Những ưu nhược điểm của chế giải quyết
tranh chấp trong WTO
1. Giai đon tham vn
Mục tiêu ưu tiên của DSU các thành viên liên quan giải quyết tranh chấp
với nhau theo cách thức phù hợp với các hiệp định của WTO (Điều 3.7 của
DSU). Do vậy, tham vấn song phương giữa c bên giai đoạn giải quyết
tranh chấp chính thức đầu tiên (Điều 4 của DSU). Các cuộc tham vấn song
phương tạo cho các bên một hội để thảo luận vấn đề tìm ra một giải
pháp thỏa đáng cho các bên không phải tranh tụng (Điều 4.5 của DSU).
Chỉ sau khi các cuộc tham vấn bắt buộc đó không đem lại được một giải pháp
thỏa đáng cho các bên trong vòng 60 ngày thì bên khiếu kiện thể đề nghị
được xét xử thông qua Ban Hội thẩm (Điều 4.7 của DSU). Ngay cả khi các
cuộc tham vấn thất bại, các bên vẫn luôn khả năng, hội tìm ra được
một nh thức hòa giải với nhau bất kỳ bước nào trong q trình giải quyết
tranh chấp sau đó.
Đến nay, đa số các tranh chấp trong WTO vẫn chưa đi quá các cuộc tham
vấn, một phần các bên tìm được giải pháp hòa giải thỏa đáng, hoặc bên
khiếu kiện quyết định không theo đuổi vấn đề xa hơn nữa các do khác.
Đề nghị tham vấn chính việc chính thức đưa một tranh chấp ra WTO
khởi động quá trình áp dụng các quy định giải quyết tranh chấp. Thành viên
khiếu kiện đưa ra đề nghị tham vấn với thành viên bị kiện nhưng cũng phải
thông báo đề nghị này tới quan giải quyết tranh chấp (DSB), các Hội đồng
Ủy ban giám sát Hiệp định liên quan (Điều 4.4 của DSU). Cũng theo Điều
này, một đề nghị tham vấn phải được đ trình bằng văn bản phải đưa ra
các lý do đề nghị, xác định c vấn đề gây tranh i chỉ ra các sở pháp
của bên khiếu kiện.
Trừ trường hợp các thỏa thuận khác, bên bị khiếu kiện phải trả lời đề ngh
tham vấn trong vòng 10 ngày phải bước vào tham vấn với thiện chí trong
khoảng thời gian không q 30 ngày sau ngày nhận được đề nghị tham vấn.
Nếu bên bị khiếu kiện không đáp ứng thời hạn trên, bên khiếu kiện ngay lập
tức thể tiến nh các bước để thể xét xử giải quyết tranh chấp đề
nghị thành lập một Ban Hội thẩm iều 4.3 của DSU).
Ngay cả trong trường hợp bên khiếu kiện cam kết tham vấn thì bên khiếu
kiện vẫn thể tiến hành đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm trong khoảng
thời gian sớm nhất 60 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị tham vấn, với
điều kiện vẫn chưa tìm được một giải pháp thỏa đáng nào trong quá trình
tham vấn.
Tuy nhiên, bước tham vấn th kết thúc sớm hơn nếu c bên ng cân
nhắc thấy rằng các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp (Điều
4.7 của DSU). Trong thực tế, các tranh chấp thường cho phép họ một
khoảng thời gian đáng kể dài hơn mức tối thiểu 60 ngày.
Trong trường hợp khẩn cấp bao gồm các vấn đề liên quan tới hàng hóa dễ
hỏng, các thành viên phải bước vào tham vấn trong khoảng thời gian
không quá 10 ngày sau ngày nhận được đ nghị tham vấn. Nếu các cuộc
tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong khoảng thời gian 20 ngày
kể từ ngày nhận được đề nghị thì bên khiếu kiện thể đề nghị thành lập một
Ban Hội thẩm (Điều 4.8 của DSU).
Một thành viên của WTO không phải bên khiếu kiện, không phải bên bị
khiếu kiện thể quan tâm đến vấn đề các bên tranh chấp đang thảo luận
trong các cuộc tham vấn của họ. Trong trường hợp đó, thành viên nói trên
được coi bên th ba trong các cuộc tham vấn. Thành viên đó thể đ
nghị tham gia các cuộc tham vấn nếu thấy lợi ích của họ bị tác động bởi c
cuộc tham vấn này.
2. Giai đon Hi thm
Nếu các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp thì bên khiếu kiện
thể đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm để t xử tranh chấp. Nội dung
của đ nghị thành lập Ban Hội thẩm rất quan trọng, theo Điều 7.1 của
DSU, đề nghị đó c định các điều khoản tham chiếu chuẩn cho việc xem xét
tranh chấp của Ban Hội thẩm.
Do đó, điều quan trọng phải soạn thảo đề nghị thành lập Ban Hội thẩm đủ
tính chính c để tránh làm cho bên b khiếu kiện phản đối ngay t đầu chống
lại khiếu kiện hoặc khiến cho Ban Hội thẩm từ chối xem xét đối với một vài
khía cạnh của đơn kiện.
Ngay cả sau khi Ban Hội thẩm đã được DSB thành lập thì việc xác định thành
phần của Ban Hội thẩm cần thiết WTO không Ban Hội thẩm thường
trực cũng như không các Hội thẩm viên thường trực thành phần các
Ban Hội thẩm được xác định tuỳ tính chất từng vụ việc (Điều 8 của DSU).
Ban Hội thẩm có thể gồm ba hoặc năm thành viên tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Các ứng cử viên Hội thẩm phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về chuyên
môn tính độc lập (các điều 8.1 8.2 của DSU). Khi Ban Thư WTO đ
xuất bổ nhiệm các nhân năng lực làm thành viên của Ban Hội thẩm, các
bên không được phản đối sự bổ nhiệm này trừ khi c do bắt buộc
(Điều 8.6 của DSU).
Các Hội thẩm viên làm việc độc lập với cách của nhân họ không
phải đại diện chính phủ hay tổ chức nơi họ làm việc.
Các thành viên WTO bị cấm không được đưa ra các ch đạo cho Hội thẩm
viên hoặc làm tác động tới họ liên quan đến tranh chấp đang giải quyết.
Trong trường hợp nhiều bên khiếu kiện, tức hơn một thành viên đề
nghị thành lập Ban Hội thẩm liên quan tới cùng một vấn đề, Điều 9.1 của
DSU sẽ được áp dụng, theo đó yêu cầu DSB nếu khả thi thì chỉ thiết lập một
Ban Hội thẩm để xem xét các khiếu kiện tính tới quyền của tất cả các
thành viên.
Một khi được thành lập xác định thành phần, Ban Hội thẩm bây gi tồn tại
như một thiết chế tập thể bắt đầu làm việc, trước tiên là đệ trình tài liệu
liên quan xét xử miệng. Sau đó Ban Hội thẩm nghị án chuẩn bị báo cáo
của Ban Hội thẩm.
3. Thông qua o o ca Ban Hi thm
Báo o của Ban hội thẩm ch hiệu lực ràng buộc khi đã được DSB thông
qua. Tuy nhiên, nếu một bên nào đó kháng cáo thì việc thông qua chưa
được thực hiện, còn chờ sự xem xét của quan Phúc thẩm.
Để được thông qua tại cuộc họp DSB, báo cáo của Ban Hội thẩm (mà không
bị kháng cáo) phải được đưa vào trong chương trình nghị sự của cuộc họp
DSB.
Trong trường hợp một trong hai bên (bên khiếu kiện bên bị khiếu kiện)
kháng cáo, vụ việc sẽ được xem xét lại cấp phúc thẩm, với những trình tự
thủ tục riêng cho giai đoạn này. Tuy nhiên, thủ tục xét xử phúc thẩm nhìn
chung phải hoàn tất trong vòng 60 ngày trong mọi trường hợp không được
vượt quá 90 ngày kể từ ngày nộp thông báo kháng cáo.
Sau khi DSB thông qua các báo cáo về việc xét xử vụ kiện, trong vòng 30
ngày, bên thua kiện phải thông báo cho DSB về dự định thực hiện các
khuyến nghị phán quyết của DSB.
4. Trình t phúc thm
Các bên tranh chấp thể kháng cáo các vấn đề pháp trong Báo cáo của
Ban hội thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên sở yêu cầu chính thức bằng văn
bản. Khi yêu cầu này thủ tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Trong q trình m việc của SAB, các Bên tranh chấp các Bên thứ ba
quyền đệ trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của
quan này. Hoạt động của SAB được giữ mật. Việc xem xét đưa ra Báo
cáo phải được thực hiện với sự tham gia của các Bên tranh chấp. quan
Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường
hợp yêu cầu gia hạn thì thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải
thông báo do cho DSB biết). Báo cáo này thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc
loại bỏ các vấn đề kết luận pháp của Ban hội thẩm. Các Bên không
quyền phản đối Báo cáo này. DSB thông qua Báo cáo của quan Phúc
thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được chuyển đến tất
cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.
5. Nhng ưu đim ca cơ chế gii quyết tranh ch
p trong WTO
chế giải quyết tranh chấp trong WTO như đã trình bày trên một số
ưu điểm lớn so với các phương thức giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế
nhiều điểm tiến bộ hơn trong tương quan với thủ tục giải quyết tranh
chấp trong GATT, tiền thân của WTO.
Thứ nhất, việc giải quyết được tiến hành thận trọng, qua hai bước bởi các
quan trung lập (Ban hội thẩm, quan phúc thẩm), đảm bảo giải quyết một
cách chính xác các tranh chấp. Đây lần đầu tiên trong một chế tài phán
giải quyết tranh chấp quốc tế xuất hiện một quan Phúc thẩm với các
hội xem xét lại quyết định ban đầu, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia
tranh chấp.
Thứ hai, chế này được tiến hành theo một quy trình chặt ch với c thời
hạn, ngắn, c định. Điều này cho phép các tranh chấp được giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo ý nghĩa của các biện pháp giải quyết đưa ra
đối với c bên, đặc biệt bên thắng cuộc (bởi một hội thương mại th
không còn ý nghĩa nếu biện pháp giải quyết đưa ra quá muộn màng).
Thứ ba, chế thông qua tự động (đồng thuận ph quyết) của DSB cho phép
các báo cáo được thông qua dễ dàng. chế này thật sự ý nghĩa trong
các trường hợp bên b xem biện pháp vi phạm qui định nước tiềm
lực kinh tế mạnh bởi áp lực các nước này thể tạo ra trong quá trình
thông qua quyết định sẽ không còn lớn như trước đây.
Thứ tư, chế này cho phép đưa ra giải pháp cuối cùng cho tranh chấp, bảo
đảm quyền lợi của Bên bị vi phạm, tránh những bế tắc không thể vượt qua
trong những phương thức giải quyết ngoại giao (ví dụ: tham vấn trong HĐTM).
Thứ năm, DSU nhiều qui định về thủ tục dành riêng cho các nước đang
phát triển hoặc kém phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này khi
tham gia thủ tục giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền lợi chính đáng hợp
pháp của mình.
6. Nhng nhưc đim ca cơ chế gii quyết tranh
chp trong WTO
Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng từ năm 1995 đến nay, chế giải quyết
tranh chấp trong WTO cũng đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, đặc biệt
đối với các nước đang phát triển, như:
Thứ nhất, phương thức đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận tiêu cực) đồng
nghĩa với việc hầu như các báo cáo (của Ban hội thẩm hoặc của quan 17
Phúc thẩm) đều được thông qua tại DSB. Điều này dẫn đến tình trạng các
báo o khuyến nghị được thông qua dễ dàng hơn nhiều nhưng khả ng
thực thi thì lại giảm sút.
Thứ hai, về nguyên tắc, nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện c
khuyến nghị của DSB t bên kia th u cầu DSB cho phép thực hiện c
biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, biện pháp trả đũa thể không ý nghĩa hoặc
ít hiệu quả nếu nước trả đũa nước đang phát triển.
Thứ ba, nhiều qui định được xem “ưu tiên” cho c nước đang phát triển
trong chế giải quyết tranh chấp của WTO ý nghĩa rất mờ nhạt trên thực
tế: qui định chỉ mang tính tuyên bố hơn qui định thực tế (ví dụ qui định
về nghĩa vụ của các Bên tranh chấp “đặc biệt lưu ý” đến quyền lợi của các
nước đang phát triển: nội hàm của khái niệm “đặc biệt lưu ý” không được qui
định rõ cũng không được xác định trong các báo cáo của các ban hội thẩm
hay của quan phúc thẩm); qui định trên thực tế rất ít hiệu quả (ví dụ
trách nhiệm trợ giúp pháp của Ban Thư WTO trên thực tế do một số ít
nhân thực hiện, không thể đáp ứng đủ nhu cầu to lớn về trợ giúp pháp
của các nước đang phát triển thành viên WTO).
Thứ tư, chế giải quyết tranh chấp trong WTO xu hướng thiên về các
yếu t kỹ thuật, pháp đòi hỏi các bên tham gia phải một đội ngũ chuyên
gia kinh tế, pháp giàu kinh nghiệm. Đối với các nước đang phát triển, đây
thực sự một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy các nước đang
phát triển khi tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO đều phải thuê các luật sư, chuyên gia vấn pháp chuyên
môn của nước ngoài với những mức chi phí mà không phải nước nào cũng
chấp nhận được.

Preview text:

Những ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO
1. Giai đon tham vn
Mục tiêu ưu tiên của DSU là các thành viên liên quan giải quyết tranh chấp
với nhau theo cách thức phù hợp với các hiệp định của WTO (Điều 3.7 của
DSU). Do vậy, tham vấn song phương giữa các bên là giai đoạn giải quyết
tranh chấp chính thức đầu tiên (Điều 4 của DSU). Các cuộc tham vấn song
phương tạo cho các bên một cơ hội để thảo luận vấn đề và tìm ra một giải
pháp thỏa đáng cho các bên mà không phải tranh tụng (Điều 4.5 của DSU).
Chỉ sau khi các cuộc tham vấn bắt buộc đó không đem lại được một giải pháp
thỏa đáng cho các bên trong vòng 60 ngày thì bên khiếu kiện có thể đề nghị
được xét xử thông qua Ban Hội thẩm (Điều 4.7 của DSU). Ngay cả khi các
cuộc tham vấn thất bại, các bên vẫn luôn có khả năng, cơ hội tìm ra được
một hình thức hòa giải với nhau ở bất kỳ bước nào trong quá trình giải quyết tranh chấp sau đó.
Đến nay, đa số các tranh chấp trong WTO vẫn chưa đi quá các cuộc tham
vấn, một phần vì các bên tìm được giải pháp hòa giải thỏa đáng, hoặc vì bên
khiếu kiện quyết định không theo đuổi vấn đề xa hơn nữa vì các lý do khác.
Đề nghị tham vấn chính là việc chính thức đưa một tranh chấp ra WTO và
khởi động quá trình áp dụng các quy định giải quyết tranh chấp. Thành viên
khiếu kiện đưa ra đề nghị tham vấn với thành viên bị kiện nhưng cũng phải
thông báo đề nghị này tới Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB), các Hội đồng
và Ủy ban giám sát Hiệp định liên quan (Điều 4.4 của DSU). Cũng theo Điều
này, một đề nghị tham vấn phải được đệ trình bằng văn bản và phải đưa ra
các lý do đề nghị, xác định các vấn đề gây tranh cãi và chỉ ra các cơ sở pháp lý của bên khiếu kiện.
Trừ trường hợp có các thỏa thuận khác, bên bị khiếu kiện phải trả lời đề nghị
tham vấn trong vòng 10 ngày và phải bước vào tham vấn với thiện chí trong
khoảng thời gian không quá 30 ngày sau ngày nhận được đề nghị tham vấn.
Nếu bên bị khiếu kiện không đáp ứng thời hạn trên, bên khiếu kiện ngay lập
tức có thể tiến hành các bước để có thể xét xử giải quyết tranh chấp và đề
nghị thành lập một Ban Hội thẩm (Điều 4.3 của DSU).
Ngay cả trong trường hợp bên khiếu kiện cam kết tham vấn thì bên khiếu
kiện vẫn có thể tiến hành đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm trong khoảng
thời gian sớm nhất là 60 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị tham vấn, với
điều kiện là vẫn chưa tìm được một giải pháp thỏa đáng nào trong quá trình tham vấn.
Tuy nhiên, bước tham vấn có thể kết thúc sớm hơn nếu các bên cũng cân
nhắc thấy rằng các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp (Điều
4.7 của DSU). Trong thực tế, các tranh chấp thường cho phép họ có một
khoảng thời gian đáng kể dài hơn mức tối thiểu là 60 ngày.
Trong trường hợp khẩn cấp bao gồm các vấn đề liên quan tới hàng hóa dễ
hư hỏng, các thành viên phải bước vào tham vấn trong khoảng thời gian
không quá 10 ngày sau ngày nhận được đề nghị tham vấn. Nếu các cuộc
tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong khoảng thời gian 20 ngày
kể từ ngày nhận được đề nghị thì bên khiếu kiện có thể đề nghị thành lập một
Ban Hội thẩm (Điều 4.8 của DSU).
Một thành viên của WTO không phải là bên khiếu kiện, không phải là bên bị
khiếu kiện có thể quan tâm đến vấn đề mà các bên tranh chấp đang thảo luận
trong các cuộc tham vấn của họ. Trong trường hợp đó, thành viên nói trên
được coi là bên thứ ba trong các cuộc tham vấn. Thành viên đó có thể đề
nghị tham gia các cuộc tham vấn nếu thấy lợi ích của họ bị tác động bởi các cuộc tham vấn này.
2. Giai đon Hi thm
Nếu các cuộc tham vấn không giải quyết được tranh chấp thì bên khiếu kiện
có thể đề nghị thành lập một Ban Hội thẩm để xét xử tranh chấp. Nội dung
của đề nghị thành lập Ban Hội thẩm là rất quan trọng, vì theo Điều 7.1 của
DSU, đề nghị đó xác định các điều khoản tham chiếu chuẩn cho việc xem xét
tranh chấp của Ban Hội thẩm.
Do đó, điều quan trọng là phải soạn thảo đề nghị thành lập Ban Hội thẩm đủ
tính chính xác để tránh làm cho bên bị khiếu kiện phản đối ngay từ đầu chống
lại khiếu kiện hoặc khiến cho Ban Hội thẩm từ chối xem xét đối với một vài
khía cạnh của đơn kiện.
Ngay cả sau khi Ban Hội thẩm đã được DSB thành lập thì việc xác định thành
phần của Ban Hội thẩm là cần thiết vì WTO không có Ban Hội thẩm thường
trực cũng như không có các Hội thẩm viên thường trực mà thành phần các
Ban Hội thẩm được xác định tuỳ tính chất từng vụ việc (Điều 8 của DSU).
Ban Hội thẩm có thể gồm ba hoặc năm thành viên tuỳ từng trường hợp cụ thể.
Các ứng cử viên Hội thẩm phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định về chuyên
môn và tính độc lập (các điều 8.1 và 8.2 của DSU). Khi Ban Thư ký WTO đề
xuất bổ nhiệm các cá nhân có năng lực làm thành viên của Ban Hội thẩm, các
bên không được phản đối sự bổ nhiệm này trừ khi có các lý do bắt buộc (Điều 8.6 của DSU).
Các Hội thẩm viên làm việc độc lập với tư cách của cá nhân họ mà không
phải là đại diện chính phủ hay tổ chức nơi họ làm việc.
Các thành viên WTO bị cấm không được đưa ra các chỉ đạo cho Hội thẩm
viên hoặc làm tác động tới họ liên quan đến tranh chấp đang giải quyết.
Trong trường hợp có nhiều bên khiếu kiện, tức là có hơn một thành viên đề
nghị thành lập Ban Hội thẩm liên quan tới cùng một vấn đề, Điều 9.1 của
DSU sẽ được áp dụng, theo đó yêu cầu DSB nếu khả thi thì chỉ thiết lập một
Ban Hội thẩm để xem xét các khiếu kiện có tính tới quyền của tất cả các thành viên.
Một khi được thành lập và xác định thành phần, Ban Hội thẩm bây giờ tồn tại
như một thiết chế tập thể và bắt đầu làm việc, mà trước tiên là đệ trình tài liệu
liên quan và xét xử miệng. Sau đó Ban Hội thẩm nghị án và chuẩn bị báo cáo của Ban Hội thẩm.
3. Thông qua báo cáo ca Ban Hi thm
Báo cáo của Ban hội thẩm chỉ có hiệu lực ràng buộc khi đã được DSB thông
qua. Tuy nhiên, nếu một bên nào đó có kháng cáo thì việc thông qua chưa
được thực hiện, vì còn chờ sự xem xét của Cơ quan Phúc thẩm.
Để được thông qua tại cuộc họp DSB, báo cáo của Ban Hội thẩm (mà không
bị kháng cáo) phải được đưa vào trong chương trình nghị sự của cuộc họp DSB.
Trong trường hợp một trong hai bên (bên khiếu kiện và bên bị khiếu kiện) có
kháng cáo, vụ việc sẽ được xem xét lại ở cấp phúc thẩm, với những trình tự
và thủ tục riêng cho giai đoạn này. Tuy nhiên, thủ tục xét xử phúc thẩm nhìn
chung phải hoàn tất trong vòng 60 ngày và trong mọi trường hợp không được
vượt quá 90 ngày kể từ ngày nộp thông báo kháng cáo.
Sau khi DSB thông qua các báo cáo về việc xét xử vụ kiện, trong vòng 30
ngày, bên thua kiện phải thông báo cho DSB về dự định thực hiện các
khuyến nghị và phán quyết của DSB.
4. Trình tphúc thm
Các bên tranh chấp có thể kháng cáo các vấn đề pháp lý trong Báo cáo của
Ban hội thẩm (yêu cầu phúc thẩm) trên cơ sở yêu cầu chính thức bằng văn
bản. Khi có yêu cầu này thủ tục phúc thẩm sẽ được bắt đầu.
Trong quá trình làm việc của SAB, các Bên tranh chấp và các Bên thứ ba có
quyền đệ trình ý kiến bằng văn bản hoặc trình bày miệng tại phiên họp của cơ
quan này. Hoạt động của SAB được giữ bí mật. Việc xem xét và đưa ra Báo
cáo phải được thực hiện với sự tham gia của các Bên tranh chấp. Cơ quan
Phúc thẩm ra Báo cáo trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kháng cáo (trường
hợp có yêu cầu gia hạn thì có thể kéo dài thêm 30 ngày nữa nhưng phải
thông báo lý do cho DSB biết). Báo cáo này có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc
loại bỏ các vấn đề và kết luận pháp lý của Ban hội thẩm. Các Bên không có
quyền phản đối Báo cáo này. DSB thông qua Báo cáo của Cơ quan Phúc
thẩm trong thời hạn 30 ngày kể từ khi Báo cáo của SAB được chuyển đến tất
cả các thành viên trừ khi DSB đồng thuận phủ quyết.
5. Nhng ưu đim ca cơ chế gii quyết tranh chp trong WTO
Cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO như đã trình bày ở trên có một số
ưu điểm lớn so với các phương thức giải quyết tranh chấp trong Luật quốc tế
và có nhiều điểm tiến bộ hơn trong tương quan với thủ tục giải quyết tranh
chấp trong GATT, tiền thân của WTO.
Thứ nhất, việc giải quyết được tiến hành thận trọng, qua hai bước bởi các cơ
quan trung lập (Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm), đảm bảo giải quyết một
cách chính xác các tranh chấp. Đây là lần đầu tiên trong một cơ chế tài phán
giải quyết tranh chấp quốc tế xuất hiện một Cơ quan Phúc thẩm với các cơ
hội xem xét lại quyết định ban đầu, đảm bảo quyền lợi của các bên tham gia tranh chấp.
Thứ hai, cơ chế này được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ với các thời
hạn, ngắn, xác định. Điều này cho phép các tranh chấp được giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, đảm bảo ý nghĩa của các biện pháp giải quyết đưa ra
đối với các bên, đặc biệt là bên thắng cuộc (bởi một cơ hội thương mại có thể
không còn ý nghĩa nếu biện pháp giải quyết đưa ra quá muộn màng).
Thứ ba, cơ chế thông qua tự động (đồng thuận phủ quyết) của DSB cho phép
các báo cáo được thông qua dễ dàng. Cơ chế này thật sự có ý nghĩa trong
các trường hợp bên bị xem là có biện pháp vi phạm qui định là nước có tiềm
lực kinh tế mạnh bởi áp lực mà các nước này có thể tạo ra trong quá trình
thông qua quyết định sẽ không còn lớn như trước đây.
Thứ tư, cơ chế này cho phép đưa ra giải pháp cuối cùng cho tranh chấp, bảo
đảm quyền lợi của Bên bị vi phạm, tránh những bế tắc không thể vượt qua
trong những phương thức giải quyết ngoại giao (ví dụ: tham vấn trong HĐTM).
Thứ năm, DSU có nhiều qui định về thủ tục dành riêng cho các nước đang
phát triển hoặc kém phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các nước này khi
tham gia thủ tục giải quyết tranh chấp bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mình.
6. Nhng nhược đim ca cơ chế gii quyết tranh chp trong WTO
Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng từ năm 1995 đến nay, cơ chế giải quyết
tranh chấp trong WTO cũng đã bộc lộ một số nhược điểm nhất định, đặc biệt
đối với các nước đang phát triển, như:
Thứ nhất, phương thức đồng thuận phủ quyết (hay đồng thuận tiêu cực) đồng
nghĩa với việc hầu như các báo cáo (của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan 17
Phúc thẩm) đều được thông qua tại DSB. Điều này dẫn đến tình trạng các
báo cáo khuyến nghị được thông qua dễ dàng hơn nhiều nhưng khả năng
thực thi thì lại giảm sút.
Thứ hai, về nguyên tắc, nếu bên vi phạm không tự nguyện thực hiện các
khuyến nghị của DSB thì bên kia có thể yêu cầu DSB cho phép thực hiện các
biện pháp trả đũa. Tuy nhiên, biện pháp trả đũa có thể không có ý nghĩa hoặc
ít có hiệu quả nếu nước trả đũa là nước đang phát triển.
Thứ ba, nhiều qui định được xem là “ưu tiên” cho các nước đang phát triển
trong cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO có ý nghĩa rất mờ nhạt trên thực
tế: có qui định chỉ mang tính tuyên bố hơn là qui định thực tế (ví dụ qui định
về nghĩa vụ của các Bên tranh chấp “đặc biệt lưu ý” đến quyền lợi của các
nước đang phát triển: nội hàm của khái niệm “đặc biệt lưu ý” không được qui
định rõ cũng không được xác định rõ trong các báo cáo của các ban hội thẩm
hay của cơ quan phúc thẩm); có qui định trên thực tế rất ít hiệu quả (ví dụ
trách nhiệm trợ giúp pháp lý của Ban Thư ký WTO trên thực tế do một số ít
cá nhân thực hiện, không thể đáp ứng đủ nhu cầu to lớn về trợ giúp pháp lý
của các nước đang phát triển là thành viên WTO).
Thứ tư, cơ chế giải quyết tranh chấp trong WTO có xu hướng thiên về các
yếu tố kỹ thuật, pháp lý đòi hỏi các bên tham gia phải có một đội ngũ chuyên
gia kinh tế, pháp lý giàu kinh nghiệm. Đối với các nước đang phát triển, đây
thực sự là một thách thức không nhỏ. Kinh nghiệm cho thấy các nước đang
phát triển khi tham gia tố tụng giải quyết tranh chấp thương mại trong khuôn
khổ WTO đều phải thuê các luật sư, chuyên gia tư vấn pháp lý và chuyên
môn của nước ngoài với những mức chi phí mà không phải nước nào cũng chấp nhận được.
Document Outline

  • Những ưu và nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh
    • 1. Giai đoạn tham vấn
    • 2. Giai đoạn Hội thẩm
    • 3. Thông qua báo cáo của Ban Hội thẩm
    • 4. Trình tự phúc thẩm
    • 5. Những ưu điểm của cơ chế giải quyết tranh chấp
    • 6. Những nhược điểm của cơ chế giải quyết tranh ch