỹ đồng bào, Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn. Thực tế
giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước dã diễn ra đúng như thế.
6. Về phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ -
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò quan trọng của phát triển kinh tế ngay
sauCách mạng Tháng Tám qua câu nói: “Độc lập mà dân vẫn đói khổ thì độc lập cũng
chẳng để làm gì”. Đó là sự diễn đạt mới về mục đích, nhiệm vụ phát triển kinh tế là đảm
bảo và không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Xuất
phát từ đặc điểm của thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khi mức sống của nhân
dân còn rất thấp và con người là lực lượng sản xuất chủ yếu nhất, Người chủ trương: “Phát
triển kinh tế đến đâu, cải thiện đời sống nhân dân đến đấy”. lOMoAR cPSD| 61601435 -
Trong bối cảnh cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung đang được đề cao và thực
hiệnphổ biến, đồng loạt ở Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, Hồ
Chí Minh đã khẳng định sự tồn tại của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ. Người
viết: “Nền kinh tế Việt Nam tồn tại bốn hình thức sở hữu chính: Sở hữu của Nhà nước tức
là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu
của người lao động riêng lẻ; tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản”. “Trong chế độ
dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: A- Kinh tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã
hội, vì nó là của chung của nhân dân). B- Các hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và
sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội). C- Kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghiệp (có thể
tiến dần vào hợp tác xã, tức là nửa chủ nghĩa xã hội). D- Tư bản của tư nhân. E- Tư bản
của Nhà nước (như Nhà nước hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh). Nói về nền kinh
tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ, Người đã sớm nhấn mạnh vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế quá độ, khi viết: “Trong
năm loại ấy, loại A là kinh tế lãnh đạo và phát triển mau hơn cả. Cho nên kinh tế ta sẽ phát
triển theo hướng chủ nghĩa xã hội chứ không theo hướng chủ nghĩa tư bản”. -
Điểm sáng tạo trong tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh là sự nhấn mạnh về tiết kiệm
trongsản xuất và tiêu dùng, tăng gia sản xuất phải đi đôi với thực hành tiết kiệm. Người
coi “Tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân. Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết
kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Điểm nổi bật là tư tưởng của Người về chống tham ô, lãng
phí, quan liêu trong nền kinh tế, coi đó là những “giặc nội xâm”, đồng minh với giặc ngoại xâm.
7. Sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa -
Là “nhà văn hóa lớn kiệt xuất trên thế giới”, qua nghiên cứu, tích lũy trong cuộc đời
bônba khắp 4 phương trời, ngay từ năm 1943, trong những trang cuối của cuốn Nhật ký
trong tù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có một định nghĩa đầy đủ về văn hóa. Người viết: "Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, lOMoAR cPSD| 61601435
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn". Điều thú vị là định nghĩa văn hóa của
UNESCO mãi sau này mới có, có nội dung cơ bản giống như định nghĩa văn hóa do Hồ
Chí Minh nêu ra từ năm 1943. Trong những bài viết trước cách mạng Tháng Tám, Người
đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của nền văn hóa Việt Nam là “dân tộc, khoa học, đại
chúng”, bao quát cả truyền thống và cách mạng của nền văn hóa mới. -
Khi trở thành lãnh tụ, lãnh đạo đất nước, Người nhấn mạnh: Văn hóa là một trong
4lĩnh vực luôn luôn phải quan tâm thực hiện: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”; Văn hóa
là nền tảng tinh thần của xã hội; “Văn hóa soi đường quốc dân đi”. Yêu nước là nấc thang
giá trị cao nhất của dân tộc Việt Nam và của nền văn hoá Việt Nam. Với các lĩnh vực hoạt
động của văn hóa, Người coi "văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"; “văn hóa là một mặt trận và anh chị em
văn nghệ sỹ là chiến sỹ trên mặt trận ấy”.
8. Về đạo đức cách mạng cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư trong tư tưởng Hồ Chí Minh
- Vận dụng các tư tưởng đạo đức tốt đẹp của dân tộc và nhân loại là sáng tạo nổi bật của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tư tưởng về đạo đức. Khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu
của đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ các bậc vĩ nhân trong lịch sử nhân loại, như Đức
Phật Thích ca, Chúa Gie-su, Khổng tử, Lênin, Găng-đi, Tôn Dật tiên…đều là những con
người mẫu mực về đạo đức, cống hiến cuộc sống của mình cho loài người. Vận dụng những
giá trị đạo đức truyền thống của nhân loại, kết hợp với đạo đức cộng sản, Người khẳng
định vai trò quan trong hàng đầu của đạo đức: Đạo đức là gốc, “như gốc của cây, ngọn
nguồn của sông suối”; đạo đức là chỗ dựa của con người chân chính, khi có đạo đức thì
“giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Ngược
lại, “người không có đạo đức thì không làm nổi việc gì”... lOMoAR cPSD| 61601435
- Kết hợp những giá trị đạo đức truyền thống với đạo đức cộng sản Chủ tịch Hồ Chí Minhđã
đúc kết nên những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam thời đại mới. Từ
quan niệm đạo đức của Nho giáo “trung quân ái quốc, hiếu đễ với cha mẹ”, Người nêu
giá trị đạo đức mới là: Trung với nước, hiếu với dân. Từ truyền thống “bầu ơi thương lấy
bí cùng” của dân tộc, Người khẳng định phẩm chất đạo đức “Yêu thương con người, sống
có nghĩa có tình” của người cách mạng. Kế thừa giá trị đạo đức trong Nho giáo về “tu
thân”, Người khẳng định, trong quan hệ đối với mình, ai ai cũng phải “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư”. Trong điều kiện của thời đại mới, người cách mạng phải có tinh
thần quốc tế quốc tế trong sáng… Những phẩm chất đạo đức mới do Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu lên trên đây thể hiện sự vận dụng sáng tạo những tư tưởng đạo đức truyền thống
và hiện tại, làm khuôn mẫu ứng xử trong quan hệ với mình, với người, với việc của mỗi con người.
- Không chỉ nêu những tư tưởng về phẩm chất đạo đức, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ
rõnhững nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Đó là “Nói đi đôi với làm”; “Phải nêu gương
về đạo đức”; “Xây đi đối với chống” và “Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời”. Về sự cần thiết
phải tu dưỡng đạo đức suốt đời, Người viết: “Một đảng, một dân tộc và mỗi con người
ngày hôm qua là vĩ đại được mọi người yêu mến và ca ngợi không có nghĩa là hôm nay
vẫn được yêu mến và ca ngợi nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
9. Về giáo dục, chăm lo bồi dưỡng các thế hệ cách mạng cho đời sau -
Thấm nhuần truyền thống dân tộc và được giáo dục trong môi trường gia đình, cả
ôngngoại và cha đẻ cùng làm nghề dạy học, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rất rõ vị trí,
vai trò của giáo dục. Khi lãnh nhiệm vụ Chủ tịch nước, Người đặt việc “chống giặc dốt”
cũng cần như chống giặc đói và giặc ngoại xâm, khi khẳng định “một dân tộc dốt là một
dân tộc yếu”. Người coi nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài là một trong những công
việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc đó vì "Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần
phải có nhân tài"; “Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế
văn hoá. Trong việc đào tạo cán bộ, giáo dục là bước đầu"... Ở mức độ cao hơn, nói về vai
trò của giáo dục trong sự chấn hưng dân tộc, trong thư Người gửi học sinh nhân ngày khai lOMoAR cPSD| 61601435
trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, tháng 9-1945, có đoạn: “Non sông Việt Nam có
trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang sánh vai với
cường quốc năm châu hay không, điều đó phần lớn phụ thuộc vào công học tập của các em”. -
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của thế hệ trẻ với cách mạng và sự phát triển của
dântộc thể hiện sự sáng tạo mới. Người cho rằng thế hệ trẻ là lực lượng quyết định sự phát
triển của cách mạng, của dân tộc, khi ví: “một năm bắt đầu từ mùa xuân, một đời người
bắt đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của dân tộc”. Người yêu cầu thế hệ trẻ phải vươn
mình lên để hoàn thành trọng trách lịch sử đó đồng thời Đảng phải có trách nhiệm bồi
dưỡng thế hệ trẻ của Đảng.
Điểm đáng chú ý trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, bắt nguồn từ thực tiễn kinh
nghiệm của Người để quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho cách mạng,
cử học sinh đi ra nước ngoài học tập. Trong giai đoạn 1927-1941, tranh thủ sự hỗ trợ của
Quốc tế Cộng sản, Người đã gửi được một số thanh niên ưu tú sang học trường Đại học
Phương Đông ở Liên Xô. Sau chiến dịch Biên giới năm 1950 và thiết lập quan hệ ngoại
giao với các nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm cuối của cuộc kháng chiến chống
Pháp, Người đã gửi nhiều học sinh đi du học ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là ở Trung
Quốc và Liên Xô. Trong kháng chiến chống Mỹ, một số đông học sinh được gửi sang học
tại các nước xã hội chủ nghĩa, trở thành lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật nòng cốt trong
xây dựng đất nước sau chiến tranh và làm cầu nối hữu nghị với các nước thuộc Liên Xô
cũ, Đông Âu, dù cho chế độ xã hội ở các nước này đã thay đổi. Những năm 60 của thế kỷ
trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thành lập nhiều trường học sinh miền Nam trên
miền Bắc, đưa nhiều con em các cán bộ lãnh đạo đang chiến đấu ở miền Nam ra miền Bắc
đào tạo. Đây là lực lượng cán bộ rất quý báu xây dựng miền Nam sau ngày giải phóng 30.4.1975. -
Biểu hiện tập trung nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng các thế
hệcách mạng cho đời sau là lời dặn của Người trong bản Di chúc nổi tiếng: “ĐOÀN VIÊN
VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó lOMoAR cPSD| 61601435
khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”.
10. Sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đảng cộng sản và công tác xây dựng Đảng
- Nhờ có sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về điều kiện ra đời của đảng cộng sản ở các
nướcthuộc địa như Việt Nam đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930. Luận điểm chung của chủ nghĩa Mác - Lênin là: đảng cộng sản ra đời là sự kết hợp
giữa phong trào công nhân và chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong điều kiện Việt Nam, giai cấp
công nhân còn nhỏ bé, phong trào yêu nước đang tập hợp được tất cả các giai cấp, tầng
lớp nhân dân tham gia chống Pháp, để thành lập được đảng cộng sản phải bắt đầu từ sự
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào yêu nước, vào giai cấp công nhân, giác
ngộ họ, hình thành các tổ chức cộng sản. Sau này, Người tổng kết: Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời là “sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân
và phong trào yêu nước”.
- Từ đặc điểm, hoàn cảnh ra đời và nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với Đảng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã đặt tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Lao động Việt Nam, khẳng
định là “Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc Việt Nam”; “Đảng ta
là con nòi của dân tộc”. Mục đích của Đảng được Người khẳng định gồm 8 chữ là: “Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”.
- Tư tưởng về các nguyên tắc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Hồ Chí Minh là
sựvận dụng sáng tạo các nguyên tắc xây dựng đảng kiểu mới của của V.I. Lênin. Người
nêu rõ 5 nguyên tắc xây dựng Đảng là: (1) Tập trung dân chủ. (2) Tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. (3) Tự phê bình và phê bình. (4) Kỷ luật nghiêm minh và tự giác. (5)
Đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đặc biệt, Người rất đề cao xây dựng Đảng về đạo đức,
xác định mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
và đạo đức, để Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”. lOMoAR cPSD| 61601435
- Luận điểm về tự chỉnh đốn, tự đổi mới của Đảng là một điểm sáng tạo mới, thống
nhấttrong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện của một xã hội quá độ từ sản
xuất nhỏ, lạc hậu đi lên, Người chỉ rõ: Đảng ta như cơ thể sống, tồn tại trong xã hội,
không thể không chịu ảnh hưởng của xã hội, nhất là những hạn chế, thói hư tật xấu trong
xã hội. Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, Đảng phải “là đạo đức, là văn
minh” mới lãnh đạo được nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dựa vào dân để xây dựng
Đảng khẳng định mối quan hệ “máu thịt” giữa Đảng với nhân dân, với dân tộc và niềm
tin của Người vào nhân dân trong xây dựng Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống mở, mang bản chất khoa học và cách mạng, phải không
ngừng được đổi mới và phát triển. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, các giá trị tư tưởng, đạo đức, văn hóa của dân tộc và nhân loại vào thực tiễn Việt
Nam trong thế kỷ XX của Hồ Chí Minh đã hình thành nên tư tưởng vĩ đại mang tên Người: tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc của cách mạng Việt
Nam, nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử gắn liền với việc học tập
và làm theo tư tưởng của Người. Mở đầu, trong giai đoạn 1925-1945, học tập và làm theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn “Đường Kách mệnh” đã mang lại thắng lợi trong Cách
mạng Tháng Tám 1945. Từ 1945, khi Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc quán triệt và
thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” đã góp phần mang lại
thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tương tự như vậy, học tập và làm theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học
tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, toàn Đảng, toàn dân ta đã đi tới thắng lợi vĩ đại trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thực tế lịch sử cũng cho thấy, khi chúng ta thực hiện và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh
một cách đúng đắn, sáng tạo thì cách mạng giành được thắng lợi, thành công hoặc làm sai,
không đầy đủ, giáo điều… thì cách mạng gặp khó khăn, thất bại.
Cũng như chủ nghĩa Mác - Lênin, cái quý nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh là phương pháp
luận khoa học, xuất phát từ thực tiễn, nhất là thực tiễn Việt Nam để vận dụng và phát triển lOMoAR cPSD| 61601435
chủ nghĩa Mác - Lênin. Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng và phát triển
tư tưởng của Người trong mỗi giai đoạn cách mạng là công việc hết sức cần thiết. Dựa trên
những nguyên lý lý luận, quan điểm cơ bản, cốt lõi, phương pháp luận khoa học Hồ Chí
Minh để vận dụng, phát triển một cách sáng tạo trong giải quyết các vấn đề đặt ra của mỗi
giai đoạn cách mạng, không đơn giản, giáo điều, máy móc hay chủ quan, duy ý chí, vô
nguyên tắc là điều kiện của thành công trong học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay./.